LỜI MỞ ĐẦU
Trong quan hệ gia đình, quan hệ vợ chồng có vai trò đặc biệt quan trọng.
Quan hệ đó có tính chất bền vững vì vợ chồng cùng chung sống với nhau suốt đời,
sinh, nuôi dưỡng, giáo dục con cái vì quyền và lợi ích của gia đình và của cả xã
hội. Bên cạnh quan hệ về nhân thân, Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam còn điều
chỉnh mối quan hệ về tài sản phát sinh giữa vợ và chồng nhằm bảo đảm quyền và
lợi ích cá nhân của vợ hoặc chồng, đồng thời là cơ sở tạo điều kiện để vợ chồng
chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với tài sản của mình. Đặc biệt trong
đó là các quy định về các trường hợp chia tài sản của vợ và chồng. Để làm rõ hơn
về vấn đề này, em xin được tìm hiểu đề tài “Các trường hợp chia tài sản của vợ
chồng – những nét tương đồng và khác biệt”.
NỘI DUNG
I.Vấn đề chia tài sản chung của vợ và chồng
1.Tài sản chung của vợ và chồng.
Cuộc sống chung của vợ chồng khi quan hệ hôn nhân được xác lập đòi hỏi
phải có một khối tài sản nhằm đảm bảo nhu cầu đời sống của gia đình, nhu cầu về
tinh thần và vật chất của vợ chồng; nghĩa vụ chăm sóc lẫn nhau, chăm sóc và nuôi
dạy con cái…Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định tại điều 27 về tài sản
chung của vợ và chồng như sau:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập
do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những nhu cầu hợp pháp khác của
vợ chồng trong thời kì hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc
được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản
chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau thời kì kết hôn là tài sản chung
của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn,
được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất
2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật
quy định phải đăng kí quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải
ghi tên của cả vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ hoặc
chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản
chung”.
Tài sản chung của vợ chồng có thể được xác lập dựa vào nhiều nguồn gốc
khác nhau: đó là tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kì hôn nhân; tài sản
được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung; quyền sử dụng đất mà vợ chồng có
được sau khi kết hôn…Ngoài ra tài sản chung còn bao gồm những tài sản mà vợ
chồng thỏa thuận là tài sản chung; những tài sản không đủ chứng cứ xác định là tài
sản riêng. Vợ và chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về tài sản chung, cụ thể
hơn là bình đẳng trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
Tại khoản 2 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định:
“Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật
quy định phải đăng kí quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải
ghi tên của cả vợ chồng”.
Đây là một trong những quy định cụ thể của Luật hôn nhân và gia đình năm
2000 liên quan đến quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung.
2. Chia tài sản chung của vợ và chồng
Về vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng, Luật hôn nhân và gia đình năm
2000 đã kế thừa và phát triển Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 dự liệu ba
trường hợp chia tài sản chung của vợ và chồng. Đó là các trường hợp: chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân; chia tài sản chung của vợ chồng khi
vợ chồng ly hôn và chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ, chồng chết
trước hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết.
2.1 Chia tài sản trong thời kì hôn nhân
Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
“1. Khi hôn nhân còn tồn tại, trong trường hợp vợ, chồng đầu tư kinh doanh
riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng
có thể thỏa thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn
bản; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm chốn tránh thực hiện nghĩa vụ
về tài sản không được pháp luật công nhận”.
Quy định này được áp dụng từ Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 (Điều
18). Do nhiều điều kiện và nguyên nhân khác nhau, Luật hôn nhân và gia đình năm
1959 đã không đặt ra vấn đề này, mà tất cả tài sản của vợ hoặc chồng đều thuộc sở
hữu chung của cả hai người, không phân biệt tài sản chung và tài sản riêng. Vì thời
kì này, lợi ích cá nhân phải luôn gắn liền với lợi ích tập thể, không tồn tại nhiều
hình thức sở hữu và thành phần kinh tế như hiện nay. Tuy nhiên, khi Luật hôn nhân
và gia đình năm 1986 ra đời, trên cơ sở kế thừa và phát huy các quy định của Hiến
pháp năm 1980 về quyền sở hữu riêng của công dân đã công nhận quyền có tài sản
riêng của vợ chồng cũng như quyền được yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng,
trong thời kì hôn nhân còn tồn tại khi có lý do chính đáng và được Tòa án chấp
thuận.
2.2 Chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng li hôn
Trong việc giải quyết các hậu quả pháp lý của vấn đề li hôn, “vấn đề chia tài
sản chung của vợ chồng là điều cần thiết và đảm bảo điều kiện sống cho mỗi bên
sau li hôn. Song đây cũng là hậu quả pháp lí nặng nề nhất, chứng kiến sự tan rã
của toàn bộ các cơ sở tinh thần, vật chất của một gia đình với tư cách là tế bào
của xã hội1...
Điều 42 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã quy định các nguyên tắc
chia tài sản của vợ chồng khi li hôn, tuy nhiên do tính chất phức tạp của các quan
hệ xã hội nên việc áp dụng những quy định mang tính nguyên tắc chung này không
tránh khỏi gặp nhiều khó khăn và vướng mắc. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
đã dự liệu cụ thể hơn về các nguyên tắc chung khi xác định và chia tài sản riêng,
chung của vợ chồng; quyền lợi của những người có liên quan đến tài sản chung của
vợ chồng, nguyên tắc chia các loại tài sản, đặc biệt là các loại tài sản là nhà ở và
quyền sử dụng đất của vợ chồng tại điều 95 đến 99 của Luật này.
(1) Nguyễn Thanh Tâm (chủ biên): Li hôn – nghiên cứu trường hợp Hà Nội của Trung tâm nghiên cứu khoa học về
gia đình và phụ nữ, NXB Khoa học xã hội, 2002.
2.3 Chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ, chồng chết trước hoặc bị Tòa
án tuyên bố là đã chết.
Điều 17 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định “Vợ chồng có quyền
thừa kế tài sản của nhau”. Tuy nhiên, quy định này còn chung chung bởi vấn đề
quản lí di sản, phân chia di sản như thế nào không được quy định và đã gặp phải
khó khăn trong thực tế áp dụng. Điều 31 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã
quy định cụ thể hơn về quyền thừa kế tài sản giữa vợ và chồng nhằm mục đích tạo
cơ sở pháp lí cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của một bên vợ hay
chồng còn sống
Tại đó quy định:
“1. Vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp
luật về thừa kế.
2. Khi vợ và chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống
quản lí tài sản chung của vợ chồng trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người
khác quản lí
3. Trong trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản có ảnh
hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì
bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản trong một thời hạn
nhất định; nếu hết thời hạn do Tòa án xác định hoặc bên còn sống đã kết hôn với
người khác thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Tòa án cho chia di sản
thừa kế”.
II. Nét tương đồng và khác biệt giữa các trường hợp chia tài sản chung của vợ
chồng.
1.Những điểm tương đồng giữa các trương hợp chia tài sản chung của vợ
chồng
Tuy là chia tài sản trong những trường hợp khác nhau nhưng ta vẫn có thể
nhận thấy những điểm tương đồng của các trường hợp này.
Thứ nhất, trong cả ba trường hợp chia tài sản đã nêu trên, ta đều dễ nhận
thấy điểm chung lớn nhất đó là đều có sự tách rời tài sản ra khỏi khối tài sản chung
thành tài sản riêng của vợ hoặc của chồng.
Thứ hai, việc chia tài sản chung được giải quyết theo nguyên tắc bảo vệ lợi
ích chính đáng về tài sản của mỗi bên vợ - chồng hay quyền lợi của người thứ ba
tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng. Chia tài sản chung của vợ
chồng thành tài sản riêng thuộc quyền sở hữu của mỗi bên để đảm bảo quyền tự do
định đoạt số tài sản mà mình sở hữu, có thể đầu tư kinh doanh, thực hiện nghĩa vụ
dân sự riêng (trong trường hợp chia tài sản trong thời kì hôn nhân) hay để chăm
sóc, nuôi dưỡng con cái, dành cho nhu cầu ổn định lại cuộc sống sau khi li hôn
hoặc vợ (chồng) chết. Mặt khác việc chia tài sản này cũng đảm bảo quyền lợi cho
người thứ ba tham gia giao dịch có liên quan. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, người thứ ba tham gia giao dịch cần biết quyền sở hữu của vợ
chồng đối với tài sản để xác định phạm vi giao dịch, mức độ tài sản của vợ chồng
trong việc thực hiện nghĩa vụ. Quy định về việc chia tài sản không những tạo sự
công bằng, hợp lí cho cá nhân vợ, chồng mà còn bảo đảm sự an toàn về tài sản cho
người thứ ba.
Thứ ba, việc chia tài sản tuân theo nguyên tắc tự nguyện và thỏa thuận. Vợ
và chồng có thể tự quyết định thông qua sự thỏa thuận và sự đồng ý của cả 2 bên,
nếu không tự thỏa thuận được thì theo quyết định của tòa án.Việc vợ và chồng tự
thỏa thuận với nhau về việc chia tài sản chung sẽ phù hợp, thể hiện ý chí, nguyện
vọng của các bên và để tránh gây mâu thuẫn hay tranh chấp sau này. Đối với
trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ, chồng chết trước hoặc
bị Tòa án tuyên bố là đã chết, vợ chồng trước khi chết có quyền lập di chúc chung
để định đoạt phần tài sản trong khối tài sản của mình (Điều 663 Bộ luật dân sự
năm 2005); vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung thay thế, hủy bỏ di chúc khi có sự
đồng ý của người kia. Khi cả hai bên không có được sự thỏa thuận thì có thể yêu
cầu Tòa án giải quyết để tài sản được chia một cách công bằng và khách quan hơn.
2. Những điểm khác biệt giữa các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng
2.1 Về nguyên nhân chia tài sản
Trong trường hợp chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân, có rất nhiều
lí do chính đáng khiến vợ chồng muốn chia tài sản chung và được Tòa án chấp
thuận. Như:
•
•
•
•
Trong cuộc sống gia đình, vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, bất hòa nên
không muốn sống chung với nhau nhưng cũng không muốn li hôn mà
chỉ muốn ra ở riêng và chia tài sản chung. Vì vậy quy định này sẽ làm
giảm những mâu thuẫn và giữ hòa khí giữa các thành viên trong gia
đình.
Một số trường hợp vợ hoặc chồng muốn bỏ vốn đầu tư để kinh doanh
một lĩnh vực, mặt hàng nào đó mà không muốn dùng tài sản chung
của vợ chồng người còn lại không đồng ý sử dụng tài sản chung cho
mục đích ấy...Lúc đó người vợ hoặc chồng sẽ đề nghị chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân để lấy phần tài sản riêng
của mình ra làm vốn đầu tư kinh doanh.
Một trong hai người vợ hoặc chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự
riêng ví dụ như vợ hoặc chồng đã có một khoản nợ từ trước hoặc
trong thời kì hôn nhân, muốn chia tài sản chung ra nhằm thanh toán
khoản nợ mà mình đã vay do tài sản riêng không đủ để thanh toán hay
không có sự thỏa thuận giữa vợ và chồng về việc lấy tài sản chung để
trả nợ riêng.
...
Còn trong trường hợp chia tài sản chung khi li hôn, quan hệ vợ chồng
được chấm dứt khi được phán quyết của Tòa án có hiệu lực. Lúc này các quyền và
nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng phát sinh và gắn liền tương ứng trong quan hệ
vợ chồng từ khi kết hôn cũng hoàn toàn chấm dứt khi vợ chồng li hôn. Tài sản
chung của vợ chồng sẽ được chia để thực hiện nghĩa vụ nuôi dạy con cái hay để ổn
định cuộc sống riêng sau li hôn...
Trường hợp chia tài sản chung khi một bên vợ hoặc chồng chết trước
hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết. Về nguyên tắc, quan hệ hôn nhân chấm dứt
khi vợ, chồng chết hoặc khi quyết định của Tòa ấn về việc tuyên bố vợ, chồng chết
có hiệu lực pháp luật. Khi đó, tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia theo yêu
cầu của người chồng hoặc người vợ còn sống hoặc của những người thừa kế của
người vợ, chồng đã chết.
2.2 Về phương thức chia tài sản
Trường hợp chia tài sản trong thời kì hôn nhân
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 cho phép hai vợ chồng tự thỏa thuận
chia tài sản chung bằng văn bản hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết. Vợ hoặc chồng có
thể yêu cầu chia một phần hoặc toàn bộ số tài sản chung của vợ chồng trong thời kì
hôn nhân. Việc chia tài sản phải được lập thành văn bản, có đủ chữ kí của cả vợ và
chồng, văn bản có thể công chứng, chứng thực theo yêu cầu của bên vợ hoặc chồng
hoặc theo quy định của pháp luật. Theo Điều 6 Nghị định số 70/2001/NĐ – CP, văn
bản thỏa thuận phải đảm bảo các nội dung sau:
“a) Lí do chia tài sản;
b) Phần tài sản chia (bao gồm bất động sản, động sản, các quyền tài sản);
trong đó cần mô tả rõ những tài sản được chia hoặc giá trị phần tài sản
được chia;
c) Phần tài sản còn lại không chia, nếu có;
d) Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung;
đ) Các nội dung khác, nếu có”
Theo Điều 9, nếu vợ chồng đã chia tài sản chung mà sau đó muốn khôi phục
lại chế độ tài sản chung, thì vợ chồng phải thỏa thuận bằng văn bản và văn bản đó
phải có các nội dung như: Lí do chia tài sản chung, phần tài sản thuộc sở hữu
chung của vợ chồng, nếu có, thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục lại chế độ tài
sản chung và các nội dung khác nếu có.
Trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi li hôn
Khoản 1 Điều 95 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có quy định: “ Việc
chia tài sản khi li hôn do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu
cầu Tòa án giải quyết”.
Tại điểm a khoản 2 Điều 95 quy định: “Tài sản chung của vợ chồng về
nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài
sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản
này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như là lao động có thu
nhập”.
Để đảm bảo tính công bằng, sự phù hợp với nguyên tắc phân phối lao động;
không phải trường hợp nào khi quyết định, Tòa án đều “chia đôi” tài sản chung của
vợ chồng, mà còn cân nhắc đến sự đóng góp của vợ, chồng; hoàn cảnh cụ thể....để
chia tài sản một cách hợp lí nhất
Trường hợp chia tài sản của vợ chồng sống chung với gia đình mà li hôn,
điều 96 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có quy định:
“1. Trong trường hợp vợ, chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài
sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì
vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ
vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì phát triển khối tài
sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong
khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu không thỏa thuận
được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ
chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi
ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chi”.
Thực tế có rất nhiều đôi vợ chồng sau khi kết hôn lại sống chung với gia
đình chồng hoặc gia đình vợ theo phong tục tập quán ở một số địa phương, vùng
miền hay do hoàn cảnh gia đình... Khi li hôn, vợ chồng gặp nhiều khó khăn trong
việc chia tài sản. Trong trường hợp này, vợ chồng có thể thỏa thuận việc chia tài
sản với nhau và với gia đình. Nếu không thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án
giải quyết để đảm bảo quyền và lợi ích của vợ chồng và các thành viên khác trong
gia đình.
Trường hợp tài sản được chia là quyền sử dụng đất và nhà ở được quy định
rõ trong điều 97:
“1. Quyền sử dụng đất riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó.
2. Việc chia quyền sử dụng đất chung của vợ chồng khi ly hôn được thực
hiện như sau:
a) Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu cả
hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo
thỏa thuận của hai bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết
theo quy định tại Điều 95 của Luật này.
Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng
đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá
trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng;
...
d) Việc chia quyền sử dụng đối với các loại đất khác được thực hiện theo
quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật dân sự.
3. Trong trường hợp vợ, chồng sống chung với gia đình mà không có quyền
sử dụng đất chung với hộ gia đình thì khi ly hôn quyền lợi của bên không có quyền
sử dụng đất và không tiếp tục sống chung với gia đình được giải quyết theo quy
định tại Điều 96 của Luật này”.
Điều 98:
“Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu chung của vợ chồng có thể chia để
sử dụng thì khi ly hôn được chia theo quy định tại Điều 95 của Luật này; nếu
không thể chia được thì bên được tiếp tục sử dụng nhà ở phải thanh toán cho bên
kia phần giá trị mà họ được hưởng”.
Và được cụ thể hóa trong các điều 23 đến 29 của Nghị định số 70/2001/NĐ
– CP ngày 03/10/2001
Quyền sử dụng đất và nhà ở là tài sản có giá trị sử dụng cao vì vậy nên khi li
hôn, vấn đề chia quyền sử dụng đất và nhà ở là vấn đề gây nhiều mâu thuẫn và
tranh chấp. Việc quy định vấn đề này vào điều luật cụ thể của Luật Hôn nhân và
gia đình là thực sự đúng đắn. Tùy vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của vợ chồng,
loại đất là tài sản được đem chia... mà Tòa án quyết định việc chia tài sản giữa vợ
chồng khi li hôn, để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các đương sự
Trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ, chồng chết
trước, hoặc bị tuyên bố là đã chết
Bộ luật Dân sự có quy định hai hình thức thừa kế. Đó là: thừa kế theo di
chúc và thừa kế theo pháp luật.
Thừa kế theo di chúc được thực hiện theo ý chí của người để lại di sản cho
người được chỉ định trong di chúc, vì “di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân
nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết” (Điều 646 Bộ luật
Dân sự năm 2005). Vợ, chồng có quyền lập di chúc (Điều 648 Bộ luật Dân sự năm
2005) định đoạt phần tài sản của mình trong khối tài sản chung của vợ chồng cho
người vợ , chồng của mình hoặc cho người khác hưởng. Nếu người vợ, chồng chết
trước có để lại di chúc định đoạt phần tài sản của mình trong khối tài sản chung
cho người vợ, chồng của mình thì tài sản đó thuộc quyền sở hữu của người vợ,
chồng. Về nguyên tắc, tài sản chung của vợ hoặc chồng được chia đôi, phần tài sản
của người vợ, chồng chết sẽ được chia theo di chúc của người chết.
Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, theo điều kiện và trình
tự thừa kế do pháp luật quy định(Điều 674 Bộ luật Dân sự năm 2005). Dựa vào
mối quan hệ về hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng giữa người để lại di sản và
những người thừa kế di sản đó, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định ba hàng thừa kế
theo pháp luật, trong đó hàng thừa kế thứ nhất luôn bao gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ
đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người đã chết. Trong trường hợp vợ
hoặc chồng không để lại di chúc hoặc để lại di chúc không hợp pháp thì phần tài
sản của người vợ, chồng chết trước trong khối tài sản chung sẽ được chia theo
pháp luật.
Điều kiện để vợ chồng được hưởng tài sản thừa kế của nhau theo luật định
phải có quan hệ hôn nhân được pháp luật thừa nhận bao gồm hôn nhân hợp pháp
(có Giấy chứng nhận kết hôn, việc kết hôn phải tuân thủ các điều kiện kết hôn và
thủ tục đăng kí kết hôn) và hôn nhân thực tế.
2.3 Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản
Trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân
Về hậu quả pháp lý sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì
hôn nhân, Điều 30 Luật hôn nhân và gia đình 2000 quy định:
“Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần tài sản còn
lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng”.
Để cụ thể hóa vấn đề này, Điều 8 Nghị định số 70/2001/ NĐ – CP ngày
03/10/2001 còn quy định:
“1. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thì thuộc sở hữu riêng
của mỗi người, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản chung còn lại vẫn thuộc sở hữu
chung của vợ chồng.
2. Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập
hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ,
chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác”.
Khoản 2 Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng quy định
“Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ
về tài sản không được pháp luật công nhận”.
Để cụ thể hóa vấn đề này, Điều 11 Nghị định số 70/2001/NĐ – CP quy định:
“Theo yêu cầu của những người có quyền, lợi ích liên quan thì việc chia tài
sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ về tài sản sau đây
bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng người khác theo quy định của pháp
luật;
Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại;
Nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản doanh nghiệp;
Nghĩa vụ nộp thuế và nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước;
Các nghĩa vụ trả nợ cho người khác;
Các nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của pháp luật”.
Đây là quy định được đặt ra do trên thực tế, có nhiều trường hợp yêu cầu
chia tài sản chung không vì mục đích kinh doanh riêng hay những lí do chính đáng
khác mà nhằm mục đích lẩn tránh pháp luật, trốn tránh các nghĩa vụ về tài sản của
mình, dẫn đến ảnh hưởng tới quyền và lợi ích chính đáng của một bên vợ hoặc
chồng hoặc đối với người thứ ba (nghĩa vụ trả nợ, bồi thường thiệt hại, nuôi dưỡng,
cấp dưỡng cho người khác...)
Trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi li hôn
Theo khoản 1 Điều 95 đối với tài sản riêng của mỗi bên vợ hoặc chồng thì
vẫn thuộc quyền sở hữu của bên đó. Nếu có tranh chấp về tài sản riêng bên nào cho
rằng đó la tài sản riêng của mình, phải có nghĩa vụ chứng minh (có thể bằng sự
công nhận của bên kia hoặc bằng các giấy tờ xác nhận quyền sở hữu của mình);
Nếu không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài
sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung của vợ, chồng (khoản 3 Điều
27 Luật Hôn nhân và gia đình).Về vấn đề giải quyết quyền lợi của vợ chồng khi li
hôn đối với nhà ở thuộc sở hữu riêng, Nghị định số 70/2001/NĐ - CP đã chấp nhận
bảo đảm quyền lưu cư của vợ, chồng:
“Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng bên vợ, chồng đã đưa vào sử
dụng chung khi li hôn nhà đó vãn thuộc sở hữu riêng của chủ sở hữu nhà, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Bên vợ hoặc chồng sở hữu nhà có nghĩa
vụ hỗ trợ cho bên kia tìm chỗ ở mới; nếu bên kia có khó khăn và không thể tìm
được chỗ ở mới. Bên chưa có chỗ ở được lưu cư trong thời gian 6 tháng đẻ tìm chỗ
ở khác”. (khoản 1 điều 30)
Đối với tài sản chung đã được chia là của ai thì tài sản đó thuộc quyền sở
hữu của người đó. Lúc này họ có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với
tài sản, hưởng lợi tức, hoa lợi từ tài sản đó. Ngoài ra sau khi li hôn có thể phát sinh
một số nghĩa vụ liên quan đến việc sử dụng số tài sản được chia. Ví dụ như là
nghĩa vụ cấp dưỡng cho một bên vợ hoặc chồng , người không nuôi con phải đóng
góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con cái…
Trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ, chồng chết
trước hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định cụ thể về quyền quản lí di
sản: “Khi vợ và chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống
quản lí tài sản chung của vợ chồng trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người
khác quản lí”. Quy định trên là hợp lí do là tài sản chung của vợ chồng nên không
phân định rạch ròi phần sở hữu của mỗi người thì khi một bên chết trước thò người
còn sống có quyền quản lí khối tài sản chung. Tuy nhiên, sự quản lí của bên còn
sống chỉ trong phạm vi khai thác và sử dụng tài sản để hưởng hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ tài sản. Việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự liên quan đến việc định
đoạt tài sản phải được sự đồng ý từ những người thừa kế khác.
“Trong trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản có ảnh
hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì
bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản trong một thời hạn
nhất định; nếu hết thời hạn do Tòa án xác định hoặc bên còn sống đã kết hôn với
người khác thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Tòa án cho chia di sản
thừa kế”. Theo Điều 12 Nghị định số 70/2001/NĐ – CP của Chính phủ hướng dẫn
chi tiết thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Nghị quyết số
02/2000/NQ – HĐTP của hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, quyền yêu cầu
chia di sản thừa kế bị hạn chế trong các trường hợp cụ thể sau:
•
Việc chia tài sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống bên vợ hoặc
chồng còn sống được hiểu như sau: người chết để lại di sản cho người
•
•
thừa kế khác thì người còn sống và gia đình gặp nhiều khó khăn như
về chỗ ở, thu nhập...
Người yêu cầu chỉ có quyền yêu cầu xác định phần di sản mà họ được
hưởng và họ chỉ có quyền yêu cầu chia di sản sau một thời gian nhất
định, cụ thể là ba năm, nếu trong thời hạn này bên còn sống là người
vợ hoặc chồng của người đã chết chưa được kết hôn với người khác.
Nếu người thừa kế của bên vợ hoặc chồng có cuộc sống quá khó khăn,
không có khả năng lao động tự nuôi mình và không có người khác cấp
dưỡng thì Tòa sẽ xem xét, quyết định việc chia di sản thừa kế trên cơ
sở cân nhắc quyền lợi của bên còn sống và những người thừa kế khác.
Tòa án sẽ thụ lí yêu cầu di sản thừa kế đối với trường hợp được nêu
trên khi thuộc một trong các trường hợp: hết hạn do Tòa án xác định
hoặc bên còn sống đã kết hôn với người khác.
III. Thực tiễn áp dụng
Mặc dù có nhiều điểm tiến bộ hơn so với Luật hôn nhân và gia đình năm
1986, tuy nhiên trong thực tiễn áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 vẫn
còn tồn tại một số bất cập như sau:
Trường hợp chia tài sản trong thời kì hôn nhân
Nếu Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 (Điều 18) đã dự liệu về nguyên
tắc chia tài sản chung của vợ chồng thời kỳ hôn nhân (nếu vợ chồng không thỏa
thuận được) thì chia như khi vợ chồng ly hôn (tức là áp dụng nguyên tắc chia đôi
tài sản chung của vợ chồng là trước tiên, sau đó mới áp dụng các nguyên tắc áp
dụng các nguyên tắc khác theo Điều 42 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986), thì
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã không dự liệu về nguyên tắc chia (đôi) tài
sản chung của vợ chồng khi vợ chồng có yêu cầu. Có lẽ đây là một “khiếm khuyết”
của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Xuất phát từ đặc điểm của tài sản thuộc
sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng, trong đó tỷ lệ tài sản của mỗi bên vợ, chồng
trong khối tài sản chung là ngang nhau. Vì vậy, cần thiết phải quy định nguyên tắc
chia đôi tài sản chung của vợ chồng là trước tiên, sau đó mới xem xét tới các
nguyên tắc khác để chia tài sản chung cho công bằng, hợp lý (như dựa vào công
sức đóng góp của mỗi bên vợ, chồng, tình hình tài sản và tình trạng cụ thể của gia
đình..). Việc bổ khuyết này rất cần thiết, tạo cơ sở pháp lý thống nhất trong thực
tiễn áp dụng luật.
Ngoài ra pháp luật phải dự liệu cụ thể các vấn đề sau:
- Sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì hôn
nhân vẫn đang tồn tại trước pháp luật, các quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng vẫn
phải được bảo đảm thực hiện.
- Trường hợp vợ chồng thỏa thuận hoặc đã yêu cầu Tòa án chia hết tài sản
chung, nhưng vợ chồng vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng lẫn nhau (nếu một bên
túng thiếu, có yêu cầu cấp dưỡng và có lý do chính đáng); nghĩa vụ nuôi dưỡng các
con. Thế nhưng khối tài sản chung đã không còn, Luật cần dự liệu cụ thể vợ,
chồng tùy theo khả năng của mình mà có nghĩa vụ đóng góp phí tổn cho việc nuôi
dưỡng, giáo dục các con.
Trường hợp chia tài sản khi li hôn
Thứ nhất, cần phải xác định những tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do
lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác mà
mỗi bên vợ chồng có được kể từ khi vợ chồng có đơn yêu cầu li hôn được Tòa án
thụ lí và giải quyết. Những tài sản do vợ, chồng tạo ra trong thời gian Tòa án xét
xử vụ kiện li hôn và những tài sản của vợ, chồng tạo ra trong thời gian phát quyết li
hôn của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật được coi là tài sản riêng hay tài sản
chung của vợ chồng.
Thứ hai, thực tế khi vợ chồng có mâu thuẫn sâu sắc, trước khi li hôn, vợ
hoặc chồng thường có hành vi phá tán, giấu giếm tài sản, tiền bạc là tài sản chung
của vợ chồng. Mặt khác như trên đã phân tích tài sản chung vẫn có thể xác lập khi
vợ chồng đã nộp đơn li hôn hoặc trong thời gian phán quyết li hôn của Tòa án chưa
có hiệu lực.Vấn đề được đặt ra là làm thế nào để xác định thời điểm cuối cùng khi
tính xác lập tài sản chung, trên cơ sở đó nhà làm luật lựa chọn biện pháp đảm bảo
bảo khối tài sản chung của vợ chồng khi li hôn để phân chia.
Trường hợp chia tài sản khi một bên vợ, chồng chết trước hoặc bị
Tòa án tuyên bố là đã chết
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã không dự liệu về nguyên tắc chia
tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ, chồng chết trước. Tai điều 17 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã quy định nguyên tắc tài sản chung của vợ
chồng khi vợ, chồng chết trước là chia bình quân, mỗi bên một nửa giá trị tài sản
chung, không phụ thuộc vào công sức đóng góp của mỗi bên vợ, chồng trong việc
tạo lập, quản lí tài sản chung. Đây là điểm khác biệt của Luật Hôn nhân và gia
đình. Mặc dù tài sản chung của vợ chồng được chia đôi về nguyên tắc, nhưng Tòa
vẫn phải căn cứ vào công sức của mỗi bên từ đó vẫn có thể quyết định chia phần
tài sản chung cho một bên vợ, chồng với giá trị tài sản nhiều, ít khác nhau phụ
thuộc vào công sức.
KẾT LUẬN
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong cả ba trường hợp trong hôn nhân,
khi li hôn và khi một bên vợ, chồng chết trước hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết
đều là vấn đề quan trọng trong vấn đề quyền tài sản, gắn liền với quyền nhân thân.
Vì vậy, vấn đề này cần được các nhà làm luật nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện hơn
nữa. Đó là điều cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân vợ và
chồng, của cá nhân và toàn xã hội.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 1986.
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000.
Nguyễn Văn Cừ - Chế độ tài sản của theo pháp luật hôn nhân và gia đình
Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội – 2008.
Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 – Đinh
Thị Mai Hương (Chủ biên), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2004.