Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Khái quát về phá sản và thủ tục phá sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.54 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
Trang
4

MỞ ĐẦU
NỘI DUNG

4

I.

Khái quát về phá sản và thủ tục phá sản

4

II.

Thẩm quyền của Thẩm phán

6

1. Trong nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản

6

1.1.

Thụ lý đơn yêu cầu

6


1.2.

Mở thủ tục phá sản

8

1.3.

Hội nghị chủ nợ

10

2. Trong phục hồi hoạt động kinh doanh

11

3. Trong thanh lí tài sản, các khoản nợ

13

4. Trong tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản

15

KẾT LUẬN

17

TÀI LIỆU THAM KHẢO


18

3


MỞ ĐẦU
Ở bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới hiện nay, doanh nghiệp, hợp tác xã cũng
là một yếu tố cực kỳ quan trọng trong cấu trúc nền kinh tế. Ở Việt Nam, sự tồn tại của
một nền kinh tế nhiều thành phần đã dẫn đến sự tồn tại của nhiều loại hình doanh
nghiệp, hợp tác xã khác nhau với tư cách là “vỏ bọc” cho các thành phần kinh tế đó.
Có thể nói, doanh nghiệp, hợp tác xã là đơn vị cơ sở của nền kinh tế. Và sự điều chỉnh
của pháp luật đối với vấn đề này như một điều tất yếu, trong đó có pháp luật về phá
sản. Phù hợp với quy luật hình thành, phát triển và tiêu vong của tất cả các thực thể xã
hội, trong đó có doanh nghiệp, hợp tác xã, pháp luật về phá sản đã ra đời và luôn nhận
được sự chăm lo xây dựng, hoàn thiện của các nhà làm luật cũng như các nhà kinh tế.
Phá sản, theo Luật phá sản ở nước ta hiện nay, là một vấn đề kinh tế - pháp lý quan
trọng và thủ tục này do Tòa án – cơ quan tư pháp tiến hành. Trong quá trình tiến hành
thủ tục phá sản, Thẩm phán là người trực tiếp tham gia giải quyết các công việc được
đặt ra trên cơ sở thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình do pháp luật quy định.
NỘI DUNG
I.

Khái quát về phá sản và thủ tục phá sản

Dưới góc độ kinh tế, phá sản là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường. Phá
sản hình thành từ rất sớm trong lịch sử nhân loại (từ thời kỳ La Mã) nhưng chỉ thực sự
phát triển rồi trở nên phổ biến trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa. Là hiện tượng kinh tế
xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử nhưng phá sản hoàn toàn xa lạ với nền kinh tế tự
cung, tự cấp hay nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bởi ở đó không có sự tồn tại của
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, không có tự do kinh doanh, tức là

không có đầy đủ các tiền đề kinh tế – pháp lý để tạo ra sự cạnh tranh thực sự trên
thương trường, dù cạnh tranh là quy luật khách quan của xã hội. Trong nền kinh tế thị
trường, dù là tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa, lợi nhuận luôn là mục đích tối
cao mà mọi doanh nghiệp hướng đến, là cơ sở để doanh nghiệp tồn tại và là động lực
để doanh nghiệp lao vào quá trình cạnh tranh nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Dưới tác
động của quy luật cạnh tranh, một số doanh nghiệp mạnh dần lên, chiếm lĩnh thị
trường, ngược lại một số doanh nghiệp khác lại yếu đi, sản xuất, kinh doanh đình đốn,
nợ nần chồng chất, dẫn tới mất khả năng chi trả các nghĩa vụ về tài sản và thực chất đã
4


lâm vào tình trạng phá sản. Phá sản chính là thuật ngữ dùng để chỉ tình trạng đó của
doanh nghiệp.
Dưới góc độ pháp lý, phá sản là thủ tục tố tụng tư pháp đặc biệt. Là thủ tục tư
pháp, bởi phá sản được thực hiện bởi Tòa án, khác hoàn toàn với thủ tục hành chính
hay thủ tục lập pháp. Là thủ tục tư pháp đặc biệt, bởi phá sản có nhiều điểm đặc thù so
với các thủ tục cụ thể, cùng loại khác cũng được xếp vào nhóm thủ tục tư pháp như
thủ tục giải quyết vụ kiện dân sự hay vụ kiện kinh tế. Các đặc thù đó là:
Thứ nhất, thủ tục phá sản là một thủ tục đòi nợ tập thể.
Thứ hai, thủ tục phá sản được tiến hành trong một hoàn cảnh đặc biệt, như một
biện pháp cuối cùng của quá trình đòi nợ.
Thứ ba, thủ tục phá sản là thủ tục mà hậu quả của nó thường là sự chấm dứt
hoạt động của một thương nhân.
Thứ tư, thủ tục phá sản không chỉ thuần tuý là một thủ tục đòi nợ mà còn là một
thủ tục có khả năng giúp con nợ - doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản
phục hồi.
Thứ năm, thủ tục phá sản là một thủ tục pháp lý có tính chất tổng hợp.
Tóm lại, phá sản là thủ tục tố tụng tư pháp đặc biệt được xem xét trên hai bình
diện lớn là thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh với mục đích giúp doanh nghiệp
phục hồi, trở lại thương trường và thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ với mục đích

giúp doanh nghiệp rút lui khỏi thương trường một cách an toàn.
Theo Điều 5 Luật phá sản năm 2004, thủ tục phá sản được áp dụng đối với
doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản bao gồm các bước:
-

Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản;
Phục hồi hoạt động kinh doanh;
Thanh lý tài sản, các khoản nợ;
Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản.

Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, căn cứ vào quy định cụ thể của Luật
phá sản, Thẩm phán quyết định áp dụng một trong hai thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh hoặc thanh lý tài sản, các khoản nợ hoặc quyết định chuyển từ áp dụng thủ tục
phục hồi hoạt động kinh doanh sang áp dụng thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ hoặc
tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản
5


II.

Thẩm quyền của Thẩm phán

Nói đến thẩm quyền của Thẩm phán trong thủ tục phá sản là nói đến nhiệm vụ,
quyền hạn của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản. Theo khoản 3
Điều 8 Luật phá sản năm 2004, Thẩm phán hoặc Tổ Thẩm phán có nhiệm vụ, quyền
hạn giám sát, tiến hành thủ tục phá sản. Trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản,
nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Thẩm phán cung cấp tài liệu (bản sao) cho Viện
kiểm sát nhân dân cùng cấp để xem xét việc khởi tố về hình sự và vẫn tiến hành thủ
tục phá sản theo quy định của pháp luật. Như vậy, Thẩm phán có thẩm quyền – nhiệm
vụ, quyền hạn quan trọng nhất trong thủ tục phá sản là giám sát và tiến hành thủ tục

phá sản, cụ thể:
1. Trong nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản
1.1.

Thụ lý đơn yêu cầu

Sau khi nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản từ người có quyền nộp đơn
hoặc người có nghĩa vụ nộp đơn, nếu thấy cần sửa đổi đơn, bổ sung tài liệu thì Tòa án
yêu cầu người nộp đơn thực hiện việc sửa đổi, bổ sung trong thời hạn 10 ngày, kể từ
ngày nhận được yêu cầu của Tòa án.
Nếu doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản thuộc Danh mục
doanh nghiệp đặc biệt (doanh nghiệp trực tiếp phục vụ an ninh quốc phòng, doanh
nghiệp, hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm... ) do
Chính phủ quy định thì Tòa án chỉ thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi có đầy
đủ các điều kiện nộp đơn do Chính phủ quy định đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó.
Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, kể từ ngày người nộp đơn xuất trình biên
lai nộp tiền tạm ứng phí phá sản. Trường hợp người nộp đơn không phải nộp tiền
tạm ứng phí phá sản thì ngày thụ lý đơn là ngày Toà án nhận được đơn. Toà án phải
cấp cho người nộp đơn giấy báo đã thụ lý đơn.
Sau khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, việc tiến hành thủ tục phá sản sẽ
được giao cho một Thẩm phán hoặc Tổ Thẩm phán (gọi tắt là Thẩm phán) phụ trách.
Khoản 1 Điều 8 Luật phá sản năm 2004 quy định: “Việc tiến hành thủ tục phá sản tại
Toà án nhân dân cấp huyện do một Thẩm phán phụ trách, tại Toà án nhân dân cấp
tỉnh do một Thẩm phán hoặc Tổ Thẩm phán gồm có ba Thẩm phán phụ trách”. Các
6


trường hợp cần thiết thành lập Tổ Thẩm phán là: Trong quá trình tiến hành thủ tục phá
sản cần giải quyết tranh chấp về khoản nợ; phải tuyên bố giao dịch của doanh nghiệp,
hợp tác xã quy định tại khoản 1 Điều 43 Luật phá sản năm 2004 là vô hiệu; doanh

nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản có chi nhánh, văn phòng đại diện, có
bất động sản, có nhiều chủ nợ tại các tỉnh khác nhau…Bắt đầu từ đây, vai trò của Tòa
án sẽ được thể hiện thông qua việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán phụ
trách giải quyết vụ việc. Cụ thể:
Việc đầu tiên Thẩm phán phải làm là thông báo cho doanh nghiệp, hợp tác xã bị
yêu cầu mở thủ tục phá sản trong trường hợp chủ doanh nghiệp hoặc người đại diện
hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã đó không phải là người nộp đơn (Điều 23 Luật
phá sản năm 2004)
Ngoài ra, Thẩm phán phải gửi văn bản thông báo cho cơ quan thi hành án dân
sự biết và yêu cầu cơ quan đó ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án dân sự trong
trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã là người phải thi hành án dân sự về tài sản; gửi
văn bản thông báo cho Toà án đang giải quyết vụ án về tài sản mà doanh nghiệp, hợp
tác xã là một bên đương sự biết và yêu cầu Toà án đó ra quyết định tạm đình chỉ giải
quyết vụ án. Còn trường hợp có chủ nợ có bảo đảm yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm của
doanh nghiệp, hợp tác xã thì Thẩm phán phải thông báo cho họ biết về nguyên tắc
chung là việc xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã phải tạm đình chỉ.
Chỉ trong trường hợp có đầy đủ các điều kiện sau đây thì Thẩm phán có thể cho phép
xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã đối với chủ nợ có bảo đảm: Một
là, tài sản có yêu cầu xử lý là tài sản bảo đảm cho khoản nợ đã đến hạn; Hai là, việc
xử lý tài sản bảo đảm đó không làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, hợp tác xã; Ba là, người yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm có đơn yêu
cầu, trong đó trình bày các lý do của việc xin xử lý tài sản bảo đảm và xét thấy các lý
do đó là chính đáng, việc xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp đối với họ là cần
thiết.
Đặc biệt, sau khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, nếu nhận thấy việc giải
quyết phá sản không thuộc thẩm quyền của mình thì Thẩm phán sẽ quyết định chuyển

7



việc giải quyết phá sản cho Tòa án có thẩm quyền (khoản 1 Điều 26 Luật Phá sản năm
2004).
1.2.

Mở thủ tục phá sản

Theo Điều 28 Luật phá sản năm 2004, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày thụ lý
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Thẩm phán phải xem xét để ra một trong hai quyết
định: mở hoặc không mở thủ tục phá sản. Để ra được một trong hai quyết định trên,
Thẩm phán phải nghiên cứu hồ sơ một cách cẩn thận để xác định có hay không có căn
cứ chứng minh doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Theo Điều 3 Luật
phá sản năm 2004 và khoản 2 Mục I Nghị quyết số 03/2005/NĐ-HĐTP của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 28/04/2005 hướng dẫn thi hành một số quy
định của Luật phá sản thì doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là lâm vào tình trạng phá sản
khi có đầy đủ các điều kiện: có các khoản nợ đến hạn là các khoản nợ không có bảo
đảm hoặc có bảo đảm một phần đã được các bên xác nhận, có đầy đủ giấy tờ, tài liệu
chứng minh và không có tranh chấp và chủ nợ đã có yêu cầu thanh toán nhưng doanh
nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán. Nếu kiểm tra, xem xét mà không có
đồng thời cả hai điều kiện trên thì Thẩm phán ra quyết định không mở thủ tục phá sản,
còn không Thẩm phán quyết định mở thủ tục phá sản theo khoản 2 Điều 28 Luật phá
sản năm 2004. Trong trường hợp cần thiết, trước khi ra quyết định mở thủ tục phá sản,
Tòa án có thể triệu tập phiên họp với sự tham gia của người nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản, chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã bị
yêu cầu mở thủ tục phá sản, cá nhân, tổ chức có liên quan để xem xét, kiểm tra các căn
cứ chứng minh doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Quyết định mở
thủ tục phá sản phải có các nội dung chính quy định tại khoản 3 Điều 28 Luật phá sản
năm 2004. Sau đó, quyết định này phải gửi cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình
trạng phá sản, Viện kiểm sát cùng cấp, thông báo cho chủ nợ, người mắc nợ và đăng
trên báo địa phương nơi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản có địa
chỉ chính và báo hàng ngày của Trung ương trong ba số liên tiếp.

Sau khi ra quyết định mở thủ tục phá sản, một loạt các vấn đề pháp lý liên quan
đến giải quyết vụ việc được đặt ra và Thẩm phán tiếp tục phát huy vai trò chủ đạo của
mình bằng việc ra các quyết định cần thiết. Cụ thể:
8


Thứ nhất, theo Điều 9 Luật phá sản năm 2004, đồng thời với việc ra quyết định
mở thủ tục phá sản, Thẩm phán ra quyết định thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản để
làm nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng
phá sản. Để chuẩn bị cho việc thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản Thẩm phán sẽ gửi
công văn đến các cá nhân, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm yêu cầu họ cử người tham
gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Thành phần Tổ quản lý, thanh lý tài sản gồm: một
chấp hành viên của cơ quan thi hành án cùng cấp làm tổ trưởng, một cán bộ của Tòa
án, một đại diện chủ nợ, đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình
trạng phá sản. Trường hợp cần thiết có đại diện công đoàn, đại diện người lao động,
đại diện các cơ quan chuyên môn tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản thì Thẩm phán
xem xét, quyết định.
Thứ hai, theo Điều 30 Luật phá sản năm 2004, mọi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản vẫn được tiến hành
bình thường, song Thẩm phán và Tổ quản lý, thanh lý tài sản sẽ thực hiện việc kiểm
tra giám sát đối với mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã. Trong
trường hợp xét thấy người quản lý của doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng
điều hành hoặc nếu tiếp tục điều hành hoạt động kinh doanh sẽ không có lợi cho hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã thì Thẩm phán ra quyết định cử người
khác làm quản lý, điều hành doanh nghiệp theo yêu cầu của Hội nghị chủ nợ (khoản 2
Điều 30 Luật phá sản năm 2004). Ngoài ra, Điều 31 Luật phá sản năm 2004 còn quy
định các hoạt động mà doanh nghiệp, hợp tác xã bị cấm hoặc hạn chế kể từ ngày nhận
được quyết định mở thủ tục phá sản của Thẩm phán.
Thứ ba, Thẩm phán có thể ra quyết định áp dụng các biện pháp cần thiết theo
quy định của Luật phá sản năm 2004 nhằm bảo toàn tài sản của doanh nghiệp phục vụ

cho tiến trình giải quyết vụ việc. Luật phá sản năm 2004 quy định các biện pháp bảo
toàn tài sản, gồm có: tuyên bố các giao dịch đã được thực hiện là vô hiệu (Điều 43),
đình chỉ hợp đồng đang có hiệu lực (Điều 45) và áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời (Điều 55).
Thứ tư, theo Điều 57 Luật phá sản năm 2004, kể từ ngày Thẩm phán ra quyết
định mở thủ tục phá sản, việc thi hành án dân sự về tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác
9


xã lâm vào tình trạng phá sản là người phải thi hành án phải được đình chỉ. Việc giải
quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên
đương sự trong vụ án đó cũng phải bị đình chỉ.
1.3.

Hội nghị chủ nợ

Sau khi ra quyết định mở thủ tục phá sản, một trong những công việc quan
trọng nhất mà Thẩm phán phải thực hiện là triệu tập và chủ trì Hội nghị chủ nợ (trừ
trường hợp quy định tại Điều 78 Luật phá sản năm 2004). Điều 61 Luật phá sản năm
2004 quy định: Trường hợp việc kiểm kê tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào
tình trạng phá sản kết thúc trước ngày lập xong danh sách chủ nợ thì trong thời hạn 30
ngày, kể từ ngày lập xong danh sách chủ nợ, Thẩm phán phải triệu tập Hội nghị chủ
nợ; nếu việc kiểm kê tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã kết thúc sau ngày lập xong
danh sách chủ nợ thì thời hạn này tính từ ngày kiểm kê xong tài sản của doanh nghiệp,
hợp tác xã. Các Hội nghị chủ nợ tiếp theo có thể được Thẩm phán triệu tập vào bất kỳ
ngày làm việc nào trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản theo đề nghị của Tổ quản
lý, thanh lý tài sản hoặc của các chủ nợ đại diện cho ít nhất 1/3 tổng số nợ không có
bảo đảm. Hội nghị chủ nợ do Thẩm phán phụ trách tiến hành thủ tục phá sản chủ trì.
Theo Luật phá sản năm 2004, Thẩm phán có quyền quyết định hoãn Hội nghị
chủ nợ khi không đủ quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ 2/3 tổng số

nợ không có bảo đảm trở lên tham gia hoặc có quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm
có mặt tại Hội nghị chủ nợ biểu quyết đề nghị hoãn Hội nghị chủ nợ hoặc người có
nghĩa vụ tham gia Hội nghị chủ nợ quy định tại Điều 63 Luật phá sản năm 2004 vắng
mặt có lý do chính đáng.
Ngoài ra, Thẩm phán có quyền chỉ định người đại diện cho doanh nghiệp, hợp
tác xã tham gia Hội nghị chủ nợ trong trường hợp không có người đại diện cho doanh
nghiệp, hợp tác xã (khoản 2 Điều 63 Luật phá sản năm 2004), quyền kiểm tra, xem xét
điều kiện hợp lệ của Hội nghị chủ nợ theo Điều 65 Luật phá sản năm 2004.
Cuối cùng, theo Điều 67 Luật phá sản năm 2004, Thẩm phán ra quyết định
đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản khi có người tham gia Hội nghị chủ nợ vắng mặt
trong những trường hợp:

10


Một là, sau khi Hội nghị chủ nợ đã được hoãn một lần, nếu người nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản quy định tại Điều 13 và Điều 14 của Luật phá sản năm 2004
không tham gia Hội nghị chủ nợ được triệu tập lại;
Hai là, trường hợp chỉ có người quy định tại các Điều 15, 16, 17 và 18 của Luật
phá sản năm 2004 nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản mà người có nghĩa vụ tham gia
Hội nghị chủ nợ quy định tại Điều 63 của Luật phá sản năm 2004 không đến tham
gia Hội nghị chủ nợ mà không có lý do chính đáng;
Ba là, người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản rút lại đơn yêu cầu; nếu những
người quy định tại các Điều 13, 14, 15, 16, 17 và 18 của Luật phá sản năm 2004 nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản mà chỉ có một hoặc một số người rút lại đơn yêu cầu
thì Toà án vẫn tiến hành thủ tục phá sản.
2. Trong phục hồi hoạt động kinh doanh
Theo khoản 1 Điều 68 Luật phá sản năm 2004, Thẩm phán là người ra quyết định
áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh sau khi Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất
thông qua Nghị quyết đồng ý với các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, kế

hoạch thanh toán nợ cho các chủ nợ và yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải xây dựng
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh. Để thực hiện được thủ tục phục hồi hoạt
động kinh doanh, doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản phải xây dựng
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của mình và nộp cho Toà án trong thời hạn
30 ngày, kể từ ngày Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua Nghị quyết. Nếu thấy cần
phải có thời gian dài hơn thì phải có văn bản đề nghị Thẩm phán gia hạn và thời hạn
gia hạn không quá ba mươi ngày. Bất kỳ chủ nợ hoặc người nào nhận nghĩa vụ phục
hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã đều có quyền xây dựng dự
thảo phương án phục hồi hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp, hợp tác xã và nộp
cho Toà án.
Theo Điều 70 Luật phá sản năm 2004, Thẩm phán xem xét phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh trước khi đưa ra Hội nghị chủ nợ. Cụ thể, trong thời hạn 15 ngày,
kể từ ngày nhận được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, Thẩm phán phải xem
xét phương án phục hồi hoạt động kinh doanh. Nếu thấy phương án phục hồi kinh
doanh chưa đảm bảo các nội dung quy định tại Điều 69 của Luật phá sản năm 2004
11


thì Thẩm phán ra quyết định đề nghị sửa đổi, bổ sung phương án đó. Khi phương án
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá
sản đã nêu rõ các điều kiện, thời hạn và kế hoạch thanh toán các khoản nợ và đặc biệt
là nêu rõ các biện pháp cần thiết để phục hồi hoạt động kinh doanh như: huy động vốn
mới; thay đổi mặt hàng sản xuất, kinh doanh; đổi mới công nghệ sản xuất; tổ chức lại
bộ máy quản lý; sáp nhập hoặc chia tách bộ phận sản xuất nhằm nâng cao năng suất,
chất lượng sản xuất; bán lại cổ phần cho chủ nợ…. thì Thẩm phán ra quyết định đưa
phương án ra Hội nghị chủ nợ xem xét quyết định. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày
ra quyết định đó, Thẩm phán triệu tập Hội nghị chủ nợ để xem xét, thông qua phương án
phục hồi. Hội nghị chủ nợ xem xét, thảo luận và thông qua phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh theo Điều 71 Luật phá sản năm 2004.
Khi Nghị quyết về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh

nghiệp, hợp tác xã được thông qua (được quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm có
mặt đại diện cho từ 2/3 tổng số nợ không có bảo đảm trở lên biểu quyết tán thành) thì
Nghị quyết đó vẫn chưa có giá trị pháp lý mà cần được Thẩm phán ra quyết định công
nhận. Thẩm phán sẽ tiến hành xem xét và ra quyết định công nhận Nghị quyết đó.
Quyết định công nhận Nghị quyết về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản của Thẩm phán phải được gửi cho
doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản và các chủ nợ trong thời hạn 7
ngày, kể từ ngày ra quyết định. Quyết định này của Thẩm phán tạo ra giá trị pháp lý
cho Nghị quyết và Nghị quyết này có hiệu lực bắt buộc đối với các bên liên quan. Tổ
quản lý, thanh lý tài sản cũng giải thể sau khi Thẩm phán ra quyết định công nhận
Nghị quyết. Quyết định công nhận Nghị quyết của Thẩm phán phải được đăng báo vì
đó là cơ sở để tính thời hạn thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh – 3
năm, kể từ ngày cuối cùng đăng báo. Trong thời hạn thực hiện phương án phục hồi
kinh doanh, chủ nợ có nghĩa vụ giám sát việc thực hiện phương án, doanh nghiệp, hợp
tác xã định kỳ 6 tháng một lần báo cáo với Tòa án tình hình thực hiện của mình. Đồng
thời, trong quá trình thực hiện đó, chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã có quyền thỏa
thuận sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh và Thẩm phán tiếp

12


tục phát huy vai trò của mình là người ra quyết định công nhận sự thỏa thuận đó trước
khi đưa vào tổ chức thực hiện (Điều 75 Luật phá sản năm 2004).
Khi doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực hiện xong phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh hoặc có quá nửa số phiếu của các chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ
2/3 tổng số nợ không có bảo đảm trở lên chưa thanh toán đồng ý đình chỉ thì Thẩm phán
ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh. Sau đó, Thẩm phán phải
gửi và thông báo công khai quyết định này theo đúng quy định tại Điều 29 Luật phá sản
năm 2004. Quyết định này của Thẩm phán dẫn đến hệ quả là doanh nghiệp, hợp tác
xã đó được coi không còn lâm vào tình trạng phá sản và việc thi hành án dân sự hoặc

giải quyết vụ án bị đình chỉ theo Điều 57 Luật phá sản năm 2004 tiếp tục được thi
hành hoặc giải quyết.
3. Trong thanh lí tài sản, các khoản nợ
Theo Luật phá sản năm 2004, Thẩm phán là người ra quyết định áp dụng thủ tục
thanh lý và phân chia tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã khi có đủ những điều kiện
luật định. Nói cách khác, Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản là người có quyền
quyết định áp dụng song để áp dụng thủ tục này, Thẩm phán phải kiểm tra điều kiện
áp dụng thủ tục thanh lí tài sản, xem xét tiến hành những hoạt động khi tiến hành mở
thủ tục thanh lí tài sản. Cụ thể:
Theo Điều 78 Luật phá sản năm 2004, Thẩm phán có quyền quyết định áp dụng
thủ tục thanh lý tài sản ngay sau khi ra quyết định mở thủ tục phá sản mà không cần áp
dụng thủ tục phục hồi đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bị thua lỗ đã
được Nhà nước áp dụng biện pháp đặc biệt để phục hồi hoạt động kinh doanh, nhưng
vẫn không phục hồi được và không thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ
có yêu cầu.
Ngoài trường hợp đặc biệt trên, luật còn trao cho Thẩm phán quyền quyết định
áp dụng thủ tục thanh lí tài sản khi:
Thứ nhất, Hội nghị chủ nợ không thành, gồm các trường hợp:
Một là, chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã
không tham gia Hội nghị chủ nợ mà không có lý do chính đáng hoặc sau khi Hội nghị

13


chủ nợ đã được hoãn một lần nếu người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là chủ nợ
hoặc người lao động
Hai là, không đủ số chủ nợ theo quy định tham gia Hội nghị chủ nợ sau khi Hội
nghị chủ nợ đã được hoãn một lần nếu người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là
doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, chủ sở hữu doanh nghiệp nhà
nước, cổ đông công ty cổ phần hoặc thành viên hợp danh công ty hợp danh (Điều 79

Luật phá sản năm 2004)
Thứ hai, sau khi có Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất đồng ý với dự
kiến các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, kế hoạch thanh toán nợ và yêu
cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải xây dựng phương án phục hồi kinh doanh mà:
Một là, doanh nghiệp, hợp tác xã không xây dựng được phương án phục hồi
kinh doanh trong thời hạn 30 ngày (có thể gia hạn thêm 30 ngày), kể từ ngày Hội nghị
chủ nợ lần thứ nhất thông qua Nghị quyết đồng ý với dự kiến các giải pháp tổ chức lại
hoạt động kinh doanh, kế hoạch thanh toán nợ cho các chủ nợ; hoặc
Hai là, Hội nghị chủ nợ không thông qua phương án phục hồi kinh doanh của
doanh nghiệp, hợp tác xã, hoặc
Ba là, doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện không đúng hoặc không thực hiện
được phương án phục hồi kinh doanh, trừ trường hợp các bên liên quan có thỏa thuận
khác (Điều 80 Luật phá sản năm 2004)
Quyết định mở thủ tục thanh lí tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào
tình trạng phá sản của Thẩm phán phải được gửi cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào
tình trạng phá sản, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, thông báo cho chủ nợ, người
mắc nợ và đăng trên báo địa phương, báo trung ương trong ba số liên tiếp theo đúng
quy định tại Điều 29 Luật phá sản năm 2004. Quyết định này của Thẩm phán tiến
hành thủ tục phá sản hoàn toàn có thể bị khiếu nại, kháng nghị theo Điều 83 Luật phá
sản năm 2004. Việc giải quyết khiếu nại, kháng nghị đối với quyết định này của Thẩm
phán tiến hành thủ tục phá sản sẽ do Tổ Thẩm phán được cử bởi Chánh án Tòa án cấp
trên trực tiếp tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục, nội dung và thời hạn quy định tại
Điều 84 Luật phá sản năm 2004.

14


Quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản
khi có hiệu lực pháp luật sẽ do Tổ quản lý, thanh lý tài sản trực tiếp chịu trách nhiệm
thi hành. Trong quá trình thi hành quyết định mở thủ tục thanh lí tài sản, Thẩm phán

còn có quyền ra quyết định cho phép doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện một số hoạt
động cần thiết cho việc thanh lí tài sản hoặc làm tăng thêm khối tài sản của doanh
nghiệp hợp tác xã đó, theo đề nghị của Tổ trưởng Tổ quản lí, thanh lí tài sản (Điều 82
Luật phá sản năm 2004).
Cuối cùng, theo Điều 85 Luật phá sản năm 2004, Thẩm phán ra quyết định đình
chỉ thủ tục thanh lí tài sản trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không còn tài
sản để thực hiện phương án phân chia tài sản hoặc phương án phân chia tài sản đã
được thực hiện xong.
4. Trong tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản
Theo quy định của Luật phá sản năm 2004, Thẩm phán tiến hành thủ tục phá
sản là người ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản khi có đủ căn
cứ theo quy định của pháp luật. Cụ thể, Thẩm phán tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã
bị phá sản trong các trường hợp quy định tại Điều 86 và Điều 87 Luật phá sản năm
2004:
Thứ nhất, đồng thời với việc ra quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản,
Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã
bị phá sản. Trường hợp này là thủ tục phá sản thông thường.
Thứ hai, Thẩm phán ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
trong trường hợp đặc biệt quy định tại Điều 87 Luật phá sản năm 2004. Đó là trường
hợp doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản đã hoàn toàn không còn tài
sản hoặc còn tài sản nhưng không đủ để nộp tiền tạm ứng phí phá sản hoặc thanh toán
phí phá sản. Do vậy, Thẩm phán không thể tiến hành thủ tục phá sản theo các bước
thông thường mà phải theo thủ tục đặc biệt – thủ tục rút gọn và ra ngay quyết định
tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản. Cụ thể:
Một là, trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp tiền tạm ứng phí phá
sản do Tòa án ấn định, chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp,
hợp tác xã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản không còn tiền và tài sản khác để nộp
15



tiền tạm ứng phí phá sản thì Tòa án ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị
phá sản.
Hai là, sau khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và nhận các tài liệu, giấy
tờ do các bên có liên quan gửi đến, nếu doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng
phá sản không còn tài sản hoặc còn nhưng không đủ để thanh toán phí phá sản thì Toà
án ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản.
Theo Điều 90 Luật phá sản năm 2004, quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp
tác xã bị phá sản của Thẩm phán không miễn trừ nghĩa vụ về tài sản của chủ doanh
nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh đối với chủ nợ chưa được
thanh toán nợ, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác. Các nghĩa vụ về tài sản phát sinh sau khi có quyết định tuyên bố doanh nghiệp,
hợp tác xã bị phá sản được giải quyết theo quy định của pháp luật về thi hành án dân
sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp
tác xã bị phá sản, Toà án phải gửi và thông báo công khai quyết định theo quy định tại
Điều 29 Luật phá sản năm 2004. Cụ thể, Tòa án phải gửi quyết định này cho doanh
nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và phải
thông báo cho các chủ nợ, những người mắc nợ doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản,
đồng thời đăng quyết định đó trên báo địa phương nơi doanh nghiệp, hợp tác xã bị
tuyên bố phá sản có địa chỉ chính, báo hằng ngày của trung ương trong 3 số liên tiếp.
Cũng như quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản, quyết định tuyên bố doanh
nghiệp, hợp tác xã bị phá sản của Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản hoàn toàn có
thể bị khiếu nại, kháng nghị theo Điều 91 Luật phá sản năm 2004. Và các khiếu nại,
kháng nghị này sẽ do một Tổ Thẩm phán được chỉ định bởi Chánh án Tòa án cấp trên
trực tiếp giải quyết theo đúng thủ tục, nội dung và thời hạn quy định tại Điều 92 Luật
phá sản năm 2004.
Hết thời hạn khiếu nại, kháng nghị là 20 ngày mà không có khiếu nại, kháng
nghị thì quyết định tuyên bố doanh nghiệp hợp tác xã bị phá sản có hiệu lực pháp luật.
Và trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã
bị phá sản có hiệu lực pháp luật, Toà án phải gửi quyết định cho cơ quan đăng ký

16


kinh doanh để xoá tên doanh nghiệp, hợp tác xã trong sổ đăng ký kinh doanh; trong
trường hợp Toà án nhân dân tối cao ra quyết định giải quyết khiếu nại, kháng nghị
theo Điều 92 của Luật phá sản thì thời hạn có thể dài hơn, nhưng không quá 25 ngày.
Như vậy, quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản khi có hiệu
lực pháp luật là quyết định cuối cùng, chính thức chấm dứt sự tồn tại của doanh
nghiệp, hợp tác xã về phương diện pháp lý cũng như kết thúc việc giải quyết quan hệ
nợ nần trong vụ việc phá sản.
KẾT LUẬN
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường, phá sản luôn là một hiện tượng kinh tế pháp lý tất yếu, tồn tại khách quan. Vì vậy, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
sâu rộng và cạnh tranh gay gắt hiện nay, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
phá sản luôn là một yêu cầu quan trọng được đặt ra đối với mọi quốc gia, trong đó có
Việt Nam. Nó được ví như là một biện pháp để quốc gia thực hiện sự quản lý và bảo
vệ của mình đối với nền kinh tế quốc dân. Với Việt Nam, sự can thiệp của nhà nước
với nền kinh tế là tất yếu và quan trọng, bởi nước ta đang trong giai đoạn đầu của
công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì
vậy, việc trao cho Tòa án mà đại diện là Thẩm phán vai trò chủ đạo trong việc giải
quyết phá sản là phù hợp với những điều kiện khách quan của nền kinh tế - xã hội
Việt Nam. Toàn bộ các quy định của Luật phá sản năm 2004 đã chứng tỏ một điều là
thẩm quyền của Thẩm phán trong thủ tục phá sản là rất lớn. Thẩm phán có mặt trong
mọi giai đoạn của thủ tục phá sản và là người giữ vai trò chủ đạo, quyết định. Nếu so
với nhiều nước trên thế giới, việc pháp luật Việt Nam trao quyền qua lớn cho Thẩm
phán trong thủ tục phá sản như vậy là chưa phù hợp với xu thế chung, song điều đó là
cần thiết và phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay./.

17



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại (tập 2), Nxb. CAND,
Hà Nội, 2006
2. Dương Đăng Huệ, Pháp luật phá sản của Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội,
2005
3. Luật phá sản năm 2004
4. Nghị định của Chính phủ số 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006 hướng dẫn áp
dụng Luật phá sản với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức hoạt động của tổ quản
lí, thanh lí tài sản
5. Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao số 03/2005/NQHĐTP ngày 28/4/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật phá sản
6. Quyết định của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao số 03/2005/QĐ-TANDTC
ngày 27/4/2005 về quy chế làm việc của Tổ Thẩm phán phụ trách tiến hành thủ
tục phá sản
7. Bộ Tư pháp, Đề tài “Thực trạng pháp luật về phá sản và việc hoàn thiện môi
trường kinh doanh tại Việt Nam”, Hà Nội, 2008
8. />der_show_printing?p_itemid=830&p_printing_type=5&p_lang=vn
9. />option=com_content&view=article&id=1176%3Amt-s-bt-cp-ca-lut-pha-sn-nm2004-phn-2&catid=46%3Aphap-lut&Itemid=78&lang=vi
10. />
18



×