LỜI MỞ ĐẦU
Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền, căn cứ
vào các quy định pháp luật hiện hành, quyết định áp dụng các biện pháp xử phạt hành
chính và các biện pháp cưỡng chế hành chính khác (trong trường hợp cần thiết theo quy
định của pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính. Trên thực tế thẩm
quyền và thủ tục xử lý vi phạm hành chính ở nước ta hiện nay được quy định chi tiêt
trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007 và
2008). Mặc dù Pháp lệnh đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng so với Pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính năm 1995 về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính,
nhưng những quy định này mới đáp ứng được một phần yêu cầu của thực tế. Cùng với
việc nghiên cứu, xây dựng Luật xử lý vi phạm hành chính, những quy định của Pháp lệnh
về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính cũng cần được xem xét, sửa đổi, bổ
sung và nâng lên quy mơ Luật và quan trọng hơn, là để góp phần đáp ứng đòi hỏi của
thực tế trong việc nâng cao hiệu lực của quản lý nhà nước, đảm bảo quyền, lợi ích hợp
pháp của các cá nhân và tổ chức.
Chính vì điều này, trong bài tập lớn học kỳ em đã quyết định lựa chọn đề bài:
“Đánh giá tính hợp lý của pháp luật về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành
chính”.
1. Đánh giá tính hợp lý của pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
1.1.
Vấn đề trong cách quy định của pháp lệnh về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính.
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 đã quy định thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính bằng cách liệt kê các chức danh có thẩm quyền xử phạt, và với mỗi
chức danh cụ thể, Pháp lệnh quy định rõ hình thức, mức xử phạt và những biện pháp
cưỡng chế khác mà chủ thể đó được áp dụng trong khi xử phạt vi phạm hành chính. Cách
quy định này có ưu điểm là nó rất rõ ràng và dễ áp dụng tuy nhiên nó cịn chưa linh hoạt
để có thể theo kịp với những thay đổi về tổ chức trong các cơ quan quản lý cũng như thực
tiễn của công tác đấu tranh phịng chống vi phạm hành chính.
Thực tiễn quản lý cho thấy có những đơn vị thuộc cơ quan Nhà nước thành lập
hoặc chức danh trong cơ quan quản lý Nhà nước được quyết định sau thời điểm ban hành
1
(hoặc sửa đổi) Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính nên khơng được Pháp lệnh quy định
thẩm quyền xử phạt. Các chủ thể này đương nhiên khơng có thẩm quyền xử phạt, mặc dù
do hoạt động đặc thù họ có thể là người trực tiếp phát hiện các vi phạm hành chính. Cũng
có những lĩnh vực quản lý vào thời điểm Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính được ban
hành thì các vi phạm hành chính mới xuất hiện lẻ tẻ nên việc giới hạn thẩm quyền cho
một hoặc một số cơ quan quản lý là hợp lý, nhưng sau đó các vi phạm này gia tăng với
tốc độ rất nhanh, đòi hỏi phải mở rộng phạm vi thẩm quyền thì mới có thể xử lý kịp thời,
song việc sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính lại là một q trình phức
tạp và kéo dài.
Ví dụ: Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 khơng quy định thẩm quyền
xử phạt của cá nhân đứng đầu các cơ quan thuộc Bộ như cục trưởng Cục bảo vệ thực vật,
Cục thú y, Cục vệ sinh và an tồn thực phẩm, Cục phịng chống tệ nạn xã hội, và Cục
cảnh sát bảo vệ môi trường. Tuy với sự bổ sung của Pháp lệnh 04/2008/UBTVQH12, cục
trưởng Cục cảnh sát bảo vệ môi trường đã được giao thẩm quyền xử lý vi phạm hành
chính, song vẫn chưa có quy định nào về thẩm quyền xử phạt của cục trưởng các cục
khác nêu trên, dù cho nhiệm vụ quản lý của các cục này liên quan đến những vấn đề có
tính thời sự thu hút được sự quan tâm của Nhà nước và toàn xã hội.
Việc xử phạt các vi phạm hành chính có liên quan một cách nhanh chóng, kịp thời
sẽ khơng chỉ có tác dụng trấn áp, giáo dục, phòng ngừa mạnh mẽ, mà còn tạo ra sự ổn
định về trật tự xã hội.
1.2.
Vấn đề về thẩm quyền xử phạt của những người trực tiếp thi hành cơng vụ,
nhiệm vụ.
Trong vấn đề này thì Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 cịn tồn tại rất
nhiều hạn chế. Thứ nhất là những hạn chế thể hiện ở thẩm quyền áp dụng mức phạt tiền
của người trực tiếp thi hành cơng vụ, nhiệm vụ cịn quá thấp. Theo Pháp lệnh năm 2002,
những người trực tiếp thi hành công vụ, nhiệm vụ như chiến sĩ công an nhân dân, bộ đội
biên phòng, kiểm lâm viên, nhân viên thuế vụ chỉ được phạt tiền đến 100.000 đồng, đội
trưởng của những người này cũng chỉ có thẩm quyền phạt tiền đến 200.000 đồng, cũng
mức 200.000 đồng đối với chiến sĩ cảnh sát biển, kiểm soát viên thị trường, thanh tra viên
chuyên ngành. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 2008 đã nâng những mức tiền này lên cao
hơn, thành 200.000 đồng và 500.000 đồng, song vẫn chưa thật sự phù hợp.
2
Ví dụ: Theo Điều 20 Nghị định của Chính phủ số 150/2005/NĐ-CP ngày
12/12/2005 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an
tồn xã hội, thì hành vi vi phạm các quy định quản lý, bảo vệ đường biên giới, cột mốc,
dấu hiệu biên giới quốc gia có mức phạt tiền thấp nhất là 500.000 đồng, mức phạt này
không thuộc thẩm quyền của chiến sĩ bộ đội biên phòng, và chỉ vừa thuộc thẩm quyền đội
trưởng, trong khi đây mới là mức thấp nhất. Do vậy, trong khi tuần tra, nếu có phát hiện
vi phạm thì họ chỉ lập biên bản vụ việc rồi chuyển đến đồn trưởng đồn biên phòng để ra
quyết định xử phạt. Cùng với những trở ngại do địa hình đi lại khó khăn, các quy định
này của pháp luật là nguyên nhân cản trở hoạt động xử phạt của lực lượng bộ đội biên
phòng.
Thứ hai là nếu xem xét thẩm quyền trong mối quan hệ với thủ tục xử phạt thì các
quy định của pháp luật hiện hành cũng không thống nhất. Điều 54 Pháp lệnh năm 2002 đã
được sửa đổi theo Pháp lệnh 04/2008/UBTVQH12 năm 2008 quy định: “Trong trường
hợp xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 10.000 đồng đến 200.000 đồng thì người có thẩm
quyền ra quyết định xử phạt tại chỗ”. Quy định này được hiểu như sau: từ 10.000 đồng
đến 200.000 đồng là mức phạt với chủ thể vi phạm cụ thể, chứ không căn cứ vào mức
phạt tiền tối đa quy định cho hành vi vi phạm. Trong khi đó, với những vi phạm mà mức
tiền phạt tối đa quy định cho hành vi đó cao hơn thẩm quyền của những người trực tiếp
thi hành cơng vụ, nhiệm vụ, thì họ lại buộc phải lập biên bản để chuyển vụ việc vi phạm
đó cho cấp trên xử lý, mặc dù có thể trên thực tế chủ thể vi phạm chỉ bị xử phạt cảnh cáo
hoặc phạt tiền đến 100.000 đồng. Như vậy, mục đích đảm bảo nhanh gọn của việc quy
định thủ tục đơn giản đã không đạt được.
1.3.
Vấn đề quy định về thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính và thẩm quyền áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả.
Trên thực tế, quy định về thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính và thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả vẫn cịn rất nhiều bất hợp lí.
Theo quy định của Pháp lệnh thì các chức danh có thẩm quyền xử phạt ở cấp cơ sở hầu
như khơng có thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và áp dụng
các biện pháp khắc phục hậu quả. Điều này dẫn đến nhiều trường hợp xử lý không triệt
để hoặc không xử lý được vi phạm.
3
Ví dụ: theo quy định của Nghị định số 126/2005/NĐ-CP ngày 10/10/12005 quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng sản phầm.
hàng hố, thì hanh vi gian lận cân đơng hàng hố có giá trị nhỏ trong thương mại bán lẻ,
gây thiệt hại cho khách hàng thì ngồi việc bị xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền, còn bị tịch
thu phương tiện đo sai. Tuy nhiên, có khơng có thẩm quyền tịch thu tang vật vi phạm
(ngay cả khi chỉ là một cái cân ở trường hợp này) nên các chiến sẽ cơng an nếu phát hiện
thấy hành vi vi phạm thì cũng khơng có thẩm quyền xử phạt mà phải chuyển vụ việc lên
cấp trên.
Cũng theo quy định hiện hành thì thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu
quả cũng được quy định rất hạn chế. Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp xã, Trưởng Công an
cấp xã chỉ được áp dụng ba biện pháp khắc phục hậu quả là “Buộc khơi phục lại tình trạng ban
đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra”; “Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ơ
nhiễm mơi trường, lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra”; “Buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại
cho sức khoẻ con người, vật ni và cây trồng, văn hố phẩm độc hại”. Bên cạnh đó, xuất phát từ quan
điểm cho rằng “mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục kịp thời”, Pháp lệnh đã
trao cho Chính phủ thẩm quyền quy định các biện pháp khắc phục hậu quả khác mà trong Pháp lệnh chưa
quy định. Việc trao cho Chính phủ thẩm quyền này là rất đúng đắn, tuy nhiên vẫn tồn tại bất cập ở chỗ
Pháp lệnh chỉ trao cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh mới có thẩm quyền áp dụng các biện pháp khắc phục hậu
quả được quy định mới trong các Nghị định của Chính phủ, Điều này đã dẫn đến việc “vơ hiệu hố” thẩm
quyền xử phạt của hầu hết các chức danh khi hành vi vi phạm trong Nghị định của Chính phủ được quy
định thêm các biện pháp khắc phục hậu quả khác với pháp lệnh, và đương nhiên, tình trạng “vượt rào”
quy định các chức danh khác ngoài Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cũng có thẩm quyền áp dụng các
biện pháp khắc phục hậu quả loại này diễn ra trong một số Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính của
Chính phủ cũng là điều dễ hiểu, do những đòi hỏi bức xúc từ thực tiễn quản lý.
2. Đánh giá tính hợp lý của pháp luật về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.
2.1. Vấn đề trong thủ tục đơn giản.
Cho đến nay, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính vẫn duy trì hai loại thủ tục xử
phạt: thủ tục đơn giản và thủ tục có lập biên bản; tuy nhiên mức tiền xử phạt theo thủ tục
đơn giản đã được nâng từ 20.000 đồng (Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995)
lên 200.000 đồng (Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 2008). Việc nâng mức tiền phạt theo
thủ tục đơn giản là cần thiết để khắc phục tình trạng vụ việc vi phạm phải dồn lên cấp
trên giải quyết. Tuy nhiên, mức tiền được xử phạt là 200.000 đồng vẫn còn thấp, nhiều vụ
4
vi phạm chưa thể xử phạt theo thủ tục này. Theo quy định tại Điều 54 Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008), thủ tục đơn giản là
trường hợp xử phạt mà người có thẩm quyền xử phạt khơng lập biên bản mà ra quyết
định xử phạt tại chỗ. Những trường hợp được tiến hành xử phạt theo thủ tục đơn giản bao
gồm:
a) Hành vi vi phạm hành chính mà mức phạt quy định là cảnh cáo hoặc phạt tiền
đến 200.000 đồng;
b) Nhiều hành vi vi phạm hành chính do một người thực hiện mà hình thức và mức
phạt quy định đối với mỗi hành vi đều là phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 200.000 đồng.
Thông thường thủ tục đơn giản được áp dụng đối với vi phạm nhỏ, rõ ràng, khơng
có tình tiết phức tạp, cần phải xác minh thêm như vượt đèn đỏ, đi vào đường ngược
chiều. Đối với những trường hợp này, người có thẩm quyền xử phạt có thể ra quyết định
xử phạt ngay, cá nhân, tổ chức bị xử phạt có thể nộp phạt tại chỗ, vụ việc được giải quyết
nhanh chóng, trật tự quản lý cũng được nhanh chóng khơi phục. Do vậy, vẫn cần duy trì
thủ tục đơn giản khi xây dựng Luật xử lý vi phạm hành chính vì tính hiệu quả của nó
trong việc xử phạt đối với những vi phạm nhỏ, đơn giản trong một số lĩnh vực như trật tự,
an tồn giao thơng đơ thị, vệ sinh đường phố.
2.2. Vấn đề trong thủ tục có lập biên bản.
Áp dụng đối với những vi phạm tương đối nghiêm trọng mà hành vi vi phạm được
quy định mức phạt tiền từ 200.000 đồng trở lên.
2.2.1. Về người có thẩm quyền lập biên bản.
Quy định tại Điều 55 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002. Theo quy
định mới, người có thẩm quyền lập biên bản là người có thẩm quyền đang thi hành công
vụ thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, ngành, địa phương mình. Quy định trước đây
phù hợp với một số chức vụ, một số ngành (thanh tra chuyên ngành) nhưng lại tỏ ra chưa
hợp lý với yêu cầu “khi phát hiện vi phạm phải kịp thời lập biên bản” trong trường hợp
người đang thi hành cơng vụ là những người khơng có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính (như kiểm hố viên, nhân viên hải quan…). Để khắc phục vướng mắc này, khoản 1
Điều 55 Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 2008 được sửa đổi, bổ sung như sau: “ người có
thẩm quyền đang thi hành cơng vụ có trách nhiệm lập biên bản đối với vi phạm mà mình
phát hiện. Trong trường hợp vi phạm hành chính khơng thuộc thẩm quyền xử phạt của
5
người lập biên bản thì phải chuyển tới ngay người có thẩm quyền xử phạt để tiến hành xử
phạt”. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 2008 cũng bổ sung trường hợp người vi phạm cố
tình trốn tránh hoặc vì lý do khách quan mà khơng có mặt tại địa điểm xảy ra vi phạm thì
biên bản được lập xong phải có chữ ký của đại diện chính quyền cơ sở nơi xảy ra vi phạm
hoặc của hai người làm chứng.
2.2.2. Về nội dung của biên bản.
Điều 55 Pháp lệnh năm 2002 quy định nội dung của biên bản đã thể hiện rõ tính
khoa học, chặt chẽ và phù hợp với thực tế. Tuy nhiên, một số quy định của Nghị định số
134/2003/NĐ-CP (hướng dẫn thi hành Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002) và
mẫu biên bản để xử phạt (ban hành kèm theo Nghị định) lại quá dài, mất nhiều thời gian
ảnh hưởng đến kết quả xử lý vi phạm. Trong nhiều trường hợp, người có trách nhiệm xử
lý đã chuyển vụ việc về giải quyết theo thủ tục đơn giản với mức phạt thấp hơn nhiều để
tránh thủ tục lập biên bản, dẫn đến lọt nhiều hành vi vi phạm không được xử lý thoả
đáng. Qua thực tiễn thi hành pháp luật xử phạt vi phạm hành chính, nhiều Bộ, ngành, địa
phương cho rằng, các mẫu quyết định tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm, mẫu quyết
định xử phạt, mẫu biên bản đều rườm rà, chưa phù hợp với thực tế; biên bản tạm giữ tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính, theo quy định phải có hai người làm chứng, trên
thực tế áp dụng rất khó, đề nghị chỉ nên quy định một người làm chứng. Mẫu biên bản vi
phạm hành chính chưa hợp lý, vừa thừa, vừa thiếu, cụ thể: phần nội dung về điều, khoản
quy định hành vi vi phạm của tổ chức, cá nhân chỉ in một dòng nên khi có hai hành vi vi
phạm thì phải lập hai biên bản. Theo chúng tôi, khi đã sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh năm
2002 và dựa trên thực tế phát sinh, Nghị định của Chính phủ cũng cần sửa đổi, bổ sung
những quy định chưa hợp lý để bảo đảm tính hợp pháp và khả thi của Pháp lệnh.
2.2.3. Quyết định xử phạt, nội dung của quyết định xử phạt.
Quy định tại Điều 56 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002. Đây là
một trong những điều của Pháp lệnh được sửa đổi, bổ sung cơ bản theo quan điểm tạo
điều kiện cho cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt trong việc quyết định xử phạt nhưng
cũng phải bảo đảm quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức (vụ việc vi phạm, dù phức tạp,
cũng không thể quá kéo dài, gây ảnh hưởng không tốt đến sinh hoạt, đời sống, đến hoạt
động sản xuất, kinh doanh của cá nhân, tổ chức). Điều 56 Pháp lệnh năm 2002 quy định
ba loại thời hạn: 10 ngày đối với vụ việc đơn giản; 30 ngày đối với vụ việc phức tạp; đối
6
với vụ việc phức tạp, cần có thời gian xác minh thêm, thì người có thẩm quyền xử phạt
được xin gia hạn thêm 30 ngày nữa. Quá các thời hạn này, người có thẩm quyền xử phạt
khơng được ra quyết định xử phạt, trừ trường hợp xử phạt trục xuất. Điều 21 Nghị định
số 134/2003/NĐ-CP còn quy định cụ thể các trường hợp mà quá thời hạn, người có thẩm
quyền xử phạt không được ra quyết định xử phạt: trường hợp đã quá các thời hạn ra quyết
định xử phạt, đã hết thời hạn mà người có thẩm quyền xử phạt không xin gia hạn hoặc đã
xin gia hạn nhưng khơng được cấp có thẩm quyền cho phép gia hạn. Quá trình thực hiện
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính đã cho thấy, quy định này là phù hợp với thực tế.
Tuy nhiên, cũng còn ý kiến cho rằng, thời hạn 30 ngày là q ít vì nhiều vụ việc cần phải
có thời gian để xác minh, thu thập tài liệu liên quan đến nhiều đối tượng, nhiều địa bàn
hoặc một số đối tượng vi phạm hành chính sau khi lập biên bản vi phạm hành chính đã bỏ
đi khỏi địa phương trong thời gian dài, gây khó khăn cho việc xử lý.
Một khó khăn khi thực thi Điều 56 là việc Pháp lệnh và Nghị định số
134/2003/NĐ-CP chưa quy định cụ thể thủ trưởng trực tiếp có quyền gia hạn thêm thời
hạn ban hành quyết định xử phạt vi phạm. Trong trường hợp Chủ tịch UBND cấp tỉnh
cần gia hạn thời hạn ban hành quyết định xử phạt thì cần xin phép Thủ tướng Chính phủ
hay Bộ trưởng? Đây là vấn đề không phức tạp nhưng cũng cần được xem xét và quy định
rõ khi nghiên cứu, xây dựng Luật xử lý vi phạm hành chính.
2.2.4. Về xử lý tang vật, phương tiện bị tịch thu.
Trước đây, theo quy định tại Điều 52 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm
1995, đối với tang vật bị tịch thu sung quỹ nhà nước thì người ra quyết định tịch thu có
trách nhiệm bảo quản tang vật, phương tiện và chuyển cho cơ quan tài chính từ cấp huyện
trở lên để cơ quan này lập Hội đồng định giá và tổ chức bán đấu giá. Tuy nhiên, thực tế
nhiều khi phương tiện, tang vật của vụ vi phạm khi định giá để bán đấu giá theo cơ chế
nội bộ đã được đánh giá với mức thấp hơn giá trị thực, gây thất thốt tài sản Do đó, Điều
61 Pháp lệnh năm 2002 đã quy định theo hướng: đối với tang vật, phương tiện vi phạm
có giá trị dưới 10 triệu đồng thì người quyết định tịch thu phải chuyển cho cơ quan tài
chính cấp huyện tổ chức bán đấu giá; tang vật, phương tiện vi phạm có giá trị từ 10 triệu
đồng trở lên thì người quyết định tịch thu phải giao cho Trung tâm dịch vụ bán đấu giá
cấp tỉnh để bán đấu giá theo quy định của pháp luật. Quy định này đảm bảo tính cơng
khai, khách quan và chính xác trong khi xử lý tang vật, phương tiện vi phạm bị tịch thu.
7
Tuy nhiên, quy định này cũng cịn có điểm hạn chế: Thứ nhất, làm thế nào xác định được
giá trị tang vật, phương tiện vi phạm để chuyển cho cơ quan tài chính cấp huyện hoặc
Trung tâm bán đấu giá cấp tỉnh? Thứ hai, trong một số trường hợp tang vật, phương tiện
vi phạm bị tịch thu khó vận chuyển lên cấp tỉnh, nơi có trung tâm bán đấu giá để bán đấu
giá (như trường hợp tang vật là gỗ bị tịch thu). Để giải quyết vướng mắc thứ nhất, Điều
31 Nghị định số 134/2003/NĐ-CP quy định: sau khi tiến hành tạm giữ tang vật, phương
tiện vi phạm hành chính, xét thấy cần tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm mà không
xác định rõ giá trị tang vật, phương tiện đó thì người đã ra quyết định tạm giữ phải mời
đại diện cơ quan tài chính cùng cấp xem xét, đánh giá tang vật, phương tiện vi phạm.
Trường hợp tang vật, phương tiện vi phạm thuộc loại khó xác định hoặc chưa có ý kiến
thống nhất giữa người có thẩm quyền tịch thu và đại diện cơ quan tài chính thì người có
thẩm quyền quyết định tịch thu lập Hội đồng định giá tang vật, phương tiện vi phạm với
sự tham gia của đại diện Trung tâm dịch vụ bán đấu giá cấp tỉnh và đại diện cơ quan có
liên quan để định giá. Nếu trị giá tang vật, phương tiện vi phạm thuộc thẩm quyền của
người đã ra quyết định tạm giữ thì người đó tiến hành tịch thu theo quy định; nếu trị giá
tang vật, phương tiện vi phạm vượt quá thẩm quyền tịch thu của người đó thì phải chuyển
vụ vi phạm đến cấp có thẩm quyền xử phạt. Trị giá tang vật, phương tiện bị tịch thu đã
được xác định là căn cứ để xem xét, quyết định việc chuyển giao tang vật, phương tiện
cho Trung tâm bán đấu giá tài sản cấp tỉnh hoặc chuyển cho cơ quan tài chính cấp huyện
bán đấu giá. Về cơ bản, quy định này đảm bảo tính chặt chẽ về mặt pháp lý, tuy nhiên
tính khả thi cần được cân nhắc thêm bởi việc mời đại diện cơ quan tài chính cùng cấp
hoặc đại diện Trung tâm bán đấu giá cấp tỉnh đến để định giá là điều khó khăn và nhiều
khi khơng thể thực hiện được.
Để khắc phục một số khó khăn, vướng mắc vừa nêu, khoản 1, Điều 61 Pháp lệnh
năm 2002 được sửa đổi, bổ sung năm 2008 đã sửa đổi theo hướng phù hợp hơn: đối với
tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, trường hợp tang vật, phương tiện vi
phạm hành chính do người có thẩm quyền của cơ quan trung ương hoặc của cơ quan cấp
tỉnh ra quyết định tịch thu thì giao cho Trung tâm dịch vụ bán đấu giá cấp tỉnh, nơi cơ
quan của người có thẩm quyền ra quyết định tịch thu đóng trụ sở để bán đấu giá. Trường
hợp tang vật, phương tiện vi phạm hành chính do người có thẩm quyền của cơ quan cấp
huyện trở xuống ra quyết định tịch thu thì thành lập Hội đồng bán đấu giá của cấp huyện
8
để bán đấu giá. Việc bán đấu giá tang vật, phương tiện bị tịch thu được thực hiện theo
quy định của pháp luật về bán đấu giá. Đối với tang vật, phương tiện bị tịch thu mà
khơng bán được thì cơ quan của người có thẩm quyền ra quyết định tịch thu thành lập
Hội đồng để thanh lý tài sản theo quy định của pháp luật. Tiền thu được từ bán đấu giá
tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, sau khi trừ các chi phí theo quy định của pháp
luật phải được nộp vào ngân sách nhà nước qua tài sản mở tại kho bạc nhà nước.
2.2.5. Cưỡng chế thi hành quyết định xử lý vi phạm hành chính.
Đây cũng là một trong những vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính. Mặc dù các biện pháp cưỡng chế cũng như thẩm quyền ra quyết
định cưỡng chế đã được quy định cụ thể tại Điều 66 và Điều 67 Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính, nhưng việc cưỡng chế vẫn gặp những khó khăn nhất định do chưa có sự phối
hợp của các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế, như biện
pháp khấu trừ tiền từ tài khoản tại ngân hàng. Theo ý kiến của nhiều Bộ, ngành, địa
phương thì việc trừ tiền tại ngân hàng gặp khó khăn do các ngân hàng vì mục đích kinh
doanh, để bảo vệ khách hàng nên thường khơng muốn phối hợp, thực hiện việc cưỡng
chế nộp tiền phạt qua ngân hàng. Mặt khác, cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi
phạm hành chính là cơng việc khó khăn, phức tạp, trong khi đó trình tự, thủ tục cưỡng
chế chưa được ban hành cũng là vấn đề gây khó khăn, lúng túng cho cơ quan có thẩm
quyền xử phạt.
Khó khăn khác trong việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế là cơ quan có thẩm
quyền xử phạt khơng có lực lượng chuyên trách để thi hành các quyết xử phạt vi phạm
hành chính vì theo quy định tại Điều 67 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002
và Nghị định số 37/2005/NĐ-CP thì những người có thẩm quyền ban hành quyết định
cưỡng chế và có nhiệm vụ tổ chức việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm
của mình và của cấp dưới, các cơ quan chức năng của UBND có trách nhiệm thi hành
quyết định cưỡng chế của Chủ tịch UBND cùng cấp theo sự phân công của Chủ tịch, lực
lượng cảnh sát nhân dân chỉ có trách nhiệm bảo đảm trật tự, an tồn trong q trình thi
hành quyết định cưỡng chế của Chủ tịch UBND cùng cấp hoặc quyết định cưỡng chế của
cơ quan khác của Nhà nước khi được các cơ quan đó yêu cầu. Tuy nhiên, quy định này
khó khả thi vì cơ quan xử phạt, cơ quan chuyên môn thuộc UBND không đủ lực lượng để
tổ chức cưỡng chế. Việc ban hành quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi
9
phạm hành chính về lĩnh vực thuế khi đã áp dụng hết các biện pháp xử phạt như nộp
chậm, tạm đình chỉ sử dụng hố đơn lại gặp rất nhiều khó khăn trong thực hiện cưỡng chế
như: khơng có một cơ quan chuyên trách chịu trách nhiệm cưỡng chế thu hồi tiền cho
ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, ngành thuế phải tranh thủ sự ủng hộ của UBND các
cấp, của cơ quan bảo vệ pháp luật cùng phối hợp thực hiện nên q trình làm có lúc chưa
đồng bộ, mất nhiều thời gian, làm giảm hiệu lực pháp luật trong khi thi hành cưỡng chế.
Để khắc phục tình trạng này, Điều 114 Luật Quản lý thuế quy định xử phạt với mức phạt
tương ứng với số tiền phải nộp của người nộp thuế (bao gồm cả tiền phạt vi phạm pháp
luật về thuế) đối với ngân hàng, tổ chức tín dụng trong trường hợp tại thời điểm trích
chuyển, tài khoản tiền gửi của người nộp thuế có số dư đủ hoặc thừa so với số tiền thuế,
tiền phạt vi phạm pháp luật về thuế mà người nộp thuế phải nộp nhưng ngân hàng thương
mại, tổ chức tín dụng khác khơng thực hiện trích tồn bộ hoặc một phần tương ứng số
tiền phải nộp của người nộp thuế. Tinh thần này cũng đã được thể hiện trong Pháp lệnh
sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002.
KẾT LUẬN
Như vậy, qua những phân tích ở trên thì ta thấy rằng việc bổ sung một số nội dung
vào Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 là rất cần thiết để việc xử phạt được
tiến hành chính quy hơn, góp phần giảm bớt sai sót, qua đó quyền, lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức được bảo đảm. Mặt khác, cũng cần bổ sung thêm một số quy định nhằm
tăng thêm tính dân chủ trong q trình xem xét, quyết định xử phạt, như quy định về
quyền và nghĩa vụ của đối tượng vi phạm hành chính (quyền được xem xét các tài liệu,
hồ sơ vụ việc, quyền giải trình, xuất trình chứng cứ, đề đạt yêu cầu…). Các quy định này
rất cần thiết để tăng cường tính dân chủ, cơng khai trong q trình xem xét, quyết định xử
phạt vi phạm hành chính, góp phần đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ
chức; mặt khác cũng là cơ sở để giúp cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt ban hành
quyết định xử phạt được chính xác và khách quan.
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
10
- Trường đại học Luật Hà Nội – Giáo trình luật hành chính (NXB Cơng an
nhân dân – Hà Nội/2008).
- Trương Khánh Hoàn – Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính – Thực trạng
và hướng hồn thiện (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp – 11/2009).
- Một số các website:
+
+
11