Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

đánh giá tính hợp lý của các quy định hiện hành về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.77 KB, 12 trang )

1

A. MỞ ĐẦU
Vi phạm hành chính hiện nay đang ngày càng trở nên phổ biến và có chiều hướng trở
nên phức tạp hơn cả về số lượng về tính chất. Để hạn chế được tình hình này thì trước hết
chúng ta phải xem xét, đánh giá các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đã
hợp lý hay chưa? Từ đó đưa ra những phương hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề đó. Sự
hợp lý của các quy định pháp luật là tiền đề quan trọng để có thể hạn chế được vi phạm
hành chính. Xuất phát từ đánh giá này, em lựa chọn đề tài học kỳ số 6: “ đánh giá tính hợp
lý của các quy định hiện hành về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện
pháp khắc phục hậu quả”
B. NỘI DUNG
I. Đánh giá tính hợp lí của các hình thức xử phạt vi phạm hành chính.
1. Khái niệm hình thức xử phạt vi phạm hành chính.
Hình thức xử phạt vi phạm hành chính được hiểu là các biện pháp cưỡng chế nhà
nước áp dụng đối với cá nhân, tổ chức thực hiện vi phạm hành chính. Việc áp dụng các hình
thức xử phạt vi phạm hành chính sẽ đặt ra trách nhiệm pháp lý đối với đối tượng vi phạm
hành chính. Trách nhiệm pháp lý này là hậu quả pháp lý bất lợi mà đối tượng vi phạm hành
chính phải gánh chịu trước nhà nước. Hậu quả pháp lý bất lợi đó có thể là sự thiệt hại về tài
sản hoặc tinh thần hay hạn chế các quyền pháp lý của chủ thể.
2. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính.
Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính thể hiện sự răn đe, trừng phạt của pháp
luật đối với những cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm các quy tắc quản lý nhà nước thông
qua việc buộc người vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về vật chất hoặc tinh
thần, mang tính giáo dục đối với cá nhân, tổ chức bị xử phạt, góp phần nâng cao ý thức của
công dân trong việc chấp hành pháp luật và các quy tắc quản lý nhà nước. Khoản 1, khoản 2
và khoản 4 Điều 12 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 đã quy định các hình
thức xử phạt vi phạm hành chính:
"1. Đối với mỗi vi phạm hành chính, cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu một trong
các hình thức xử phạt chính sau đây:
a) Cảnh cáo;


b) Phạt tiền.
2. Tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính còn có
thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây:
a) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề;
b) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính.
...
4. Người nước ngoài vi phạm hành chính còn có thể bị xử phạt trục xuất. Trục xuất
được áp dụng là hình thức xử phạt chính hoặc xử phạt bổ sung trong từng trường hợp cụ
thể."


2

Theo quy định này của pháp luật, có hai hình thức xử phạt chính, một hình thức xử
phạt vừa là hình thức xử phạt chính, vừa là hình thức xử phạt bổ sung, vừa là hình thức xử
phạt bổ sung và hai hình thức xử phạt bổ sung.
3. Đánh giá tính hợp lý của các quy định về hình thức xử phạt vi phạm hành chính:
3.1. Hình thức xử phạt chính:
3.1.1 Cảnh cáo.
Điều 13 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính: “Cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân,
tổ chức vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ hoặc đối với mọi hành vi vi
phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh
cáo được quyết định bằng văn bản.”
Ví dụ: theo quy định tại khoản 1 điều 12 nghị định 99/2009/NĐ-CP của chính phủ về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản
quy định: “người chăn thả gia súc trong những khu rừng đã có quy định cấm thì bị xử phạt
như sau: 1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 1000.000 đồng nếu chăn thả
gia súc vào phân khu bảo vệ nghiêm nghặt của khu rừng đặc dụng….”. Như vậy, người vi
phạm hành chính trong trường hợp này có thể bị xử phạt vi phạm cảnh cáo với điều kiện
học vi phạm lần đầu và có tình tiết giảm nhẹ hoặc họ là người dưới 16 tuổi.

Thứ nhất, hình thức xử phạt cảnh cáo có mục đích giáo dục nhiều hơn là trừng
phạt:
Hình thức xử phạt cảnh cáo là một trong hai hình thức xử phạt chính trong xử phạt vi
phạm hành chính. So với hình thức phạt tiền, cảnh cáo là hình thức xử phạt nhẹ hơn, mang
ý nghĩa giáo dục nhiều hơn là trừng phạt. Mục đích của hình thức xử phạt cảnh cáo như vậy
cũng là phù hợp với đối tượng có hành vi vi phạm hành chính được áp dụng biện pháp xử
phạt này.
Đối tượng là người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi: mọi hành vi vi
phạm hành chính của đối tượng này chỉ bị áp dụng hình thức xử phạt chính là cảnh cáo.
Như vậy, đối tượng này về cơ bản thì nhận thức chưa phát triển toàn diện, cần được phải
giáo dục họ để họ nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật để lần sau họ
không vi phạm nữa thì tốt hơn là xử lý họ bằng hình thức phạt tiền. Bên cạnh đó, những
người này chưa có khả năng làm ra tài sản, do vậy, nếu áp dụng hình thức phạt tiền là
không hợp lý.
Đối tượng là người từ đủ 16 tuổi trở lên hoặc tổ chức vi phạm hành chính nhỏ, lần
đầu, có tình tiết giảm nhẹ: như vậy, những đối tượng này thì đều có thể nhận thức được
hành vi của mình là sai, tuy nhiên, mức độ vi phạm hành chính nhỏ, chưa gây thiệt hại vật
chất, mức độ xâm hại đối với trật tự quản lý nhà nước không lớn hoặc hành vi vi phạm hành
chính lần đầu do sơ suất hoặc tác động của nguyên nhân khách quan, hoặc thuộc trường hợp
có tình tiết giảm nhẹ. Chính vì vậy, việc áp dụng biện pháp cảnh cáo sẽ có ý nghĩa cảnh báo
cho đối tượng vi phạm biết trong trường hợp họ tái phạm thì họ sẽ bị áp dụng hình thức xử
phạt hành chính nghiêm khắc hơn.


3

Thứ hai, hình thức xử phạt cảnh cáo thể hiện thái độ răn đe nghiêm khắc của
nhà nước đối với những đối tượng có hành vi vi phạm hành chính
Mặc dù hình thức xử phạt hành chính cảnh cáo có tính chất giáo dục nhiều hơn là
trừng phạt, tuy nhiên, cảnh cáo cũng thể hiện thái độ răn đe nghiêm khắc của nhà nước đối

với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính, do đó vẫn mang tính cưỡng chế của nhà nước, gây
ra cho người bị xử phạt những tổn thất nhất định về mặt tinh thần.
Theo quy định tại điều 13 Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính 2002 sửa đổi, bổ
sung năm 2007, 2008 thì “cảnh cáo được quyết định bằng văn bản”. Chỉ khi cảnh cáo được
thực hiện bằng quyết định xử phạt thì việc cảnh cáo đó mới có giá trị pháp lý và được xem
là một hình thức xử phạt vi phạm hành chính.
Thứ ba, mặc dù hình thức cảnh cáo ít được áp dụng trên thực tế, nhưng điều đó
không phải vì hình thức xử phạt cảnh cáo không có ý nghĩa, không cần thiết mà lý do
chính ở đây lại xuất phát từ sự tiêu cực trong quá trình áp dụng pháp luật của những người
có thẩm quyền cũng như việc ý thức chưa cao từ những người bị xử phạt. cụ thể là những
người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thường có xu hướng muốn phạt nặng
những người có hành vi vi phạm ngay cả khi vi phạm đó chỉ đáng áp dụng hình thức xử
phạt cảnh cáo (quan niệm tuyệt đối hoá vai trò của phạt tiền). Bên cạnh đó, bản thân đối
tượng bị xử phạt thấy hình thức cảnh cáo chưa nhận thức hết được ý nghĩa của hình thức xử
phạt cảnh cáo nên dẫn tới tâm lý coi thường.
3.1.2 Phạt tiền.
Phạt tiền là hình thức xử phạt được quy định tại điểm b khoản 1 điều 12 và điều 14
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Theo quy định của pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính 2002 sửa đổi, bổ sung 2008 thì mức phạt tối thiểu là 10.000 đồng và mức phạt tối đa
là 500.000.000 đồng.
Thứ nhất, hình thức phạt tiền có vai trò rất lớn trong việc đấu tranh phòng chống
vi phạm hành chính.
Phạt tiền là một trong hai hình thức xử phạt chính, được coi là hình thức xử phạt chủ
yếu trong xử phạt vi phạm hành chính. Trong hai hình thức xử phạt, phạt tiền được áp dụng
phổ biến hơn, với đa số vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước. Phạt tiền là
việc tước bỏ của cá nhân, tổ chức một khoản tiền nhất định để bổ sung vào quỹ nhà nước.
Phạt tiền tác động trực tiếp đến vật chất, lợi ích kinh tế của cá nhân, tổ chức vi phạm, gây
cho họ hậu quả bất lợi về tài sản. chính vì lý do này, hình thức xử phạt này có hiệu quả rất
lớn trong việc đấu tranh phòng chông vi phạm hành chính.
Thứ hai, pháp luật quy định mức phạt tối thiểu và mức phạt tối đa phù hợp với

các điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước, tính chất đặc thù của từng ngành nghề, và
tính chất, mức độ vi phạm.
Mức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính được quy định dựa trên sự đánh giá
của nhà nước về mức độ xâm hại của vi phạm hành chính đối với trật tự quản lý nhà nước,
đồng thời, còn được quy định dựa trên cơ sở tồng kết thực tiễn áp dụng hình thức phạt tiền


4

và hiệu quả của nó trong đấu tranh phòng chống vi phạm hành chính nhằm đảm bảo tính
hợp lý, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội. Nếu quy định mức phạt tiền quá cao sẽ không
phù hợp với điều kiện kinh tế chung của toàn xã hội, nếu quy định mức phạt tiền thấp sẽ
không phát huy được tác dụng hữu hiệu của việc phạt tiền, khiến cá nhân, tổ chức bị xử
phạt có thái độ “khinh nhờn” pháp luật. Từ khi mức pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính
năm 1989 được ban hành, mức phạt tiền đã liên tục được sửa đổi để đảm bảo tinh thần này.
Pháp luật quy định mức phạt tiền tối đa trong từng lĩnh vực cụ thể. Điều này là hợp
lý, bởi lẽ, trong mỗi lĩnh vực quản lý nhà nước, có nhiều vi phạm hành chính khác nhau, có
những vi phạm hành chính nhỏ chỉ cần áp dụng mức phạt thấp đã có thể đảm bảo tính răn
đe, trừng phạt và giáo dục của nhà nước, nhưng có những vi phạm hành chính nghiêm trọng
thì cần phải áp dụng mức phạt cao hơn thì mới đảm bảo được ý nghĩa của việc xử phạt. Bên
cạnh đó, việc pháp lệnh quy định mức phạt tiền tối đa không vượt quá khung mức phạt tiền
tương ứng trong Bộ luật hình sự quy định đối với tội phạm tương ứng, có như vậy mới đảm
bảo được tính thống nhất trong hệ thống pháp luật.
Việc lựa chọn, áp dụng mức tiền phạt đối với người vi phạm phải trong khung phạt
cụ thể được văn bản pháp luật quy định cho loại vi phạm đã thực hiện theo cách: Khi phạt
tiền, mức tiền phạt cụ thể đối một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung
tiền phạt được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức phạt có thể
giảm xuống nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có tình tiết
tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tối đa của
khung tiền phạt. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không áp dụng hình thức phạt tiền,

người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi áp dụng mức phạt tiền không được quá ½ mức phạt
đối với người thành niên, trong trường hợp họ không có tiền nộp phạt thì cha mẹ hoặc
người giám hộ phải nộp thay.
3.2. Hình thức xử phạt bổ sung.
3.2.1 Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề được quy định tại điểm a khoản
2 điều 12 và được quy định cụ thể tại điều 16 pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.
Ví dụ: theo quy định tại nghị định 104/2011/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành
chính về kinh doanh xăng dầu: tự tẩy xoá, sửa chữa giấy phép kinh doanh xuất khẩu, nhập
khẩu xăng dầu bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng và bị áp dụng hình
thức xử phạt bổ sung tước quyền sử dụng giấy phép kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng
dầu đến 12 tháng.
Thứ nhất, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề là hình thức xử
phạt đồng thời mang tính phòng ngừa, ngăn chặn, và tính cưỡng chế làm bất lợi về vật
chất và tinh thần:
Giấy phép, chứng chỉ hành nghề là các loại giấy tờ do cơ quan nhà nước, người có
thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật để cho phép tổ chức, cá
nhân đó kinh doanh, hoạt động, hành nghề trong lĩnh vực nhất định hoặc sử dụng một loại


5

công cụ, phương tiện nhất định. Việc tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề
nhằm triệt tiêu điều kiện mà người vi phạm sử dụng là phương tiện thực hiện hành vi vi
phạm hành chính. Hình thức xử phạt này đồng thời mang tính phòng ngừa, ngăn chặn và
tính cưỡng chế làm bất lợi về lợi ích và tinh thần.
Thứ hai, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề chỉ được áp dụng
đối với một số vi phạm hành chính mà không phải với tất cả vi phạm hành chính.
Việc tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề là hình thức xử phạt có ảnh
hưởng rất lớn đến quyền của cá nhân, tổ chức vi phạm, vì vậy, chỉ được áp dụng hình thức

xử phạt này trong một số trường hợp và khi có đủ cả hai điều kiện mà pháp luật quy định:
Văn bản pháp luật về xử phạt hành chính quy định có thể áp dụng biện pháp xử phạt này
đối với vi phạm hành chính cụ thể nào đó; Cá nhân, tổ chức đã có hành vi vi phạm nghiêm
trọng quy định sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
Pháp luật quy định rõ ai có thẩm quyền được quyền sử dụng những loại giấy phép,
chứng chỉ hành nghề nào. Trong thời gian bi tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành
nghề, tổ chức, cá nhân vi phạm không được tiến hành các hoạt động ghi trong giấy phép,
chứng chỉ hành nghề.
Thứ ba, bên cạnh sự hợp lý trong quy định của pháp luật đã nêu trên, theo tôi,
vẫn còn điểm chưa hợp lý trong quy định của pháp luật về vấn đề này, đó là mặc dù pháp
luật quy định chỉ được tước giấy phép, chứng chỉ hành nghề trong trường hợp có vi phạm
nghiêm trọng quy định về sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, song lại không nói rõ
thế nào là vi phạm nghiêm trọng. Điều này dẫn tới việc áp dụng các quy định pháp luật
thiếu thống nhất trên thực tế.
3.2.2 Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính.
Ví dụ: theo quy định tại khoản 4 điều 9 nghị định 58/2011/NĐ-CP về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính: áp dụng hình thức phạt bổ sung là tịch thu tang
vật đối với hành vi đưa thêm vật phẩm, hàng hoá trong bưu gửi sau khi đã làm xong thủ tục
chấp thuận.
Thứ nhất, tich thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là một hình thức xử
phạt hành chính, đồng thời còn mang ý nghĩa nhằm loại bỏ hoặc hạn chế khả năng tiếp
tục vi phạm hành chính của cá nhân, tổ chức.
Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính là việc người có
thẩm quyền xử phạt quyết định áp dụng biện pháp tịch thu để sung vào công quỹ nhà nước
các tài sản, vật dụng, hàng hóa tiền bạc…dùng để thực hiện hành vi vi phạm hành chính
hoặc do vi phạm hành chính mà có. Thẩm quyền, thủ tục tịch thu tang vật, phương tiện vi
phạm hành chính được pháp luật quy định cụ thể. Hình thức xử phạt này đã tước bỏ quyền
sở hữu đối với tài sản của người vi phạm và chuyển sang sở hữu nhà nước. Điều này đã hạn
chế khả năng tiếp tục vi phạm hành chính của tổ chức, cá nhân.



6

Thứ hai, quy định về việc tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính được
quy định tại điều 17 pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính còn hướng tới bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của chủ sở hữu, người quản lý, sử dụng hợp pháp:
Theo quy định tại khoản 2 điều 17 pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính: “ không tịch
thu tang vật, phương tiện vị cá nhân, tổ chức chiếm đoạt, sử dụng trái phép mà trả lại cho
chủ sở hữu hoặc người quản lý, sử dụng, hợp pháp”. Quy định này là hợp lý, bởi lẽ, tang
vật, phương tiện đó không thuộc quyền sở hữu của người vi phạm hành chính; thứ hai, chủ
sở hữu, người quản lý, sử dụng hợp pháp của tang vật, phương tiện đó không có lỗi.
Thứ ba, hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm
hành chính còn một số điểm theo tôi là chưa hợp lý: hiện nay việc vi phạm hành chính
trong thực tế ngày càng nhiều, vì vậy cần phải quy định rõ trường hợp vi phạm với mức độ
như thế nào mới áp dụng hình thức xử phạt này, không nên áp dụng một cách thái quá biện
pháp xử phạt. Bên cạnh đó, quy định cũng chưa nêu rõ, mức tịch thu tang vật là tịch thu
toàn bộ hay chỉ tịch thu một phần. Theo tôi, pháp luật nên căn cứ vào mức độ, tính chất của
hành vi vi phạm hành chính để quy định cụ thể các trường hợp bị tịch thu tang vật, phương
tiện, và mức tịch thu như thế nào.
3.3 Trục xuất.
ví dụ: theo quy định tại điểm b khoản 8 điều 8 nghị định 58/2011/NĐ-CP quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính: áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là
trục xuất khỏi lãnh thổ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với người nước ngoài
có hành vi gửi hoặc chấp nhận hoặc vận chuyển hoặc phát những vật phẩm, hàng hoá có nội
dung kích động, gây mất an ninh, phá hoại đoàn kết dân tộc, chống phá nước cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ nhất, trục xuất là hình thức phạt không chỉ mang tính chất trừng phạt, răn
đe mà còn ngăn ngừa một cách triệt để khả năng vi phạm pháp luật của người nước
ngoài trên lãnh thổ Việt Nam. Có thể khẳng định được điều này là bởi vì trục xuất là buộc
người có hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam phải rời khỏi lãnh thổ nước cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam. Hình thức này chỉ được áp dụng đối với người nước ngoài.
Thứ hai, trục xuất được quy định để có thể áp dụng một cách linh hoạt trong thực
tiễn, tuỳ từng trường hợp mà có thể áp dụng là hình thức xử phạt chính, có thể là hình thức
xử phạt bổ sung áp dụng kèm theo hình thức xử phạt chính. Người nước ngoài vi phạm
pháp luật Việt Nam có thể bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, đồn thời bị trục xuất, trong trường
hợp này trục xuất là hình thức xử phạt bổ sung. Cũng có thể họ bị trục xuất mà không bị
phạt cảnh cáo hay phạt tiền, trường hợp này trục xuất được áp dụng là hình thức xử phạt
chính.
Thứ ba, trục xuất là một vấn đề phức tạp, nhạy cảm, có thể làm ảnh hưởng đến quan
hệ quốc tế và giữa các quốc gia, nên pháp luật quy định thẩm quyền quy định thủ tục trục
xuất thuộc về Chính phủ và thẩm quyền quyết định áp dụng hình thức xử phạt trục xuất
thuộc về Bộ trưởng bộ công an là hợp lý, phù hợp với tính chất quan trọng của vấn đề.


7

Thứ tư, khi áp dụng hình thức trục xuất vẫn còn một số vướng mắc: theo quy định
tại khoản 2 điều 7 nghị định 97/2006/NĐ-CP về việc áp dụng hình thức xử phạt trục xuất
theo thủ tục hành chính quy định: trong quyết định xử phạt trục xuất đối với người nước
ngoài phải ghi rõ nơi bị trục xuất đến. với quy định này, thực tế áp dụng trục xuất đối với
người nước ngoài có thể gặp nhiều khó khăn trong trường hợp người nước ngoài vi phạm
pháp luật trên lãnh thổ Việt Nam là người không quốc tịch
II. Đánh giá tính hợp lý của các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành
chính.
1. Bản chất của biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính
Trong nhiều trường hợp ngoài việc bị áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính như đã
nêu trên, tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng các biện pháp khắc
phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra. Về mặt bản chất, biện pháp cưỡng chế hành
chính này không có tính trừng phạt người vi phạm hành chính mà chỉ nhằm mục đích khắc
phục những hậu quả do vi phạm hành chính đã để lại trên thực tế.

2. Các biện pháp khắc phục hậu quả
Theo quy định tại Khoản 3 điều 12 Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính 2002 quy
định:
"3. Ngoài các hình thức xử phạt được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, cá
nhân, tổ chức vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc
phục hậu quả sau đây:
a) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây
ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép;
b) Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan
dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra;
c) Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hoá, vật phẩm,
phương tiện;
d) Buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây trồng,
văn hoá phẩm độc hại;
đ) Các biện pháp khác do Chính phủ quy định".
3. Đánh giá tình hợp lý của các biện pháp khắc phục hậu quả
3.1 Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây
ra hoặc buộc tháo đỡ công trình xây dựng trái phép.
Quy định này buộc cá nhân, tổ chức đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính dẫn đến
những thay đổi so với tình trạng ban đầu của sự vật thì phải tự mình bằng mọi cách đưa sự
vật trở lại trạng thái ban đầu. Việc tháo dỡ các công trình xây dựng trái phép chủ yếu để
khắc phục hậu quả những vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng.
Trong thực tế, việc áp dụng quy định trên hoàn toàn cần thiết nhằm đảm bảo giữ gìn
cơ sở vật chất quốc gia, trật tự quản lý nhà nước, để đảm bảo khi vi phạm xảy ra không


8

những phải có biện pháp xử phạt răn đe. Đồng thời, phải khắc phục hậu quả đã xảy ra, khôi
phục tình trạng ban đầu.

3.2 Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan
dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra.
Xã hội ngày càng phát triển, nhưng ý thức của người dân cũng như các tổ chức lại
không hề cao trong vấn đề giữ gìn bảo vệ môi trường mình đang sống và làm việc. Ví dụ,
năm 2009 đã nổi lên những vụ việc phức tạp gây bức xúc trong nhân dân như việc công ty
Vedan xả nước thải chưa qua xử lý ra sông Thị Vải, mức độ ô nhiễm đáng báo động ở sông
Trà, cũng đã gây ra tình trạng nghiêm trọng về môi trường
Việc pháp luật quy định các biện pháp khắc phục khi làm ô nhiễm môi trường hay
lây lan dịch bệnh là hoàn toàn cần thiết, nhằm mục đích bảo vệ sức khỏe lợi ích cộng đồng,
bảo vệ môi trường sinh thái chung. Tùy trường hợp cụ thể, người có thẩm quyền sẽ quyết
định biện pháp thích hợp và có hiệu quả nhất.
3.3 Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hóa, vật phẩm,
phương tiện.
Biện pháp này được áp dụng chủ yếu trong quá trình xử lý các vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan hoặc lĩnh vực có liên quan đến xuất nhập khẩu. Khi có sự vi phạm,
công việc này là cần thiết: nhập khẩu trái phép thì bị đưa ra khỏi lãnh thổ, nếu hàng tạm
nhập tái xuất mà không tái xuất thì bị buộc tái xuất.
Biện pháp này đảm bảo cho sự ổn định của thị trường, không gây hoang mang lo
lắng cho người dân và giữ vững sự quản lý của nhà nước trong mọi lĩnh vực. Chỉ bằng cách
đưa ra khỏi lãnh thổ hay tái xuất những hàng hóa, vật phẩm, phương tiện này thì mới bảo
đảm những điều nêu trên.
3.4 Buộc tiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và
văn hóa phẩm độc hại
Biện pháp này chủ yếu được áp dụng để khắc phục những hậu quả do vi phạm hành
chính trong các lĩnh vực liên quan đến việc kinh doanh những sản phẩm liên quan đến con
người như thuốc chữa bệnh, thực phẩm, văn hóa…
Biện pháp này trên thực tế đã được chứng minh là cần thiết để bảo vệ những giá trị
về sức khỏe, cuộc sống vật chất và những giá trị về mặt tinh thần chung của cộng đồng. Để
bảo vệ con người, vật nuôi, cây trồng khỏi những tác động nguy hại của những vật, sản
phẩm là tang vật của vi phạm hành chính, pháp luật quy định tang vật này phải được tiêu

hủy là hoàn toàn cần thiết. Cũng như vậy, văn hóa phẩm độc hại cũng gây ảnh hưởng trực
tiếp đến đời sống tinh thần của nhân dân, truyền thống văn hóa dân tộc, nên phải bị tiêu
hủy. Tiêu hủy nhằm mục đích ngăn chặn sự phát tán ra cộng đồng những sản phẩm này một
lần nữa.


9

3.5 Các biện pháp khác do Chính phủ quy định.
Do pháp luật không thể dự liệu hết và đặt ra toàn bộ những biện pháp khắc phục hậu
quả của mọi vi phạm hành chính nên nhằm khắc phục những lỗ hổng của pháp luật. Do đó,
Pháp lệnh 2002 đã đặt ra quy định về vấn đề này.
Nhận xét chung đối với các biện pháp khắc phục hậu quả:
Thứ nhất, cần khẳng định việc pháp luật quy định các biện pháp khắc phục như trên
là hợp lý, bởi lẽ, người có hành vi vi phạm hành chính đã gây ra hậu quả nhất định trên thực
tế thì họ bắt buộc phải khắc phục những hậu quả do bản thân họ gây ra.
Thứ hai, biện pháp khắc phục hậu quả có thể được áp dụng một cách độc lập ngay cả
khi hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính. Điều này cũng rất hợp lý, bởi lẽ, khi hết thời
hiệu xử phạt vi phạm hành chính thì những chủ thể này đã không phải chịu trách nhiệm
pháp lý, nhưng điều đó không có nghĩa là họ không có trách nhiệm đối với hậu quả do hành
vi vi phạm pháp luật của họ gây ra.
III. Một số điểm chưa hợp lý trong quy định của pháp luật và kiến nghị hoàn
thiện quy định của pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các
biện pháp khắc phục hậu quả.
1. Một số điểm chưa hợp lý của quy định của pháp luật
Tại phần đánh giá tính hợp lý của các quy định pháp luật tôi cũng đã chỉ ra một số
điểm chưa hợp lý trong quy định của pháp luật về các hình thức xử phạt và các biện pháp
khắc phục hậu quả như:
Thứ nhất, quy định về phạt cảnh cáo chưa được áp dụng nhiều trên thực tiễn và chưa
phát huy được mục đích giáo dục, bởi lẽ quy định về hình thức xử phạt cảnh cáo chưa rõ

ràng (ví dụ pháp luật không quy định thế nào là vi phạm hành chính nhỏ để có thể áp dụng
biện pháp cảnh cáo) và việc xử phạt cảnh cáo hiện nay không quy định phải thông báo về
cơ quan, đơn vị hay nơi cư trú của người vi phạm nên những người bị xử phạt cảnh cáo có ý
thức xem nhẹ biện pháp này.
Thứ hai, pháp luật quy định trong quyết định trục xuất phải ghi rõ nơi bị trục xuất
đến, điều này dẫn tới khó khăn trong việc thực hiện đối với người không quốc tịch bị áp
dụng biện pháp trục xuất.
Thứ ba, đối với quy định về tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề
cũng không quy định rõ thế nào là “ vi phạm nghiêm trọng quy định sử dụng giấy phép,
chứng chỉ hành nghề”
Thứ tư, trong quy định về tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm
hành chính, nhà làm luật không quy định tính chất, mức độ áp dụng biện pháp tịch thu tang
vật, phương tiện cũng như mức tịch thu tang vật, phương tiện là một phần hay toàn bộ.
Đồng thời, pháp luật chỉ quy định tịch thu tang vật, phương tiện để sung quỹ nhà nước là
chưa hợp lý, bởi lẽ, bên cạnh đó vẫn có thể tịch thu để tiêu huỷ.


10

Thứ năm, đối với các biện pháp khắc phục hậu quả cho thấy là hợp lý và cần thiết.
tuy nhiên, theo tôi nghĩ, nếu chỉ mới nêu ra 4 biện pháp khắc phục là chưa đủ mà nên quy
định thêm các biện pháp khắc phục khác.
2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật
Thứ nhất, đối với biện pháp cảnh cáo, người có thẩm quyền sau khi xử phạt cảnh
cáo thì phải thông báo đến cho cơ quan, đơn vị hoặc đến nơi cư trú của người bị xử phạt
biết. Bên cạnh đó, có thể áp dụng kèm hình thức cảnh cáo là hình thức buộc lao động công
ích. Những công việc cho lao động công ích là những công việc nhẹ, phù hợp với lứa tuổi
và không phải là những công việc trong môi trường độc hại, ví dụ như làm vệ sinh tại một
số điểm công cộng….
Thứ hai, theo ý kiến của tôi không nên quy định trong quyết định trục xuất không

cần phải ghi rõ nước bị trục xuất đến. Bên cạnh đó, theo tôi, cũng không nên áp dụng biện
pháp trục xuất đối với người không quốc tịch, bởi lẽ, việc áp dụng biện pháp trục xuất đối
với người không quốc tịch chỉ mang tính chất hình thức và gần như không được thực hiện
trên thực tế.
Thứ ba, chính phủ cần đưa ra hướng dẫn cụ thể “ thế nào là vi phạm nghiêm trọng
quy định về sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề”
Thứ tư, hiện nay các vi phạm hành chính trên thực tế diễn ra rất nhiều, vì vậy, để
tránh lạm dụng biện pháp tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính một
cách thái quá, theo tôi nghĩ, pháp luật cũng nên quy định tính chất, mức độ và các trường
hợp cụ thể khi áp dụng biện pháp này. Trong trường hợp nào thì tịch thu toàn bộ, trong
trường hợp nào thì tịch thu một phần.
Ngoài ra, quy định về tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính
thì nên chỉ quy định “ để sung quỹ nhà nước” mà quy định này cần phải mở rộng hơn “ để
sung quỹ nhà nước hoặc tịch thu để đảm bảo thực hiện các biện pháp ngăn chăn”
Thứ năm, mặc dù biện pháp khắc phục quy định của pháp luật hiện hành là hợp lý,
tuy nhiên, theo tôi nghĩ, nên bổ sung thêm một số quy định về biện pháp khắc phục hậu quả
khác như: buộc cải chính thông tin sai sự thật; buộc thu hồi sản phẩm không đảm bảo chất
lượng; buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hoá, vất phẩm
C. KẾT LUẬN
Xử phạt vi phạm hành chính được coi là biện pháp có hiệu quả trong việc đấu tranh
phòng chống vi phạm hành chính, bảo vệ trật tự pháp luật, không ngừng tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa. Có thể nói xử phạt vi phạm hành chính là nội dung rất quan trọng của
hoạt động quản lí nhà nước. Một trong những điều kiện đảm bảo thực hiện có hiệu quả hoạt
động xử phạt vi phạm hành chính là hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử phạt hành chính.
Để khắc phục những hạn chế, những khiếm khuyết, vấn đề đặt ra là phải sửa đổi, bổ sung
nhằm hoàn thiện những quy định về xử phạt vi phạm hành chính.


11


MỤC LỤC
A.MỞ ĐẦU................................................................................................................................................1
B.NỘI DUNG............................................................................................................................................1
I.Đánh giá tính hợp lí của các hình thức xử phạt vi phạm hành chính..................................................1
1.Khái niệm hình thức xử phạt vi phạm hành chính..........................................................................1
2.Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính.....................................................................................1
3.Đánh giá tính hợp lý của các quy định về hình thức xử phạt vi phạm hành chính:........................2
II.Đánh giá tính hợp lý của các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính..............................7
1.Bản chất của biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính....................................................7
2.Các biện pháp khắc phục hậu quả ..................................................................................................7
3.Đánh giá tình hợp lý của các biện pháp khắc phục hậu quả ..........................................................7
III.Một số điểm chưa hợp lý trong quy định của pháp luật và kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp
luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả......................9
1.Một số điểm chưa hợp lý của quy định của pháp luật.....................................................................9
2.Kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật......................................................................10
C.KẾT LUẬN..........................................................................................................................................10
MỤC LỤC................................................................................................................................................11

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.

Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002, sửa đổi, bổ sung 2007, 2008
Giáo trình luật Hành chính, trường Đại học luật Hà Nội, 2011


12

3.
Bình luận pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, bộ tư pháp, nxb, tư

pháp
4.
Ngô Thị Minh Hà, khoá luận tốt nghiệp Hoàn thiện pháp luật về các hình thức xử
phạt vi phạm hành chính, 2011
5.
Nguyễn Trọng Bình, Luận văn thạc sỹ Hoàn thiện quy định pháp luật về các hình
thức xử phạt vi phạm hành chính, 2000.
6.
Nghị định 58/2011/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu
chính.
7.
Nghị định 99/2009/NĐ-CP của chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản



×