Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

TỘI NHẬN HỐI LỘ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.87 KB, 52 trang )

1

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới của đất nước ta từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI đã đạt
được nhiều thành tựu đáng kể, nền kinh tế chuyển từ quan liêu bao cấp sang kinh tế
thị trường đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, song mặt trái của nó cũng là
một vấn đề nhức nhối trong xã hội: sự phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn, nạn
tham nhũng, cửa quyền của một bộ phận những người có chức vụ, quyền hạn trong
cơ quan Nhà nước... Ở Việt Nam trong những năm gần đây, nạn tham nhũng nói
chung và tình hình tội nhận hối lộ nói riêng ngày càng phát triển với quy mô rộng
lớn ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội; tính chất và mức độ ngày càng gia
tăng nghiêm trọng; hình thức, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, phức tạp và số
vụ phạm tội có tổ chức diễn ra ngày càng phổ biến. Một bộ phận cán bộ, công chức
nhà nước đang dần bị biến chất, nhiều người trong số họ bị những lợi ích vật chất
mua chuộc khiến họ thay đổi ý thức, quan niệm về việc thực thi công vụ.
Hiện nay, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự để đấu tranh chống tội phạm
nhận hối lộ ở nước ta còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, hiệu quả của công tác
này còn chưa cao. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do sự
thiếu rõ ràng, thiếu hợp lí trong các quy định của BLHS về tội nhận hối lộ. Chính
vì vậy, làm sáng tỏ và hoàn thiện các quy định của BLHS Việt Nam về tội nhận hối
lộ sẽ là một hoạt động thiết thực góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm này.
Từ những đòi hỏi về lí luận và thực tiễn cũng như để đóng góp vào việc
hoàn thiện quy định về tội nhận hối lộ tại Điều 279 BLHS Việt Nam hiện hành, em


2



đã quyết định chọn đề tài: “Tội nhận hối lộ theo quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2.

Mục đích nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở phân tích, đánh giá quy định về tội nhận hối lộ trong lịch sử lập

pháp Việt Nam, pháp luật quốc tế mà trọng tâm là nghiên cứu quy định của BLHS
Việt Nam hiện hành về tội nhận hối lộ tại điều 279, thực tiễn áp dụng quy định của
BLHS về tội phạm này trong thời gian gần đây, khóa luận sẽ nghiên cứu một cách
toàn diện và có hệ thống về tội nhận hối lộ theo quy định của BLHS Việt Nam từ
đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của BLHS Việt Nam về tội
phạm này cũng như việc áp dụng các quy định đó trong thực tiễn.
3. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu các vấn đề lí luận về tội nhận hối lộ và thực tiễn xử lí
đối với tội phạm này.
4. Phạm vi nghiên cứu khóa luận
Khóa luận nghiên cứu tội nhận hối lộ dưới góc độ luật hình sự mà chủ yếu là
các quy định của BLHS năm 1999, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS
năm 1999 và một số văn bản liên quan khác. Tội nhận hối lộ trong khóa luận được
phân tích về một số vấn đề chung của tội phạm, quy định của tội nhận hối lộ trong
BLHS Việt Nam, thực tiễn áp dụng các quy định đó và một số kiến nghị.
5. Phương pháp nghiên cứu khóa luận
Khóa luận được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa học của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, những nguyên tắc cơ
bản của luật hình sự, những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong
giải quyết vấn đề tội phạm. Ngoài ra trong khóa luận còn sử dụng các phương
pháp: hệ thống, phân tích, tổng hợp, thống kê và so sánh luật…
6. Cơ cấu khóa luận

Khóa luận bao gồm: Lời nói đầu, Nội dung, Kết luận.
Nội dung chính 3 chương:
Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI NHẬN HỐI LỘ
Chương II: TỘI NHẬN HỐI LỘ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ


3

Chương III: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀNTHIỆN
QUY ĐỊNH VỀ TỘI NHẬN HỐI LỘ

NỘI DUNG
CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI NHẬN HỐI LỘ
1.1. Khái niệm tội nhận hối lộ
Tội phạm về chức vụ là một hiện tượng tiêu cực của xã hội, nó mang tính
lịch sử, xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước. Tội phạm về chức vụ xuất hiện
khi một người được giao một quyền lực nhất định và người đó đã sử dụng quyền
lực được giao để thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến lợi ích
của Nhà nước, của xã hội và của công dân. Điều 277 BLHS quy định: “Các tội
phạm về chức vụ là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ
chức do người có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện công vụ”. Khái niệm này
đã khái quát được các đặc điểm pháp lý chung của các tội phạm về chức vụ được
quy định trong Chương XXI. Việc quy định tội phạm về chức vụ là cần thiết và
hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan trong đấu tranh phòng chống các tội
phạm về chức vụ.
Chương XXI gồm 15 Điều gồm hai mục: Mục A – Các tội phạm về tham
nhũng và Mục B – Các tội phạm khác về chức vụ. Trong đó, Mục A gồm 7 Điều
luật quy định về các tội trong đó có Điều 279 quy định về tội nhận hối lộ. Như vậy,
tội nhận hối lộ là tội phạm về chức vụ nhưng lại được xếp trong một nhóm tội
phạm cụ thể hơn: các tội phạm về tham nhũng. Nói đến tham nhũng, tuy được hiểu

dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng pháp luật nước ta cũng như pháp luật nhiều
nước trên thế giới đều có quan niệm tương đối thống nhất về vấn đề này: “Tham
nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn
đó vì vụ lợi” – đây cũng là khái niệm tham nhũng được đưa ra tại Khoản 2 Điều 1
Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005.
Trong các tội phạm về tham nhũng thì tội phạm nhận hối lộ là một trong
những vấn đề nhức nhối nhất trong xã hội hiện nay. Điều 279 BLHS quy định:


4

“Nhận hối lộ là hành vi của người có chức vụ quyền hạn đã lợi dụng chức vụ
quyền hạn của mình trực tiếp, gián tiếp hoặc qua trung gian đã nhận tiền hoặc sẽ
nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào để làm hoặc
không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ”. Quy định
tại Điều 279 BLHS đã chỉ ra một cách khá cụ thể các dấu hiệu pháp pháp lý của tội
phạm nhận hối lộ như: chủ thể, hành vi khách quan...
Chủ thể của tội nhận hối lộ theo quy định tại Điều 279 BLHS là “người có
chức vụ, quyền hạn” – đây là chủ thể đặc biệt đặc trưng cho nhóm các tội phạm về
tham nhũng. Hành vi khách quan của tội nhận hối lộ gồm một chuỗi các hành vi
khác nhau như “lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình”, “trực tiếp, gián tiếp hoặc
qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận” , “để làm hoặc không làm một việc vì lợi
ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ”.
Mặc dù điều luật chỉ đưa ra mô tả về chủ thể và hành vi khách quan của tội
nhận hối lộ, song từ đó có thể rút ra được các đặc điểm về mặt chủ quan và khách
thể của tội phạm này. Chủ thể của tội nhận hối lộ là những người có chức vụ,
quyền hạn hay nói cách khác là những cán bộ, công chức làm việc trong bộ máy
nhà nước. Những người này đã có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà mình
đã được nhân dân và Nhà nước giao phó để nhận những lợi ích vật chất từ người
đưa hối lộ để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người

đưa hối lộ. Hành vi này trước hết đã xâm hại đến xử sự bình thường của chính
những cán bộ, công chức đó. Vì những lợi ích vật chất đã nhận hoặc sẽ nhận mà họ
làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ chứ
không phải vì yêu cầu khách quan của công việc. Hơn thế nữa, hành vi của người
nhận hối lộ đã làm ảnh hưởng không tốt đến hình ảnh người cản bộ mẫu mực “cần,
kiệm, liêm, chính” trong mắt nhân dân, hơn thế nữa còn làm giảm uy tín của Đảng
và Nhà nước ta. Hành vi nhận hối lộ còn tác động tiêu cực đến môi trường làm việc
xung quanh người nhận hối lộ và rộng hơn là lan ra cả xã hội. Khi một người nhận


5

hối lộ thì những người xung quanh cũng chịu ảnh hưởng tới tâm lí và cũng nảy
sinh ý định nhận hối lộ. Theo điều luật mô tả cũng có thể rút ra được lỗi của tội
nhận hối lộ là lỗi cố ý trực tiếp. Đây là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm
của tội nhận hối lộ.
Sức mạnh của bộ máy nhà nước phụ thuộc nhiều ở hoạt động của các cơ
quan nhà nước. Cán bộ, công chức nhà nước là những người trực tiếp thực hiện các
hoạt động của cơ quan nhà nước. Trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng tổ quốc xã
hội chủ nghĩa, đại bộ phận cán bộ, công chức tận tụy làm việc vì nước, vì dân nêu
cao tinh thần cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Tuy nhiên một bộ phận cán bộ,
công chức nhà nước có thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền trong quan hệ với
nhân dân. Nguy hiểm hơn nữa, họ lợi dụng chức vụ quyền hạn để có những hành vi
gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, lợi ích chính đáng của tập thể hoặc của công
dân, làm giảm uy tín của người cán bộ và cơ quan nhà nước, làm cho hiệu quả hoạt
động của cơ quan nhà nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Vấn đề này cũng được
quy định trong Hiến pháp CHXHCN Việt Nam tại Điều 8: “Các cơ quan nhà
nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân
dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân
dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu,

hách dịch, cửa quyền”
Từ quy định của BLHS có thể rút ra được khái niệm về tội nhận hối lộ như
sau: “Nhận hối lộ là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung
gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kì hình
thức nào để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người
đưa hối lộ”. [18,tr.75]


6

1.2. Quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật một số nước về tội nhận hối
lộ
1.2.1. Quy định của pháp luật quốc tế về tội nhận hối lộ
Thực trạng đáng lo ngại của hành vi nhận hối lộ cũng như hậu quả của nó
trong thời gian qua đã khiến cộng đồng quốc tế hết sức quan tâm. Rất nhiều văn
bản pháp lý quốc tế và khu vực liên quan đến hành vi nhận hối lộ được ban hành.
Điển hình trong số đó phải kể đến Công ước của Liên hợp quốc về chống tham
nhũng, Công ước của Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển về chống hối lộ công
chức nước ngoài trong các giao dịch thương mại quốc tế và Công ước Luật hình sự
của Hội đồng Châu Âu về chống tham nhũng. Tuy có sự khác biệt về giới hạn nội
dung được quy định, về phạm vi áp dụng và về mức độ chi tiết của quy định nhưng
các công ước quốc tế nêu trên đều có những vấn đề chung nhất định liên quan đến
tội nhận hối lộ. Trong phạm vi của khóa luận, em xin được khái quát quy định của
pháp luật quốc tế về nhận hối lộ thông qua quy định của các công ước nêu trên.
Các công ước quốc tế nêu trên đều chú trọng đến định nghĩa về “nhận hối
lộ” và quy định cụ thể tách bạch so với các hành vi hối lộ khác.
Chủ thể của tội nhận hối lộ trong các công ước quốc tế là phải là “công
chức”. Định nghĩa về “công chức” trong các công ước quốc tế này rất rộng và được
xác định một cách linh hoạt và mục đích là tạo ra chuẩn mực quốc tế chung nhất và
hài hòa cho việc xác định “người nhận hối lộ”.

Hành vi nhận hối lộ theo pháp luật quốc tế có thể là hành vi đề nghị (đòi) hối
lộ hoặc nhận của hối lộ. “Đề nghị hối lộ là hành vi của công chức cho người khác
biết (một cách rõ ràng hoặc ngụ ý) rằng người đó phải trao lợi ích cho công chức
đó để anh ta làm hoặc không làm một việc mà người đưa mong muốn” [13, đ.41].
Như vậy, tội phạm sẽ cấu thành mà không cần thỏa thuận giữa người đòi hối lộ và
người được yêu cầu. Hơn nữa, hành vi đề nghị hối lộ sẽ cấu thành tội nhận hối lộ
mà không đòi hỏi người được yêu cầu đưa hối lộ phải biết sự tồn tại của lời đề nghị
hối lộ (ví dụ như chưa nhận được thư trong đó có lời đề nghị). Khác với hành vi


7

trên, hành vi nhận của hối lộ là hành vi “thực tế tiếp nhận lợi ích mà người đưa hối
lộ trao cho” [13, đ.42]. Hành vi này có thể được thực hiện bởi chính công chức
hoặc người khác thay mặt cho công chức đó. Lợi ích người phạm tội đòi được hối
lộ hoặc nhận hối lộ có thể là lợi ích dành cho người đó hoặc cho bên thứ ba. Tội
nhận hối lộ hoàn thành khi người bị đòi hối lộ biết sự tồn tại của lời đề nghị hối lộ
hoặc khi người phạm tội nhận của hối lộ.
Dấu hiệu khách quan bắt buộc của tội phạm này là “của hối lộ”. Pháp luật
quốc tế quy định của hối lộ có thể là bất kì loại lợi ích nào. Đó có thể là tiền hoặc
các loại lợi ích khác, có thể là lợi ích hữu hình hoặc vô hình. Mặt khác, của hối lộ
còn được xem xét từ góc độ tính chất, đó chính là tính “không chính đáng”. Theo
quan điểm của các công ước quốc tế, không phải mọi loại lợi ích đều bị cấm đưa
và nhận. Loại lợi ích nào đó chỉ bị xem là không chính đáng khi việc đưa và nhận
những lợi ích này bị pháp luật cấm. Quy định về của hối lộ trong các công ước nêu
trên cho thấy quan điểm quốc tế về vấn đề này rất linh hoạt và mềm dẻo.
Mục đích của tội phạm nhận hối lộ là nhằm thúc đẩy người công chức làm
hoặc không làm một việc thuộc chức năng hoặc trách nhiệm của người đó bất kể
hành vi “làm hoặc không làm một việc” có là hành vi trái pháp luật hay không.
Các công ước không đòi hỏi việc thực hiện yêu cầu của người đưa hối lộ có

thuộc phạm vi chức vụ quyền hạn của người nhận hối lộ. Đây là quy định khá mềm
dẻo của pháp luật quốc tế về vấn đề này.
Tội phạm nhận hối lộ là loại tội cố ý – chỉ có thể thực hiện với lỗi cố ý, tuy
nhiên các công ước quốc tế lại không nêu cụ thể các dấu hiệu của lỗi cố ý.
Tóm lại, quy định của pháp luật quốc tế về tội phạm nhận hối lộ đã gợi mở
cho các quốc gia một số chuẩn mực đối với việc hình sự hóa hành vi nhận hối lộ,
việc quy định các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm cũng như việc quy định
hình phạt đối với loại tội phạm này. Quy định trong những công ước này cũng như
các văn bản pháp lý có liên quan đã cho thất rõ nét quan điểm của luật pháp quốc
tế về tội phạm nhận hối lộ. Những quan điểm này sẽ trở thành những định hướng


8

quan trọng cho hoạt động lập pháp hình sự quốc gia, tạo tiền đề cho sự nhận thức
cũng như quy định thống nhất về tội nhận hối lộ giữa các quốc gia trên thế giới.
1.2.2. Quy định của pháp luật một số nước về tội nhận hối lộ
a. Quy định của pháp luật Hoa Kỳ về tội nhận hối lộ
Hệ thống pháp luật hình sự Hoa Kỳ rất đa dạng và phức tạp, được hình thành
và phát triển trên nền tảng của hệ thống pháp luật Anglo – Xacxong và đặc biệt
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của pháp luật nước Anh. Pháp luật hình sự Hoa Kỳ sử
dụng song song Bộ luật hình sự liên bang và các bộ luật hình sự của các bang.
Điều 201 BLHS Hoa Kỳ có tên gọi “Hối lộ viên chức nhà nước và nhân
chứng”. Tuy nhiên điều luật không mô tả ngay dấu hiệu của hành vi phạm tội mà
khoản đầu tiên tập trung làm rõ chủ thể của tội phạm nhận hối lộ - viên chức nhà
nước, trong đó chỉ ra phạm vi cụ thể những người của cơ quan lập pháp thuộc
phạm vi khái niệm viên chức nhà nước và làm rõ cơ sở hình thành viên chức nhà
nước.
BLHS Hoa Kỳ không định nghĩa một cách cụ thể đối tượng của tội phạm mà
chỉ quy định đối tượng của tội phạm là bất kì vật có giá trị nào. Mặc dù vậy, BLHS

các tiểu bang lại đề cập cụ thể và chi tiết những đối tượng của tội phạm. BLHS tiểu
bang Utah chỉ coi những lợi ích tiền bạc mới là đối tượng của các tội phạm hối lộ.
BLHS tiểu bang Washington lại quy định rất rõ đối tượng tội phạm của tội nhận
hối lộ chỉ có thể là bất kì lợi ích tiền bạc nào. Như vậy, có thể thấy LHS Hoa Kì chỉ
coi lợi ích vật chất là đối tượng tội phạm của tội nhận hối lộ. Quy định này hoàn
toàn phù hợp với LHS Việt Nam.
Các dạng hành vi nhận hối lộ: Điểm 2 khoản b Điều 201 BLHS Hoa Kỳ quy
định về các trường hợp nhận hối lộ, Điểm 4 khoản b Điều 201 quy định về hành vi
nhận hối lộ của nhân chứng, ngoài ra thì BLHS Hoa Kỳ cũng quy định các trường
hợp nhận hối lộ thuộc các trường hợp khác quy định trong các điều khoản khác.
Trên cơ sở quy định của BLHS liên bang, BLHS các tiểu bang cũng có những quy
định cụ thể về tội nhận hối lộ. Tùy vào xu hướng kĩ thuật lập pháp của từng bang


9

mà các bang quy định về tội phạm này theo những cách khác nhau từ đơn giản đến
phức tạp.
Nghiên cứu các quy định về tội nhận hối lộ trong BLHS Hoa Kỳ và các tiểu
bang cho chúng ta thấy được sự phong phú, đa dạng cũng như nét đặc thù trong kĩ
thuật lập pháp của các luật gia Hoa Kỳ. Đây là những kinh nghiệm vô cùng quý
báu giúp chúng ta hoàn thiện các quy định về tội nhận hối lộ nói riêng cũng như
hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung để tăng cường hiệu quả điều chỉnh của
pháp luật Việt Nam. [25]
b. Quy định của pháp luật Thụy Điển về tội nhận hối lộ
Trong BLHS Thụy Điển, tội nhận hối lộ được quy định tại một chương khác
với tội đưa hối lộ (Chương 20: Các tội lạm dụng chức vụ và các tội có liên quan).
Điều 2 Chương 20 quy định về tội nhận hối lộ như sau: “Người nào là nhân
viên mà nhận, chấp nhận lời hứa về việc hối lộ hoặc yêu cầu hối lộ hoặc lợi ích
bất hợp pháp khác để thực hiện công vụ của mình thì bị phạt tiền hoặc phạt tù đến

hai năm về tội nhận hối lộ” [14]. Quy định này cũng áp dụng đối với người thực
hiện hành vi đó trước khi nhận chức vụ của mình hoặc sau khi rời chức vụ đó. Nếu
tội phạm bị xem là nghiêm trọng thì hình phạt tù được áp dụng thấp nhất là 6 tháng
và cao nhất là 6 năm. Từ quy định trên có thể rút ra một số đặc trưng về tội nhận
hối lộ trong BLHS Thụy Điển như sau:
Chủ thể của tội nhận hối lộ được gọi chung là “nhân viên”, để giải thích cho
thuật ngữ này, các nhà làm luật Thụy Điển đã làm rõ khái niệm nhân viên ngay
trong Điều luật đó. Trong đó các chủ thể quy định từ điểm 1 đến điểm 4 là các
công chức hoặc nhân viên thực hiện quyền lực công, nhóm chỉ thể quy định tại
điểm 5 là viên chức trong khu vực tư, nhóm chủ thể cuối cùng được quy định từ
điểm 6 đến điểm 9 là nhóm chủ thể có yếu tố nước ngoài hoặc yếu tố quốc tế. Chủ
thể của tội nhận hối lộ phải là người mà chức năng, nhiệm vụ của họ liên quan đến
vấn đề mà người đưa cần được giải quyết.


10

Dấu hiệu duy nhất được phản ánh trong mặt khách quan của tội nhận hối lộ
là hành vi trái pháp luật. Hành vi khách quan của tội nhận hối lộ là hành vi nhận
của hối lộ, hành vi nhận lời hứa đưa của hối lộ hoặc hành vi đòi hối lộ.
Thời điểm hoàn thành tội phạm ở một trong ba thời điểm: khi người nhân
viên nhận biết được sự tồn tại của lợi ích được đưa và không từ chối lợi ích đó, khi
người nhân viên đã đạt được thỏa thuận với người đưa về việc đưa và nhận hối lộ
sau; và khi người nhân viên thể hiện rõ ràng mong muốn được nhận hối lộ với
người khác, thậm chí kể cả trường hợp người bị đòi hối lộ từ chối đưa hối lộ. Quy
định này của LHS Thụy Điển là phù hợp với các công ước quốc tế mà Thụy Điển
là thành viên.
Của hối lộ mặc dù không được quy định trực tiếp trong BLHS song khoa
học LHS Thụy Điển vẫn thừa nhận của hối lộ có thể là những lợi ích tinh thần bên
cạnh loại của hối lộ thông thường là những lợi ích vật chất. Đây là điểm khác so

với LHS Việt Nam. [19, tr. 130]
Đối tượng của tội phạm nhận hối lộ là hoạt động thực thi chức trách của
người có chức vụ, quyền hạn. Lỗi không được phản ánh trong BLHS, tuy nhiên
qua những dấu hiệu khác được mô tả thì có thể khẳng định tội phạm nhận hôi lộ
được thực hiện với lỗi cố ý.
Hình phạt đối với tội phạm hối lộ trong BLHS Thụy Điển ở mức độ nghiêm
khắc vừa phải: chỉ bị phạt tiền hoặc phạt tù cao nhất đến 6 năm. Hình phạt như vậy
là còn quá nhẹ so với những yêu cầu về lý luận và thực tiễn lập pháp trong LHS
Thụy Điển.
Nhìn chung, quy định của BLHS Thụy Điển về tội nhận hối lộ vẫn còn một
số hạn chế tác động tiêu cực đến hiệu quả của hoạt động áp dụng luật, tuy nhiên
các quy định này cũng đang dần được hoàn thiện để phù hợp với luật pháp quốc tế.
[19]


11

1.3. Khái quát lịch sử lập pháp về tội nhận hối lộ từ năm 1945 đến nay
1.3.1. Tội nhận hối lộ theo quy định của pháp luật từ năm 1945 đến trước khi
Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực
Sau Cách mạng tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành nhiều sắc
lệnh trong đó có sắc lệnh số 223/SL ngày 17/11/1946 nhằm trừng trị các tội nhận
hối lộ, đưa hối lộ, phù lạm hoặc biển thủ công quỹ. Điều 1 Sắc lệnh số 223/SL quy
định: Công chức nhận hối lộ bị phạt từ từ 5 năm đến 20 năm và phạt bạc gấp đôi
tang vật hối lộ. Tang vật hối lộ bị tịch thu sung công. Người phạm tội còn có thể bị
tịch thu nhiều nhất là đến ba phần tư gia sản.
Sau ngày Miền Nam giải phóng, Sắc luật số 03/SL được Hội đồng Chính
phủ Cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam ban hành ngày 15/3/1976 quy định
một số tội phạm trong đó có tội nhận hối lộ (Điều 7). Sắc luật không mô tả dấu
hiệu pháp lý của tội phạm, không quy định cụ thể các tình tiết tăng nặng và không

quy định hình phạt bổ sung đối với tội phạm nhận hối lộ.
Pháp lệnh trừng trị các tội hối lộ được ban hành ngày20/5/1981 đã thay thế
cho các văn bản pháp luật trước đó về các tội hối lộ. Lần đầu tiên tội nhận hối lộ
được quy định thành một điều độc lập với các dấu hiệu pháp lý mô tả, các tình tiết
tăng nặng và giảm nhẹ cũng được quy định tại các điều khoản riêng.
Nhìn chung, trong giai đoạn này, pháp luật hình sự Việt nam đã đưa ra được
quy định cụ thể về tội nhận hối lộ với những hình phạt rất nghiêm khắc và đặc biệt.
Ngoài hình phạt chính, hình phạt bổ sung như cấm đảm nhiệm chức vụ, phạt tiền
cũng đã được quy định có tác dụng phòng ngừa đồng thời đảm bảo cho việc xử lý
tội phạm được triệt để. Do điều kiện kinh tế - xã hội nước ta nói chung và tình hình
tội phạm nói riêng, các văn bản pháp luật hình sự trong thời kì này có một số hạn
chế nhất định. Tội phạm nhận hối lộ còn bị gộp chung vào với những tội phạm
khác, dấu hiệu của cấu thành tội phạm chưa được mô tả cụ thể. Tuy nhiên các quy
định đó lại mang đến ý nghĩa xã hội sâu sắc, đóng vai trò quan trọng trong công
cuộc đấu tranh chống lại nạn tham nhũng.


12

1.3.2. Tội nhận hối lộ theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1985
Ngày 27/6/1985, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa
VII đã thông qua BLHS, có hiệu lực từ 1/1/1986. Đây là một bước tiến quan trọng
trong lịch sử lập pháp hình sự nước ta. Bộ luật đã kế thừa và phát triển những
thành tựu của LHS Việt Nam đặc biệt là sau Cách mạng tháng 8. Bộ luật hình sự
đầu tiên của Việt Nam gồm hai phần: phần chung và phần các tội phạm, gồm 20
chương với 280 điều, trong đó tội nhận hối lộ được quy định tại Điều 226, Chương
IX – Các tội phạm về chức vụ. Điều 226 quy định: “1- Người nào lợi dụng chức
vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền của hoặc
lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào để làm một việc thuộc trách nhiệm
của mình hoặc không làm một việc phải làm, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy

năm.
Phạm tội trong trường hợp lạm dụng chức vụ, quyền hạn để làm một việc không
được phép làm, thì bị phạt tù từ hai năm đến mười năm.
2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ năm năm đến
mười lăm năm: a) Có tổ chức; b) Sách nhiễu hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt; c)
Của hối lộ có giá trị lớn; d) Gây hậu quả nghiêm trọng; đ) Phạm tội nhiều lần.
3- Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nhiêm trọng, thì bị phạt tù từ mười hai năm
đến hai mươi năm hoặc tù chung thân”.
Lần đầu tiên tội danh nhận hối lộ được quy định cụ thể thành điều luật trong
một văn bản pháp lý có giá trị cao như bộ luật hình sự. Điều luật được chia làm ba
khoản trong đó khoản 1 mô tả đặc điểm của cấu thành tội phạm. Các đặc điểm này
tuy đã được mô tả cụ thể hơn so với quy định trong các văn bản pháp luật trước
đây nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác phòng chống tội phạm
nhận hối lộ trên thực tế. Khoản 1 còn đưa thêm trường hợp “lạm dụng chức vụ
quyền hạn” vào mô tả cấu thành của tội nhận hối lộ dễ gây sự nhầm lần với tội
phạm khác có liên quan. Điều luật chưa đưa ra mức nhận hối lộ bao nhiêu thì sẽ
phạm tội nhận hối lộ. Khung hình phạt cao nhất dành cho tội phạm nhận hối lộ


13

theo quy định của BLHS 1985 chỉ từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù
chung thân. Án tử hình vẫn chưa được áp dụng đối với tội phạm này. Nhận hối lộ
là tội phạm nguy hiểm nhất trong các tội phạm tham nhũng, do vậy với mức án cao
nhất chỉ là tù chung thân thì xét trên một phương diện nào đó vẫn chưa đủ tính răn
đe trong xã hội.
Tội nhận hối lộ trong BLHS 1985 được sửa đổi bổ sung tới ba lần: lần thứ
nhất vào ngày 12/8/1991, lần 2 vào ngày 22/12/1992 và lần thứ 3 vào ngày
10/5/1997. Mặc dù đã qua 3 lần sửa đổi bổ sung nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu của cuộc đấu tranh phòng chống loại tội phạm điển hình này. Nhiều trường

hợp nhận hối lộ rất nghiêm trọng nhưng do quan điểm khác nhau về đánh giá
chứng cứ hoặc chách xác định các tình tiết của vụ án, về các dấu hiệu cấu thành tội
nhận hối lộ nên không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, để lọt tội phạm.
1.3.3. Tội nhận hối lộ theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999
Trong những năm qua sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo
đã giành được những thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Đời sống chính trị,
kinh tế, văn hóa xã hội của đất nước có nhiều khởi sắc, được nhân dân ta và bạn bè
quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi cơ chế, bên cạnh
những mặt tích cực đạt được, mặt khác nên kinh tế thị trường cũng làm nảy sinh
nhiều vấn đề tiêu cực trong đó tình hình tội phạm diễn biết hết sức phức tạp. Trong
tình hình đó mặc dù BLHS năm 1985 đã sửa đổi bổ sung ba lần nhưng còn nhiều
điểm bất cập cần sửa đổi bổ sung một cách toàn diện nhằm đáp ứng nhu cầu đấu
tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới. Để đáp ứng yêu cầu đó, ngày
24/12/1999 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa X tại kì họp thứ 6 đã thông
qua BLHS năm 1999. BLHS năm 1999 ra đời là kế quả của sự tổng kết thực tiễn
đấu tranh phòng, chống tội phạm. BLHS này còn thể hiện toàn diện chính sách
hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay, nó thực sự là công cụ
sắc bén trong đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ chế đội xã hội chủ nghĩa,


14

quyền làm chủ của nhân đân, bảo vệ quyền bình đẳng của các đồng bào người dân
tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước... góp phần vào công cuộc đổi mới của đất nước,
nhất là trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, xây dựng Nhà nước
pháp quyền của dâ do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
BLHS năm 1999 đã quy định về tội nhận hối lộ cụ thể và chi tiết hơn so với
BLHS năm 1985. Tội nhận hối lộ được quy định ở Điều 279, Mục A trong chương
XXI.
Ngày 29/11/2005 Quốc hội đã thông qua Luật phòng chống tham nhũng, luật

này có hiệu lực từ ngày 1/6/2006. Sự ra đời của Luật phòng chống tham nhũng
cũng góp phần ngăn chặn có hiệu quả tội phạm nhận hối lộ ở nước ta.
Ngày 19/6/2009 tại kì họp thứ 5 Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật sửa
đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 15/1999/QH10 trong đó Điều 279
về tội nhận hối lộ cũng được sửa đổi bổ sung để phù hợp hơn với tình hình tội
phạm nhận hối lộ trong giai đoạn hiện nay. Điều 279 BLHS 1999 sửa đổi bổ sung
năm 2009 quy định về tội nhận hối lộ như sau: “1. Người nào lợi dụng chức vụ,
quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc
lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào có giá trị từ hai triệu đồng đến
dưới mười triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường
hợp sau đây để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của
người đưa hối lộ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Gây hậu quả nghiêm
trọng; b) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm; c) Đã bị kết án về một
trong các tội quy định tại Mục A Chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi
phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến
mười lăm năm: a) Có tổ chức; b) Lạm dụng chức vụ, quyền hạn; c) Phạm tội nhiều
lần; d) Biết rõ của hối lộ là tài sản của Nhà nước; đ) Đòi hối lộ, sách nhiễu hoặc


15

dùng thủ đoạn xảo quyệt; e) Của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm
mươi triệu đồng; g) Gây hậu quả nghiêm trọng khác.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm
năm đến hai mươi năm: a) Của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới
ba trăm triệu đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm,
tù chung thân hoặc tử hình: a) Của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác.

5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm
năm, có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ, tịch thu một
phần hoặc toàn bộ tài sản”.
Phần quy định về tội nhận hối lộ theo BLHS năm 1999 vẫn nằm trong
Chương “Các tội phạm về chức vụ” giống như trong BLHS năm 1985, tuy nhiên
điều luật được chia làm 5 khoản với những mô tả cụ thể hơn về cấu thành tội phạm
và việc chia các khung hình phạt. Khoản 1 của điều luật không còn trường hợp
“lạm dụng chức vụ, quyền hạn” như trong BLHS 1985, các trường hợp phạm tội
quy định trong khoản hai cũng nhiều hơn. Điều luật đã đưa ra giới hạn giá trị của
hối lộ, trước đây là từ năm trăm ngàn đồng, sau khi BLHS được sửa đổi, bổ sung
năm 2009 là từ hai triệu đồng đến dưới mười triệu đồng. Đặc biệt, mức hình phạt
cao nhất đối với người phạm tội nhận hối lộ là tử hình, điều này thể hiện tính nguy
hiểm đặc biệt của tội phạm này và ở một mức độ nào đó cần phải loại bỏ tội phạm
này khỏi xã hội. Điều luật còn quy định thêm các hình phạt bổ sung áp dụng đối
với tội phạm này.
Nhìn chung, Điều luật quy định về tội nhận hối lộ theo BLHS năm 1999
(sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã cụ thể, rõ ràng và đầy đủ hơn so với trong BLHS
1985. Quy định này cũng đã được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với sự phát triển


16

của xã hội cũng như nhấn mạnh được tính đặc biệt nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm này.

CHƯƠNG II. TỘI NHẬN HỐI LỘ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
2.1. Các dấu hiệu pháp lý của tội nhận hối lộ
2.1.1. Chủ thể của tội nhận hối lộ
Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội nhận hối lộ cũng

phảo đảm bảo các điều kiện về độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự được quy
định tại Điều 12, 13 BLHS.
Chủ thể của tội nhận hối lộ là chủ thể đặc biệt - phải là người có chức vụ,
quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn là người đã được nêu ở phần khái niệm
các tội phạm về chức vụ: “người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do
một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực
hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công
vụ” (Điều 277 BLHS). Bên cạnh đó, những đối tượng cụ thể được coi là người có
chức vụ, quyền hạn còn được xác định theo Điều 1 khoản 3 Luật phòng chống
tham nhũng năm 2005. Người có chức vụ, quyền hạn trong tội nhận hối lộ không


17

hoàn toàn giống như người có chức vụ, quyền hạn trong các tội phạm ở Chương
XXI BLHS. Ví dụ như người có chức vụ quyền hạn trong tội tham ô tài sản phải là
người có liên quan dến việc quản lý tài sản thì người có chức vụ quyền hạn phạm
tội nhận hối lộ không nhất thiết phải là người có trách nhiệm quản lí tài sản. Phạm
vi chức vụ, quyền hạn của người phạm tội nhận hối lộ rộng hơn. Tuy nhiên, người
phạm tội nhận hối lộ lại không lợi dụng chức vụ quyền hạn để chiếm đoạt tài sản
do mình có trách nhiệm quản lí mà là lợi dụng chức vụ quyền hạn để nhận tiền, tài
sản hoặc lợi ích vật chất khác.
Đối với trường hợp phạm tội nhận hối lộ có tổ chức thì chủ thể còn có thể là
những người không có chức vụ, quyền hạn. Tuy nhiên họ chỉ có thể là người tổ
chức, người xúi giục, người giúp sức còn người thực hành nhất thiết phải là người
có chức vụ, quyền hạn.
Chủ thể của tội nhận hối lộ không chỉ là người có chức vụ quyền hạn nói
chung mà phải là người “có trách nhiệm trong việc giải quyết những yêu cầu của
người đưa hối lộ” [18, tr. 77]. Những yêu cầu đó có thể là yêu cầu về lợi ích vật
chất hoặc phi vật chất của người đưa hối lộ. Người có trách nhiệm đối với việc giải

quyết yêu cầu của người đưa hối lộ là người được giao nhiệm vụ và do nhiệm vụ
đó mà họ có quyền đối với việc giải quyết yêu cầu của người khác. Việc xác định
trách nhiệm của một người đối với việc giải quyết yêu cầu của người đưa hối lộ là
rất quan trọng vì trong thực tế không ít trường hợp người đưa hối lộ tưởng rằng
người mà mình đưa hối lộ là người có trách nhiệm giải quyết được yêu cầu của
mình. Khả năng giải quyết việc mà người đưa hối lộ yêu cầu vừa gắn với tính chất
của chức năng, nhiệm vụ, vừa gắn với thời điểm thực hiện chức năng, nhiệm vụ đó
[19, tr. 95]. Người đã chấm dứt việc thực thi công vụ hoặc người không có khả
năng thực hiện được yêu cầu của người đưa hối lộ đều không thể là chủ thể của tội
nhận hối lộ. Ví dụ: A là điều tra viên được phân công điều tra vụ án mà B là bị can.
Sau khi tiến hành điều tra, A nhận thấy B có thể được miễn trách nhiệm hình sự và


18

đã làm bản đề nghị thủ trưởng cơ quan điều tra ra quyết định miễn trách nhiệm
hình sự đối với B. Sau khi thủ trưởng cơ quan điều tra kí vào bản kết luận điều tra
đồng ý miễn trách nhiệm hình sự đối với B, A tới gặp B và đề nghị B chi cho mình
một khoản tiền để có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Hành vi của A trong
trường hợp này không cấu thành tội nhận hối lộ vì thời điểm thực hiện hành vi
trách nhiệm điều tra của A đã kết thúc, A không còn quyền hạn gì với việc giải
quyết vụ án. Hành vi của A trong trường hợp này bị xem là hành vi lừa đảo chiếm
đoạt tài sản.
Một người tuy có chức vụ, quyền hạn không liên quan trực tiếp đến việc giải
quyết yêu cầu của người đưa lợi ích song họ lại có khả năng dùng chức vụ quyền
hạn của mình gây ảnh hưởng tới người có chức vụ quyền hạn khác để người này
thực hiện việc người đưa yêu cầu thì cũng không cấu thành tội nhận hối lộ. Trong
trường hợp này hành vi nhận lợi ích của người có chức vụ quyền hạn để thúc đẩy
người có chức vụ quyền hạn khác làm theo yêu cầu của người đưa lợi ích sẽ cấu
thành tội “lợi dụng chức vụ quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục

lợi” theo quy định tại Điều 283 BLHS. Ví dụ: A đang bị B là điều tra viên điều tra
về hành vi tham ô tài sản. C là phó chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện X đã lợi dụng
chức vụ quyền hạn của mình để gây ảnh hưởng tới B nhằm làm sai lệch kết quả
điều tra theo hướng có lợi cho A, sau đó đã nhận lợi ích vật chất từ A. Trong
trường hợp này hành vi của C có thể bị cấu thành tội “lợi dụng chức vụ quyền hạn
gây ảnh hưởng tới người khác để trục lợi” chứ không phải tội “nhận hối lộ” vì
chức vụ quyền hạn của C không liên quan trực tiếp đến việc làm sai lệch kết quả
điều tra.
Người có trách chức vụ quyền hạn có trách nhiệm giải quyết yêu cầu của
người đưa hối lộ phải đáp ứng một điều kiện nữa về chủ thể của tội phạm nhận hối
lộ, đó là khi giải quyết những yêu cầu của người đưa hối lộ phải là việc thực hiện
công vụ. Ví dụ: Anh T được Công ty trách nhiệm hữu hạn X thuê giám sát một


19

công trình mà họ đầu tư và thiết kế. Bên đơn vị Y thi công công trình do năng lực
còn hạn chế nên thời gian thi công bị kéo dài. Bên đơn vị Y muốn anh T báo cáo
với công ty X lí do hợp lý cho việc thời gian thi công bị kéo dài và che giấu năng
lực hạn chế của họ nên đã đưa cho anh T số tiền 20 000 000 đồng trong một lần.
Trong trường hợp này, mối quan hệ giữa anh T và đơn vị thi công là mối quan hệ
giữa người được yêu cầu và người yêu cầu, anh T cũng là người có chức vụ, quyền
hạn nhất định trong việc giải quyết yêu cầu của đơn vị thi công; tuy nhiên việc anh
T giải quyết yêu cầu cho bên thi công không phải là thi hành công vụ mà là thực
hiện một nhiệm vụ tư vì hoạt động của Công ty trách nhiệm hữu hạn không phải là
thi hành công vụ. Ở Việt Nam và một số nước trên thế giới thường quan niệm công
vụ như một hoạt động do công chức thực hiện nhân danh quyền lực nhà nước. Điều
2 Luật cán bộ công chức năm 2008 cũng quy định: “Hoạt động công vụ của cán
bộ, công chức là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo
quy định của Luật này và các quy định khác có liên quan”. Do đó, nếu một người

có chức vụ quyền hạn khi giải quyết yêu cầu cho người khác để nhận tiền hoặc lợi
ích vật chất của họ nhưng không phải là thực hiện công vụ thì không phải là nhận
hối lộ.
Ngoài ra một người chỉ trở thành chủ thể của tội phạm nhận hối lộ trong
những trường hợp sau: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội nhận hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều
279 BLHS vì các trường hợp nhận hối lộ quy định tại các khoản trên là tội phạm
rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên đối với những người ngày
họ chỉ có thể là đồng phạm trong vụ án nhận hối lộ với vai trò giúp sức vì nhưng
người này chưa thể trở thành cán bộ, công chức. Tuy nhiên thực tiễn xét xử cũng
có trường hợp người dưới 16 tuổi lại là người chủ mưu, khởi xướng, giúp sức trong
vụ án nhận hối lộ có đồng phạm như: được người có chức vụ quyền hạn giao cho
đi nhận tiền của người đưa hối lộ, được giao đưa thư, đưa tài liệu...; Người từ đủ


20

14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội nhận hối lộ
thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 279 mà chỉ những người đủ 16 tuổi trở
lên mới chịu trách nhiệm hình sự thuộc trường hợp này. Đối với tội nhận hối lộ
quy định tại khoản 1 của điều luật là tội phạm nghiêm trọng.
2.1.2. Khách thể của tội nhận hối lộ
Tội nhận hối lộ xâm hại đến quan hệ xã hội bảo đảm cho hoạt động đúng
đắn của cơ quan tổ chức. Theo Điều 277 BLHS thì tội phạm nhận hối lộ là “những
hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức”. Hoạt động nêu trên
của các cơ quan, tổ chức là loại hoạt động theo đúng khuôn khổ của Hiến pháp và
pháp luật, phục vụ cho lợi ích hợp pháp của người dân. Hoạt động này chỉ có thể
được đảm bảo bằng việc duy trì sự phát triển bình thường của các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình hoạt động của cơ quan,tổ chức. Chủ thể của những quan
hệ xã hội này là người có chức vụ, quyền hạn. Tội phạm nhận hối lộ xâm hại đến

quan hệ xã hội nêu trên vì hành vi phạm tội gây ra bởi chính những chủ thể của
quan hệ này.
Hầu hết hành vi nhận hối lộ của người có chức vụ quyền hạn là làm trái công
vụ được giao, gây thiệt hại cho cơ quan tổ chức mà mình là thành viên, cá biệt có
trường hợp người có chức vụ quyền hạn nhận hối lộ nhưng vẫn làm đúng chức
năng nhiệm vụ, nhưng cho dù làm đúng chức năng nhiệm vụ đi nữa thì hành vi
nhận hối lộ của họ cũng đã xâm phạm đến uy tín của cơ quan tổ chức mà họ là
thành viên. Ví dụ như trường hợp bác sĩ nhận tiền của bệnh nhân và người nhà
bệnh nhân khi trực cấp cứu. Vì vậy dù người có chức vụ quyền hạn giải quyết đúng
pháp luật nhưng nhận hối lộ để giải quyết theo yêu cầu của người đưa hối lộ thì
hành vi nhận hối lộ vẫn xâm phạm đến sự hoạt động bình thường của cơ quan, tổ
chức.
Hành vi phạm tội của người nhận hối lộ tác động đến những hoạt động bình
thường của người có chức vụ quyền hạn. Hoạt động bình thường của người có


21

chức vụ quyền hạn là hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của người này.
Người phạm tội nhận hối lộ đã tự làm biến dạng xử sự của chính bản thân mình
thông qua việc nhận lợi ích một cách bất chính để làm theo yêu cầu của người đưa
hối lộ, qua đó xâm hại đến quan hệ xã hội đảm bảo cho hoạt động bình thường của
cơ quan tổ chức với tư cách là khách thể của tội phạm.
Tội phạm nhận hối lộ còn xâm hại đến quan hệ xã hội đảm bảo cho uy tín
của cơ quan, tổ chức. Hành vi nhận hối lộ đã làm mất đi những đức tính cần phải
có ở những người có chức vụ, quyền hạn làm việc trong bộ máy nhà nước như
trung thực, vô tư, công bằng, qua đó sự tín nhiệm cũng như sự tôn trọng của người
dân đối với họ cũng bị giảm sút. Điều đó dẫn tới hệ quả tất yếu là uy tín của cơ
quan, tổ chức và rộng hơn là uy tín của bộ máy nhà nước, của chính quyền nhân
dân cũng bị ảnh hưởng.

2.1.3. Mặt khách quan của tội nhận hối lộ
Đối với tội nhận hối lộ, các dấu hiệu thuộc mặt khách quan cũng là những
dấu hiệu quan trọng để xác định hành vi phạm tội cũng như để phân biệt tội nhận
hối lộ với các tội phạm khác. Mặt khách quan của tội nhận hối lộ được đặc trưng
bằng hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã hoặc sẽ
nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kì hình thức nào [19, tr. 97].
Như vậy, đặc trưng cho mặt khách quan của tội phạm này là hành vi nhận “của hối
lộ” bằng thủ đoạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn.
Lợi dụng chức vụ là lợi dụng chức danh công tác, chức trách hoặc quyền hạn
được giao. Lợi dụng quyền hạn là lợi dụng quyền năng cụ thể được giao do có
chức vụ hoặc do một căn cứ khác. Chính nhờ có chức vụ, quyền hạn chủ thể mới
có khả năng giải quyết được việc người khác đang mong muốn và người có việc
đưa hối hối lộ cho người có chức vụ, quyền hạn cũng vì chủ thể có khả năng này.
Như vậy, hành vi nhận hối lộ chỉ có thể được thực hiện trong mối quan hệ với chức
năng, quyền hạn của chủ thể. Ví dụ: Chị H là trưởng phòng tổ chức của cơ quan


22

nhà nước X, chị H được cơ quan giao nhiệm vụ tuyển một người vào vị trí đang
thiếu với một số điều kiện nhất định. Anh T biết được điều này và đang có nhu cầu
muốn xin vào cơ quan X làm việc. Vì không có đủ điều kiện theo yêu cầu của cơ
quan nhưng đã được chị H hứa là sẽ lo được nên anh T đã đưa cho chị H số tiền là
10 triệu đồng. Sau khi nhận tiền của anh T, chị H đã báo cơ quan là anh T có đủ
điều kiện vào cơ quan ra quyết định nhận anh T vào. Có quan điểm cho rằng chức
vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện việc nhận tiền, tài
sản hoặc lợi ích vật chất khác của người đưa hối lộ [18, tr. 84], cũng có quan điểm
cho rằng chức vụ, quyền hạn phải được coi là điều kiện có tính quyết định chứ
không chỉ là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện hành vi nhận của hối
lộ [19]. Theo em, quan điểm thứ hai hợp lý hơn bởi chỉ thông qua thủ đoạn lợi

dụng chức vụ, quyền hạn chủ thể mới có thể nhận lợi ích vật chất để làm hoặc
không làm việc mà người đưa hối lộ yêu cầu. Ví dụ: A là giám đốc Ban quản lý dự
án Đ.T. A lợi dụng việc mình được tham gia vào hội đồng chấm thầu một trong các
gói thầu của dự án để gợi ý và nhận tiền của Công ty B là một trong các bên sự
thầu. Như vậy tức là A đã lợi dụng quyền được chấm vào quyết định bên dự thầu
nào đạt dủ điều kiện của chủ dự án để nhận tiền của người đưa hối lộ.
Hành vi khách quan của tội nhận hối lộ theo quy định của Điều 279 BLHS
có thể được diễn giải bao gồm hai dạng hành vi được thực hiện: (1) hành vi lợi
dụng chức vụ quyền hạn nhận của hối lộ để làm hay không làm một việc vì lợi ích
hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ; (2) hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn
nhận của hối lộ sau khi thực hiện việc làm hay không làm theo thỏa thuận với
người đưa hối lộ [19, tr. 98].
Như vậy, việc nhận của hối lộ có thể được thực hiện trước hoặc sau khi
người có chức vụ quyền hạn đã làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo
yêu cầu của người đưa hối lộ. Trong cả hai trường hợp nhận hối lộ đó, chủ thể đều
phải thỏa thuận trước với người đưa hối lộ về việc làm hoặc không làm theo yêu


23

cầu của người đưa hối lộ. Đối với trường hợp nhận của hối lộ sau, sự thỏa thuận
trước còn bao gồm cả thỏa thuận về việc chủ thể sẽ nhận được của hối lộ sau khi
đã thỏa mãn yêu cầu của người đưa hối lộ. Tuy nhiên không đòi hỏi phải thỏa
thuận trước về giá trị hoặc tính chất của loại lợi ích đó. Thỏa thuận có thể được
thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau như bằng lời nói (thỏa thuận miệng),
bằng văn bản, bằng cách đưa ra các ám hiệu, kí hiệu các bên cùng hiểu hoặc những
thỏa thuận ngầm. Dù được thực hiện dưới hình thức nào thì nhữn thỏa thuận đó
đều phải thể hiện rõ việc đồng ý làm hay không làm một việc cụ thể theo yêu cầu
của người đưa hối lộ từ phía người nhận hối lộ. Thỏa thuận giữa các bên thông
thường là sự bàn bạc thống nhất giữa các bên, tuy nhiên có nhiều trường hợp thỏa

thuận này hình thành không dựa trên có sở sự tự nguyện bàn bạc của hai bên mà
có sự áp đặt ý chí của một bên. Điển hình là trường hợp “đòi hối lộ, sách nhiễu”.
Hành vi nhận hối lộ có thể được thực hiện trực tiếp hoặc qua trung gian.
Nhận hối lộ trực tiếp là trường hợp người có chức vụ quyền hạn trực tiếp nhận của
hối lộ từ người đưa hối lộ không qua người khác, ví dụ như nhận tiền hối lộ từ tay
người đưa hối lộ. Việc nhận của hối lộ trực tiếp có thể được thực hiện thông qua
các loại hình dịch vụ, ví dụ như dịch vụ chuyển tiền của ngân hàng hoặc qua bưu
điện, nhận hối lộ trực tiếp còn có thể là trường hợp tuy chưa nhận của hối lộ song
người có chức vụ, quyền hạn đã trực tiếp thỏa thuận với người đưa hối lộ thông
qua gặp mặt hoặc trao đổi qua điện thoại, thư điện tử… Việc trực tiếp nhận tiền, tài
sản hoặc lợi ích vật chất khác của người đưa hối lộ trong thực tiễn không có vấn đề
vướng mắc. Tuy nhiên cần phân biệt trường hợp người trực tiếp nhận tiền, tài sản
hoặc lợi ích vật chất khác của người khác nhưng người đưa tiền, tài sản hoặc lợi
ích vật chất khác lại không phải là người đưa hối lộ, cũng không phải là người môi
giới hối lộ nhưng người nhận tiền vẫn là người hối lộ.
Nhận hối lộ qua trung gian là trường hợp người có chức vụ, quyền hạn gián
tiếp nhận của hối lộ (từ người đưa hối lộ) thông qua người khác, ví dụ như: qua


24

người môi giới hối lộ. Đó cũng có thể là trường hợp người nhận thỏa thuận việc
hối lộ với người đưa và nhận của hối lộ qua người môi giới hối lộ. Trường hợp qua
trung gian để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, không nhất thiết người
nhận hối lộ phải biết người đưa hối lộ là ai, chỉ cần biết đó là của hối lộ là đã bị coi
là nhận hối lộ. Tuy nhiên người nhận hối lộ phải biết nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích
vật chất khác là nhận của hối lộ, nếu có căn cứ xác định người nhận tiền, tài sản
hoặc lợi ích vật chất khác nhưng không biết đó là của hối lộ thì người nhận tiền, tài
sản hoặc lợi ích vật chất khác đó không bị coi là nhận hối lộ
Hành vi nhận của hối lộ có thể được thực hiện dưới bất kì hình thức nào.

Điều đó có nghĩa là hành vi nhận của hối lộ không chỉ là việc nhận tiền hay lợi ích
vật chất một cách thuần túy theo kiểu trao tay. Các hình thức nhận hối lộ khác dù
được che đậy dưới vỏ bọc hợp pháp như việc nhận các khoản thưởng hoặc tiền thù
lao (thực chất không chính đáng), việc nhận lợi ích bất chính thông qua các hình
thức hợp đồng (như hợp đồng vay tiền nhưng sau đó không hoàn trả, hợp đồng bán
tài sản với giá cao hơn hoặc mua tài sản với giá thấp hơn giá trị thực tế của tài sản),
hoặc qua các loại hình dịch vụ (không phải trả phí)… đều bị coi là tội phạm. Bên
cạnh đó, hành vi nhận hối lộ có thể được thực hiện dưới hình thức lén lút hoặc
công khai trắng trợn. Luật hình sự Việt Nam quy định mọi hình thức nhận của hối
lộ đều bị trừng trị về mặt hình sự để có thể phòng ngừa cũng như xử lí được tất cả
các hình thức biến tướng của hành vi nhận hối lộ. Quy định mang tính bao quát
này là rất cần thiết trong tình hình hiện nay khi hoạt động nhận và đưa hối lộ đang
trở nên hết sức phức tạp, tinh vi và xảo quyệt.
Như vậy, hình thức hối lộ không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với cấu thành
tội nhận hối lộ, nhưng căn cứ vào hình thức ta xác định được thủ đoạn của hành vi
nhận hối lộ do người phạm tội thực hiện. Trong nhiều trường hợp chính thông qua
hình thức nhận hối lộ giúp ta xác định được đó là thủ đoạn nhận hối lộ hay chỉ là
quan hệ xã hội khác. Ví dụ, cũng là việc nhận quà biếu, trong một hoàn cảnh cụ thể


25

này thì đó là thủ đoạn của hành vi nhận hối lộ nhưng đặt nó trong một hoàn cảnh
khác thì đó là hành vi thuộc lĩnh vực đạo đức. Nhà làm luật quy định “dưới bất kì
hình thức nào” là nhằm đảm bảo không lọt bất cứ một thủ đoạn nào mà nguwofi
phạm tội sử dụng để nhận hối lộ là rất cần thiết. Tuy nhiên cũng chính do quy định
này nên trong việc xác định đâu là thủ đoạn nhạn hối lộ, đâu là quan hệ xã hội khác
là một vấn đề phức tạp đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng
phải đánh giá một cách tổng hợp tất cả các tình tiết của vụ án một cách khách
quan, toàn diện để tìm ra sự thật.

Vấn đề tiếp theo là thời điểm hoàn thành của tội nhận hối lộ. Một số quan
điểm cho rằng tội nhận hối lộ hoàn thành ở một thời điểm duy nhất là thời điểm
người có chức vụ, quyền hạn nhận của hối lộ, một số quan điểm khác lại cho rằng
có tới ba loại thời điểm hoàn thành của tội nhận hối lộ tương ứng với ba trường
hợp: nếu người phạm tội đã có hành vi nhận của hối lộ thì thời điểm nhận lợi ích
chính là lúc tội phạm hoàn thành; nếu có hành vi đòi hối lộ thì tội phạm được coi là
hoàn thành kể từ khi có hành vi hạch sách, đòi ăn hối lộ; nếu mới chỉ có sự thỏa
thuận trước giữa hai bên về việc đưa và nhận của hối lộ, về việc làm hoặc không
làm một việc gì đó có lợi cho người đưa hối lộ thì tội phạm hoàn thành khi người
phạm thội đa đồng ý nhận của hối lộ. Quan điểm thứ hai bộc lộ nhược điểm nhất
định khi chưa thể hiện lí luận của luật hình sự về thời điểm hoàn thành của một tội
phạm cụ thể. Việc xác định thời điểm hoàn thành tội phạm cần dựa vào lí luận về
thời điểm hoàn thành của tội phạm kết hợp với sự mô tả các dấu hiệu khách quan
của cấu thành tội phạm tội nhận hối lộ.Về mặt lí luận, tội phạm hoàn thành là
trường hợp hành vi phạm tội đã thỏa mãn hết các dấu hiệu được mô tả trong cấu
thành tội phạm. Vì tội nhận hối lộ có cấu thành tội phạm hình thức nên tội phạm
được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi khách quan
được mô tả trong cấu thành tội phạm. Hành vi khách quan của tội nhận hối lộ là
hành vi nhận của hối lộ ở một trong hai trường hợp đã nêu ở trên.


×