Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Phân tích các bộ phận cấu thành an sinh xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.85 KB, 17 trang )

Bài 1.
1. Phân tích các bộ phận cấu thành an sinh xã hội.
2. Anh H tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học sinh con dị tật, dị
dạng. Năm 1988 anh được nhận vào làm việc tại công ty X. Năm 2007 anh
bị tai nạn lao động do sơ xuất trong vận hành máy bị suy giảm 28% khả
năng lao động. Năm 2010 do vết tai nạn lao động tái phát, anh phải vào viện
điều trị 2 tháng, Sau khi giám định lại, hội đồng y khoa kết luận anh bị mất
61% khả năng lao động. Do đã có 15 năm làm công việc đặc biệt nặng nhọc
độc hại, lại đã 49 tuổi nên anh đã làm đơn xin nghỉ hưu.
Hỏi:
a. Hãy xác định các chế độ an sinh xã hội mà anh H được hưởng ?
b. Hãy giải quyết quyền lợi về bảo hiểm hưu trí cho anh H theo quy định
của pháp luật hiện hành ?

1


1. Phân tích các bộ phận cấu thành an sinh xã hội.
An sinh xã hội là một ngành luật khá mới mẻ ở nước ta cũng như ở trên thế
giới. Cho đến nay vẫn chưa có quan điểm thống nhất về các bộ phận cấu thành
của An sinh xã hội mà vấn đề này chủ yếu được tiếp cận dưới hai góc độ đó là
theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, An sinh xã hội bao trùm lên nhiều mặt của cuộc sống con
người. Đó là các quan hệ hình thành trong lĩnh vực nhằm ổn định đời sống, nâng
cao chất lượng cuộc sống của các thành viên trong xã hội, góp phần ổn định,
phát triển và tiến bộ xã hội. Theo nghĩa này An sinh xã hội có thể bao gồm các
nhóm quan hệ sau:
- Nhóm quan hệ trong lĩnh vực giải quyết việc làm, chống thất nghiệp.
- Nhóm quan hệ trong lĩnh vực chăm sóc y tế, bảo vệ sức khỏe nhân dân.
- Nhóm quan hệ trong lĩnh vực dân số, kế hoạch hóa gia đình.
- Nhóm quan hệ trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội.


- Nhóm quan hệ trong lĩnh vực cứu trợ xã hội.
- Nhóm quan hệ trong lĩnh vực môi trường…
Theo nghĩa hẹp an sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành
viên của mình. Trước hết và chủ yếu là những trường hợp bị giảm sút thu nhập
đáng kể do gặp những rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,
tàn tật, mất việc làm, mất người nuôi dưỡng, nghỉ thai sản, về già, cũng như các
trường hợp bị thiên tai địch họa, ưu đãi đối với những thành viên có những hành
động xả thân vì nước, vì dân, có những cống hiến đặc biệt cho sự nghiệp cách
mạng, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Theo nghĩa này bộ phận cấu thành của An
sinh xã hội sẽ gồm 4 nhóm quan hệ chủ yếu sau:
- Nhóm quan hệ bảo hiểm xã hội.
- Nhóm quan hệ bảo hiểm y tế.
- Nhóm quan hệ cứu trợ xã hội.
- Nhóm quan hệ ưu đãi xã hội.
Ở Việt Nam An sinh xã hội được tiếp cận chủ yếu theo nghĩa hẹp do đó các
bộ phận cấu thành của an sinh xã hội bao gồm 4 bộ phận chính là bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội
a. Quan hệ bảo hiểm xã hội.
Theo quan điểm của ILO “ Bảo hiểm xã hội được thiết lập trên cơ sở
nguyên tắc cùng nhau chia sẻ rủi ro đòi hỏi mỗi người tham gia và người bảo vệ
phải đóng góp tài chính vào một quỹ chung. Khi gặp phải rủi ro với những điều
kiện quy định thì nhu cầu của người đó( hoặc một phần nhu cầu) sẽ được quỹ
bảo hiểm xã hội thỏa mãn”.
Ở Việt Nam khái niệm bảo hiểm xã hội cũng được đề cập trong nhiều tài
liệu thuộc các chuyên ngành khác nhau nghiên cứu. Khái niệm chung được đa
2


số các nhà khoa học sử dụng hiện nay là : “ Bảo hiểm xã hội là sự bảo vệ có tính
xã hội đối với người lao động thông qua quá trình tổ chức và sử dụng một quỹ

tiền tệ tập trung được tồn tích dần do sự đóng góp của người lao động, người sử
dụng lao động dưới sự điều tiết của Nhà nước nhằm đảm bảo phần thu nhập thỏa
mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu của người lao động và gia đình họ khi
gặp những biến cố, rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập theo lao động như ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tuổi già, chết…”.
Theo quan điểm của ILO cũng như quan điểm của Việt Nam Bảo hiểm xã
hội được xem là một trụ cột chính, cơ chế chính trong an sinh xã hội.
Quan hệ bảo hiểm xã hội có một số đặc trưng sau:
- Đối tượng áp dụng bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội ra đời như một biện pháp hữu hiệu nhất để bảo vệ người
lao động trước những biến cố về thu nhập. Bảo hiểm xã hội là quyền lợi của mọi
người lao động nên đối tượng áp dụng bảo hiểm xã hội được pháp luật hầu hết
các quốc gia quy định là mọi người lao động trong xã hội, không có sự phân
biệt. Tuy nhiên không phải quốc gia nào ngay từ đầu đã thiết lập được hệ thống
bảo hiểm xã hội cho mọi lao động trong xã hội mà phụ thuộc vào điều kiện kinh
tế - xã hội do đó các quốc gia khi thiết lập hệ thống bảo hiểm xã hội thường bắt
đầu bằng một nhóm đối tượng sau đó dần dần mở rộng phạm vi áp dụng tiến tới
bao quát toàn bộ lao động trong xã hội bên cạnh đó người sử dụng lao động có
nghĩa vụ đóng góp theo tỷ lệ nhất định và nhà nước chỉ đóng vai trò hỗ trợ.
Đối tượng hưởng Bảo hiểm xã hội là người lao động và thân nhân của họ
trong trường hợp khi đáp ứng yêu cầu hưởng trong từng chế độ bảo hiểm cụ thể.
Mục đích của bảo hiểm xã hội chính là nhằm bảo vệ thu nhập cho người lao
động trong các trường họp gặp rủi ro biến cố dẫn đến bị giảm hoặc mất thu nhập
do đó đối tượng tác động của bảo hiểm xã hội chính là thu nhập của người lao
động.
- Hình thức bảo hiểm
Thường có hai loại là bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện. Với hình
thức bảo hiểm bắt buộc mức đóng góp và hình thức đóng góp được quy định cụ
thể trong văn bản pháp luật. Còn với hình thức bảo hiểm tự nguyện thì pháp luật
cho người tham gia bảo hiểm tự lựa chọn mức đóng và chê độ hưởng.

- Nguồn trợ cấp bảo hiểm.
Do các bên tham gia quan hệ bảo hiểm đóng góp, chủ yếu là ba bên người
lao động, người sử dụng lao động đóng góp theo tỷ lệ nhất định và nhà nước
đóng vai trò là bên hỗ trợ. Từ nguồn đóng góp này hình thành nên quỹ bảo hiểm
xã hội. Quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ tiền tệ tập trung do cơ quan chức năng quản
lý thống nhất theo chế độ tài chính, hoạch toán độc lập và được nhà nước bảo
hộ.
3


- Mức trợ cấp bảo hiểm.
Chủ yếu căn cứ vào mức đóng góp của người lao động vào quỹ bảo hiểm
xã hội nhiều hay ít và mức độ rủi ro, thương tật của người lao động ít hay nhiều.
Về cơ bản mức bảo hiểm được quán triệt theo nguyên tắc “ phân phối theo lao
động”. Tuy nhiên còn vận dụng cả nguyên tắc tương trợ lấy “số đông bù số ít”.
Mức trợ cấp được chi trả bằng tiền một lần hoặc hàng tháng nhằm bù đắp thu
nhập bị mất hoặc giảm sút của người lao động
- Chế độ bảo hiểm xã hội.
Chế độ bảo hiểm xã hội gồm nhiều chế độ trợ cấp khác nhau tùy thuộc vào
điều kiện riêng của từng quốc gia. Có thể xem xét một số chế độ bảo hiểm xã
hội chủ yếu sau:
+ Chế độ bảo hiểm ốm đau
Chế độ này có mục đích là nhằm đảm bảo thu nhập cho người lao động
trong trường hợp phải tạm thời nghỉ việc vì lý do ốm đau, tai nạn không liên
quan đến bệnh nghề nghiệp. Điều kiện hưởng là có sự kiện ốm đau tai nạn và
đáp ứng yêu cầu đóng tài chính trong một thời gian nhất định.
+ Chế độ bảo hiểm thai sản.
Chế đố này nhằm bảo đảm thu nhập và sức khỏe cho người lao động trong
các trường hợp mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ. Đối tượng áp dụng chủ yếu
là lao động nữ mang thai, sinh con. Điều kiện áp dụng ngoài điều kiện mang

thai, sinh con phải bảo đảm thời gian nhất định tham gia đóng bảo hiểm. Mục
đích của chế độ bảo hiểm này là nhằm bảo đảm thu nhập và sức khỏe cho bà mẹ
và trẻ em.
+ Chế độ bảo hiểm tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp.
Đây là chế độ nhằm bù đắp thu nhập cho người lao động bị tai nạn lao
động – bệnh nghề nghiệp. Phạm vi đối tượng áp dụng tùy thuộc vào khái niệm
tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp của mỗi quốc gia.
Quyền lợi của người lao động khi gặp tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp
là chăm sóc y tế , trợ cấp trong trường hợp mất sức lao động tạm thời hoặc vĩnh
viễn.
+ Chế độ bảo hiểm hưu trí.
Đây là chế độ trợ cấp dài hạn nhằm bảo đảm thu nhập của người lao động
khi về già ( hết tuổi lao động), không còn tham gia quan hệ lao động.
Điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí chủ yếu bao gồm tuổi đời, thời gian đóng
bào hiểm và độ suy giảm khả năng lao động.
+ Chế độ bảo hiểm tàn tật.
Chế độ bảo hiểm tàn tật là chế độ trợ cấp nhằm đảm bảo thu nhập và sức
khỏe khi gặp rủi ro tàn tật dẫn đến mất khả năng lao động.

4


Điều kiện hưởng trợ cấp tàn tật cơ bản bao gồm mức độ tàn tật được xác
định trên cơ sở khả năng lao động và thời gian đóng bảo hiểm. Quyền lợi được
hưởng là trợ cấp được chi trả định kì và có thể không giới hạn về thời gian, được
chăm sóc y tế và phục hồi chức năng. Ở Việt Nam nội dung chế độ bảo hiểm tàn
tật được nồng ghép trong các chế độ khác của BHXH như ốm đau, tai nạn lao
động – bệnh nghề nghiệp, hưu trí…
+ Bảo hiểm tử tuất.
Chế độ bảo hiểm tử tuất bao gồm hai chế độ: là bảo đảm chi phí mai táng

cho người chết và chế độ tiền tuất cho thân nhân khi bị mất nguồn thu nhập phụ
thuộc. Chế độ bảo đảm mai táng phí thường được chi trả một lần với mức ấn
định chung cho người thực hiện mai táng. Trợ cấp tiền tuất thường được quy
định mức đồng đều cho mọi thân nhân theo tỷ lệ gắn với thu nhập.
+ Chế độ bảo hiểm thất nghiệp.
Với mục đích là nhằm bảo đảm thu nhập cho người lao động trong trường
hợp bị thất nghiệp, hỗ trợ tạo điều kiện cho người lao động trở lại thị trường lao
động, điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp thường phức tạp hơn so với các chế
độ bảo hiểm khác nó có sự liên quan chặt chẽ đến vấn đề việc làm và giải quyết
việc làm. Ở Việt Nam bảo hiểm thất nghiệp được quy định lần đầu tiên trong
luật bảo hiểm xã hội năm 2006 và triển khai thực hiện chế độ bảo hiểm này và
ngày 1/1/2009 trong đó quy định quyền lợi của người được hưởng là trợ cấp thất
nghiệp, chi phí hỗ trợ học nghề, tìm việc làm cho người lao động.
- Thời gian hưởng bảo hiểm xã hội thường ổn định và lâu dài.
b. Bảo hiểm y tế.
Bảo hiểm y tế là một chính sách xã hội do nhà nước tổ chức thực hiện,
nhằm huy động sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động, các tổ
chức và cá nhân, để thanh toán chi phí khám, chữa bệnh theo quy định tại điều
lệ này cho người có thẻ bảo hiểm y tế khi ốm đau (Nghị định 63/2005/NĐCP của Chính phủ về việc ban hành Điều lệ Bảo hiểm y tế).
Bảo hiểm y tế có một số đặc trưng sau:
- Đối tượng áp dụng của bảo hiểm y tế.
Bảo hiểm y tế có đối tượng tham gia rộng rãi bao gồm mọi thành viên trong
xã hội bao gồm cả những người tham gia quan hệ lao động( có thu nhập) và cả
những người không có thu nhập, sống phụ thuộc, đồng thời không có sự phân
biệt về giới tính, tuổi tác, khu vực làm việc…
Như vậy hệ thống bảo hiểm y tế được coi là lý tưởng khi bao quát được
mọi thành viên trong xã hội. Tuy nhiên thực tế thì rất ít quốc gia đạt được điều
này. Trước mắt phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội mà các quốc gia quy
định cụ thể phạm vi áp dụng về lâu dài bảo hiểm y tế hướng tới bao quát toàn bộ
dân chúng trong xã hội.

5


-Chế độ hưởng bảo hiểm y tế.
Bảo hiểm y tế không nhằm bù đắp thu nhập cho người hưởng bảo hiểm mà
người tham gia bảo hiểm được hưởng các dịch vụ y tế như chăm sóc sức khỏe
ban đầu, thăm khám, điều trị đa khoa, chuyên khoa, các dịch vụ xét nghiệm,
chiếu chụp, cấp thuốc, chi phí nằm viện … trên cơ sở bảo hiểm y tế mà họ tham
gia.
- Hình thức tham gia bảo hiểm y tế.
Bảo hiểm y tế có hai hình thức là hình thức bảo hiểm bắt buộc và hình thức
bảo hiểm tự nguyện. Nhóm người lao động tham gia quan hệ lao động thường
áp dụng chế bắt buộc bởi ưu điểm dễ dàng nhất trong việc xác định mức đóng
góp. Nhóm đối tượng lao động tự do khó xác định, thường quy định tự nguyện
tham gia với mức đóng góp tự lựa chọn.
- Bảo hiểm y tế là chi phí ngắn hạn, không xác định trước, không phụ
thuộc vào thời gian đóng góp và mức đóng góp mà phụ thuộc vào mức bệnh
tật và khả năng cung ứng dịch vụ y tế.
-Quỹ bảo hiểm y tế.
Hiện nay có hai mô hình quỹ bảo hiểm y tế đó là mô hình quỹ bảo hiểm y
tế hình thành từ nguồn tài chính công và mô hình quỹ bảo hiểm từ nguồn đóng
góp trong đó phổ biến là mô hình quỹ bảo hiểm y tế từ sự đóng góp với mô hình
này nguồn tài chính hình thành chủ yếu từ sự đóng góp của người tham gia theo
tỷ lệ nhất định từ tiền lương, tiền thu nhập, nhà nước hỗ trợ đóng góp cho một số
đối tượng đặc biệt. Quỹ bảo hiểm y tế được hoạch toán độc lập với ngân sách
nhà nước chủ yếu chi phí y tế mà người tham gia sử dụng.
Quỹ bảo hiểm y tế được thiết lập với hai loại quỹ là quỹ bảo hiểm bắt buộc
và quỹ bảo hiểm tự nguyện, trong đó quỹ bảo hiểm bắt buộc đóng vai trò quan
trọng. Sự hỗ trợ giữa các loại quỹ cũng được đặt ra nhằm đảm bảo sự chi trả bảo
hiểm cho người tham gia.

c. Pháp luật về cứu trợ xã hội.
Cứu trợ xã hội bao gồm tổng hợp các hình thức và các biện pháp khác nhau
nhằm trợ giúp các đối tượng thiệt thòi, yếu thế hoặc bị hẫng hụt trong cuộc sống
mà bản thân họ không có đủ khả năng tự lo liệu, giải quyết được. Thông qua sự
trợ giúp mà tạo cho họ điều kiện tồn tại và hòa nhập với cộng đồng, từ đó góp
phần đảm bảo ổn định và công bằng xã hội.
Quan hệ cứu trợ xã hội là quan hệ được hình thành giữa người cứu trợ và
người được cứu trợ. Người cứu trợ là người có trách nhiệm hoặc là người có khả
năng cứu trợ có thể là nhà nước, cộng đồng nhân dân trong nước và cộng đồng
quốc tế. Người được cứu trợ là những cá nhân công dân thực sự có nhu cầu cứu
trợ, đang gặp rủi ro, bất hạnh.
Quan hệ cứu trợ xã hội có một số đặc trưng sau:
6


- Đối tượng cứu trợ.
Bao gồm mọi người dân không có sự phân biệt khi gặp phải những rủi ro,
bất hạnh trong cuộc sống. Tuy nhiên các quốc gia cũng có sự lựa chọn nhóm đối
tượng hưởng theo thứ tự ưu tiên những người bất hạnh, khó khăn, rủi ro nhất.
Theo ILO, đối tượng cứu trợ xã hội được đề xuất đầu tiên bao gồm người già,
người cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật…
- Hình thức cứu trợ.
Gồm hai hình thức cứu trợ là cứu trợ thường xuyên và cứu trợ đột xuất. cứu
trợ thường xuyên thường áp dụng đối với những người hoàn toàn không thể tự
lo được cuộc sống trong một thời gian dài, hoặc trong suốt cả cuộc đời họ. Cứu
trợ đột xuất thường áp dụng đối với những người không may bị thiên tai mất
mùa, hoặc gặp những biến cố bất thường không có nguồn sinh sống tức thời.
- Nguồn cứu trợ.
Chủ yếu từ ngân sách nhà nước và từ các nguồn ủng hộ của nhân dân và
cộng đồng quốc tế. Người thụ hưởng không phải đóng góp bất kì các khoản nào

vào quỹ cứu trợ bởi mục đích cứu trợ xã hội được coi như biểu hiện của việc
đảm bảo quyền con người trong xã hội, là trách nhiệm của nhà nước đối với
công dân của mình và mang ý nghĩa xã hội, nhân đạo.
- Mức trợ cấp và thời gian hưởng trợ cấp.
Mức trợ cấp ít hay nhiều và thời gian hưởng trợ cấp ngắn hay dài căn cứ
chủ yếu vào mức độ khó khăn của người được cứu trợ và nguồn cứu trợ. Ngoài
trợ cấp bằng vật chất như tiền, hiện vật còn có thể được trợ cấp về tinh thần như
chăm sóc y tế, phục hồi chức năng…
d. Ưu đãi xã hội.
Ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ về vật chất và tinh thần đối với người có công
với nước, với dân, với cách mạng( và thành viên gia đình họ) nhằm ghi nhận
những công lao đóng góp, hi sinh cao cả của họ. Trong hệ thống an sinh xã hội
Việt Nam, ưu đãi xã hội có vị trí to lớn và đặc biệt. Nó có vị trí to lớn, vì trải
qua những năm tháng lâu dài và gian khổ của cuộc chiến tranh giữ nước thì số
lượng những thương binh liệt sĩ người có công với cách mạng là khá lớn khoảng
6,3 triệu người chiếm 8% dân số. Nó có vị trí đặc biệt vì ưu đãi xã hội trở thành
một bộ phận quan trọng trong hệ thống pháp luật an sinh xã hội một nét đặc thù
của an sinh xã hội Việt Nam.
Quan hệ ưu đãi xã hội được hình thành giữa hai bên: Người ưu đãi và
người được ưu đãi. Người ưu đãi thường là nhà nước, người đại diện thay mặt
cho quốc gia có trách nhiệm đền ơn đáp nghĩa đối với những cống hiến, hi sinh
của người có công. Người được ưu đãi là những cá nhân có cống hiến hi sinh
trong sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong một số trường hợp
là thành viên gia đình của người có công.
7


Quan hệ pháp luật ưu đãi có một số đặc trưng sau:
- Đối tượng ưu đãi:
Là người có công với đất nước. Hiện nay khái niệm người có công được

hiểu theo hai nghĩa là nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng là những người không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, dân
tộc, tuổi tác… có những thành tích đóng góp hoặc những cống hiến xuất sắc
phục vụ cho lợi ích của dân tộc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công
nhận theo quy định của pháp luật.
Theo nghĩa hẹp người có công chỉ bao gồm những đối tượng có công trong
cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc ở thời kì cách mạng dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Đó là những người không phân biệt tôn
giáo, tín ngưỡng, dân tộc, tuổi tác… đã có những đóng góp, cống hiến xuất sắc
trong thời kì cách mạng được cơ quan tổ chức có thẩm quyền công nhận như
những người hoạt động cách mạng trước tháng Tám năm 1945, liệt sĩ và gia
đình liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Bà mẹ Việt Nam anh hùng,
Anh hùng lao động, thương binh, bệnh binh… Đây là nhóm đối tượng thuộc
phạm vi áp dụng chủ yếu của pháp luật ưu đãi xã hội Việt Nam…
So với các đối tượng khác của hệ thống pháp luật an sinh xã hội đối tượng
ưu đãi xã hội có điểm đặc điểm là nghĩa vụ đóng góp vật chất và tình trạng kinh
tế, nhu cầu sống không được đặt ra như một điều kiện hưởng bởi chế độ ưu đãi
xã hội không chỉ có ý nghĩa hỗ trợ về mặt vật chất đối với những đóng góp hi
sinh và còn có ý nghĩa vinh danh người có công.
- Nguồn trợ cấp ưu đãi.
Với việc xác định ưu đãi xã hội là nghĩa vụ của Nhà nước đối với người có
công nên nguồn trợ cấp ưu đãi chủ yếu do ngân sách nhà nước đảm bảo. Mặt
khác ưu đãi xã hội là một nội dung mang nặng tích xã hội thể hiện truyền thống,
đạo lý, tình cảm và trách nhiệm của cộng đồng đối với người có công vì vậy
song song với việc Nhà nước thực hiện ưu đãi xã hội bằng nguồn tài chính công
sự tham gia của cộng đồng bằng nguồn tài chính tự nguyện cũng giữ vai trò
quan trọng trong việc thực hiện ưu đãi xã hội.
- Chế độ ưu đãi.
Người có công và thân nhân của họ được hưởng những lợi ích về vật chất
và tinh thần trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như y tế, giáo dục đào

tạo, lao động, việc làm, trợ cấp trong đời sống sinh hoạt…..
- Mức hưởng trợ cấp và thời gian hưởng.
Mức trợ cấp căn cứ vào thời gian và mức độ cống hiến, hi sinh của người
có công. Mức trợ cấp đảm bảo sao cho đời sống vật chất và tinh thần của người
được hưởng trợ cấp ít nhất bằng mức sống trung bình của người dân nơi họ cư
trú. Thời gian hưởng trợ cấp tương đối ổn định và lâu dài.
8


Tóm lại các bộ phận cấu thành an sinh xã hội theo quan điểm của Việt Nam
hiện nay phổ biến được tiếp cận theo nghĩa hẹp theo đó an sinh xã hội sẽ bao
gồm 4 bộ phận chính là bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã
hội .Việc xác định các bộ phận cấu thành của an sinh xã hội là cơ sở lí luận quan
trọng cho việc thống nhất xác định các nội dung cơ bản của pháp luật an sinh xã
hội Việt Nam.
2. Bài tập.
a. Hãy xác định các chế độ an sinh xã hội mà anh H được hưởng?
Theo quy định của pháp luật anh H có thể được hưởng các chế độ an sinh
xã hội sau.
- Chế độ ưu đãi đối với người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc
hóa học theo quy định của pháp lệnh ưu đãi đối với người có công với cách
mạng năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2007.
Theo quy định của pháp luật người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc
hóa học chỉ hưởng chế độ ưu đãi đối với người có công với cách mạng khi thỏa
mãn hai yếu tố sau:
Thứ nhất: Người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học phải là
một trong những đối tượng được quy định tại khoản 1 Điều 22 Nghị định
54/2006/ NĐ – CP hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người
có công cụ thể như sau:
“a) Cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng

thuộc quân đội nhân dân Việt Nam.
b) Cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên thuộc lực lượng Công an nhân dân.
c) Cán bộ, công nhân, viên chức trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội và các đoàn thể chính trị - xã hội khác.
d) Thanh niên xung phong tập trung.
e) Dân công.
f) Công an xã, dân quân, du kích, tự vệ, cán bộ thôn, ấp, xã, phường”.
Thứ hai điều kiện hưởng chế độ ưu đãi đối với người hoạt động kháng
chiến bị nhiễm chất độc hoá học ( khoản 2 Điều 22 Nghị định 54/2006/ NĐ –
CP hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công ):
“- Đã công tác, chiến đấu, phục vụ chiến đấu từ tháng 8 năm 1961 đến 30
tháng 4 năm 1975 tại các vùng mà quân đội Mỹ đã sử dụng chất độc hoá học.
- Bị mắc bệnh làm suy giảm khả năng lao động, sinh con dị dạng, dị tật
hoặc vô sinh do hậu quả của chất độc hoá học.
Trường hợp không có vợ hoặc chồng hoặc đã có con trước khi tham gia
kháng chiến mà bị mắc bệnh suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên do hậu
quả của chất độc hoá học”.

9


Theo tình huống đề bài anh H có tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc
hóa học có thể mặc nhiên khẳng định anh H thuộc một trong các đối tượng được
quy định tại khoản 1 Điều 22 Nghị định 54/2006/ NĐ – CP hướng dẫn thi hành
một số điều của Pháp lệnh ưu đãi đối với người có công. Tuy nhiên điều kiện
hưởng phải thõa mãn hai điều kiện khoản 2 Điều 22 Nghị định 54/2006/ NĐ –
CP hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công mà dữ
kiện đề bài mới chỉ đề cập anh H sinh con dị tật, dị dạng mà chưa có các dữ kiện
khác nên có hai khả năng xảy ra:
+ Trường hợp thứ nhất anh H thõa mãn điều kiện đã công tác, chiến đấu, phục

vụ chiến đấu từ tháng 8 năm 1961 đến 30 tháng 4 năm 1975 tại các vùng mà
quân đội Mỹ đã sử dụng chất độc hoá học( Công văn số 3984/ LĐTBXH- NCC
ngày 12/11/2010 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội có hướng dẫn vùng
chịu ảnh hưởng chất độc hóa học do quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt
Nam là các địa phương từ vĩ tuyến 17 trở vào, địa bàn chiến trường C (Lào),
Chiến trường K ( Campuchia). Công văn số 501/ LĐTBXH- NCC ngày
25/2/2011 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội có bổ sung thêm 10 xã
thuộc huyện Vĩnh Linh tỉnh Quảng Trị gồm: Vĩnh Quang, Vĩnh Giang, Vĩnh
Tân, Vĩnh Thành, Vĩnh Ô, Vĩnh Khê, Vĩnh Hà, Vĩnh Lâm, Vĩnh Sơn, Vĩnh
Thủy vào vũng bị ảnh hưởng chất độc hóa học do quân đội Mỹ sử dụng trong
chiến tranh Việt Nam) và bị mắc bệnh làm suy giảm khả năng lao động, sinh
con dị dạng, dị tật( phải thuộc một trong 17 loại bệnh nằm trong danh mục bệnh,
tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với CĐHH/dioxin do Bộ Y tế
ban hành tại Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT ngày 20 tháng 2 năm 2008) thì
anh H được hưởng chế độ ưu đãi xã hội đối với người tham gia kháng chiến bị
nhiễm chất độc hóa học.
+ Trường hợp thứ hai anh H không thỏa mãn một trong hai điều kiện nêu trên
thi đương nhiên anh không được hưởng chế độ ưu đãi đối với người tham gia
kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học.
Chế độ ưu đãi này được áp dụng đối với anh H và con của anh H.
Đối với anh H chế độ ưu đãi gồm :
Trợ cấp hàng tháng căn cứ vào mức độ suy giảm khả năng lao động;
Bảo hiểm y tế, điều dưỡng phục hồi sức khỏe, phục hồi chức năng lao
động; cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình căn cứ vào tình trạng bệnh
tật của từng người và khả năng của Nhà nước;
Ưu tiên giao hoặc thuê đất, mặt nước, mặt biển, vay vốn ưu đãi để sản xuất,
miễn hoặc giảm thuế, miễn hoặc giảm nghĩa vụ lao động công ích theo quy định
của pháp luật; được hỗ trợ cải thiện nhà ở căn cứ vào hoàn cảnh của tiuwngf
người, khả năng của Nhà nước và địa phương;


10


Khi người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học chết người tổ
chức mai táng được hưởng một khoản trợ cấp và mai táng phí
Đối với con anh H
Trợ cấp hàng tháng căn cứ vào mức độ suy giảm khả năng tự lực trong sinh
hoạt;
Bảo hiểm y tế, cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình cần thiết căn
cứ vào mức độ suy giảm khả năng tự lực trong sinh hoạt;
Ưu tiên trong tuyển sinh và tạo việc làm, ưu đãi trong giáo dục và đào tạo.
Khi con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học
đang hưởng trợ cấp hàng tháng chết thì người tổ chức mai táng được hưởng một
khoản trợ cấp và mai táng phí.
- Chế độ bảo hiểm tai nạn lao động theo quy định của luật bảo hiểm xã
hội năm 2006.
Theo quy định của pháp luật chỉ được hưởng chế độ tai nạn lao động khi
đáp ứng các yêu cầu sau:
Thứ nhất Đối tượng áp dụng chế độ tai nạn lao động là người lao động quy
định tại điểm a, b, c, d, đ khoản 1 Điều 2 Luật bảo hiểm xã hội năm 2006 bao
gồm:
 Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp
đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên;
 Cán bộ, công chức, viên chức;
 Công nhân quốc phòng, công nhân công an;
 Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan
nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân;
người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân,
công an nhân dân;
 Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân

dân phục vụ có thời hạn;
Thứ hai điều kiện hưởng chế độ tai nạn lao động khi có đủ các điều kiện
được quy định tại Điều 39 Luật bảo hiểm xã hội năm 2006 cụ thể
“1. Bị tai nạn thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Tại nơi làm việc và trong giờ làm việc;
b) Ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo
yêu cầu của người sử dụng lao động;
c) Trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc trong khoảng thời
gian và tuyến đường hợp lý;
2. Suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do bị tai nạn quy định tại
khoản 1 Điều này”.

11


Theo tình huống đề bài đưa ra là Năm 1988 anh H được nhận vào làm việc
tại công ty X. Năm 2007 anh bị tai nạn lao động do sơ xuất trong quá trong quá
trình vận hành máy đối chiếu với quy định trên có thể xác định anh H thuộc
trường hợp người làm việc theo hợp đồng không xác định thời hạn và anh thuộc
trường hợp bị tai nạn tại nơi làm việc và trong giờ làm việc thuộc Điểm a khoản
1 Điều 39 Luật bảo hiểm xã hội năm 2006 như vậy anh H thỏa mãn đối tượng áp
dụng và điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm tai nạn lao động theo quy định của
luật bảo hiểm xã hội năm 2006.
Chế độ bảo hiểm tai nạn lao động mà anh H được hưởng.
Năm 2007 anh bị tai nạn lao động và giám định xác định anh bị suy giảm
28% khả năng lao động theo quy định tại Điều 42 luật bảo hiểm xã hội năm
2006 anh sẽ được hưởng trợ cấp 1 lần nhưng đến năm 2010 anh H giám định
lại , hội đồng y khoa kết luận anh bị mất 61 % khả năng lao động như vậy theo
quy định tại Điều 43 luật bảo hiểm xã hội anh H sẽ được chuyển chế độ từ trợ
cấp một lần sang trợ cấp hàng tháng ngoài ra anh còn được cấp phương tiện trợ

giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình ( Điều 45 Luật bảo hiểm xã hội 2006), trợ
cấp phục vụ (Điều 46 Luật bảo hiểm xã hội 2006), dưỡng sức phục hồi sức khỏe
( Điều 48 Luật bảo hiểm xã hội năm 2006).
Ở đây cần chú ý anh H có đi giám định lại và nằm viện điều trị 20 ngày vào
năm 2010 mặc dù anh H thuộc trường hợp đóng bảo hiểm y tế bắt buộc nhưng
anh thuộc trường hợp không được hưởng bảo hiểm y tế theo quy định tại khoản
9 và khoản 13 Điều 23 luật Bảo hiểm y tế năm 2008: “ Khám bệnh, chữa bệnh,
phục hồi chức năng đối với bệnh nghề nghiệp, tai nạn lao động, thảm họa”;
“Giám định y khoa, giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần”.
- Chế độ bảo hiểm hưu trí theo quy định của luật bảo hiểm xã hội năm
2006.
Để được hưởng chế độ hưu trí phải thỏa mãn các yêu cầu sau:
Thứ nhất đối tượng áp dụng chế độ hưu trí là người lao động được quy định
tại khoản 1 Điều 2 luật bảo hiểm xã hôi năm 2006 cụ thể như sau:
“1. Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là công dân Việt
Nam, bao gồm:
a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp
đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên;
b) Cán bộ, công chức, viên chức;
c) Công nhân quốc phòng, công nhân công an;
d) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ
quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân;
người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an
nhân dân;
12


đ) Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an
nhân dân phục vụ có thời hạn;
e) Người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng bảo hiểm

xã hội bắt buộc”.
Thứ hai thõa mãn các điều kiện hưởng lương hưu được quy định tại các
Điều 50, Điều 51 luật bảo hiểm xã hội năm 2006 cụ thể như sau:
“Điều 50. Điều kiện hưởng lương hưu
1. Người lao động quy định tại các điểm a, b, c và e khoản 1 Điều 2 của
Luật này có đủ hai mươi năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên được hưởng lương
hưu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Nam đủ sáu mươi tuổi, nữ đủ năm mươi lăm tuổi;
b) Nam từ đủ năm mươi lăm tuổi đến đủ sáu mươi tuổi, nữ từ đủ năm mươi
tuổi đến đủ năm mươi lăm tuổi và có đủ mười lăm năm làm nghề hoặc công việc
nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội và Bộ Y tế ban hành hoặc có đủ mười lăm năm làm việc ở nơi có phụ
cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên. Tuổi đời được hưởng lương hưu trong một số
trường hợp đặc biệt khác do Chính phủ quy định.
2. Người lao động quy định tại điểm d khoản 1 Điều 2 của Luật này có đủ
hai mươi năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên được hưởng lương hưu khi thuộc
một trong các trường hợp sau đây:
a) Nam đủ năm mươi lăm tuổi, nữ đủ năm mươi tuổi, trừ trường hợp Luật
sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam hoặc Luật công an nhân dân có quy định
khác;
b) Nam từ đủ năm mươi tuổi đến đủ năm mươi lăm tuổi, nữ từ đủ bốn mươi
lăm tuổi đến đủ năm mươi tuổi và có đủ mười lăm năm làm nghề hoặc công việc
nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội và Bộ Y tế ban hành hoặc có đủ mười lăm năm làm việc ở nơi có phụ
cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên.
Điều 51. Điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động
Người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d và e khoản 1 Điều 2 của
Luật này đã đóng bảo hiểm xã hội đủ hai mươi năm trở lên, bị suy giảm khả
năng lao động từ 61% trở lên, hưởng lương hưu với mức thấp hơn so với người
đủ điều kiện hưởng lương hưu quy định tại Điều 50 của Luật này khi thuộc một

trong các trường hợp sau đây:
1. Nam đủ năm mươi tuổi, nữ đủ bốn mươi lăm tuổi trở lên;
2. Có đủ mười lăm năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội và Bộ Y tế ban hành”.

13


Như trên đã xác định anh H làm việc tại công ty X theo hợp đồng lao động
không xác định thời hạn thuộc đối tượng áp dụng bảo hiểm hưu trí theo Điều 50,
51 luật bảo hiểm xã hội 2006 và anh H có 15 năm làm công việc đặc biệt nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm ( khoản 2 Điều 51 luật bảo hiểm xã hội 2006, Nghị
định số 152/2006/NĐ – CP hướng dẫn một số điều về luật bảo hiểm xã hội về
bảo hiểm bắt buộc) anh H đáp ứng điều kiện hưởng chế độ lương hưu do suy
giảm khả năng lao động mà không phụ thuộc vào tuổi đời.
b. Hãy giải quyết quyền lợi bảo hiểm hưu trí cho anh H theo quy định
của pháp luật hiện hành.
- Theo tình huống đầu bài anh H có 22 năm đóng bảo hiểm, mức độ suy
giảm lao động là 61%, anh có 15 năm là công việc năng nhọc, anh làm đơn xin
nghỉ hưu ở tuổi 49.
Đối chiếu với quy định tại Điều 27 Nghị định của Chính phủ số 152/2006/
NĐ – CP ngày 22/12/2006 hướng dẫn thi hành một số điều của luật BHXH về
BHXH bắt buộc điều kiện để hưởng lương hưu hàng tháng như sau:
“Người lao động đã đóng bảo hiểm xã hội đủ 20 năm trở lên, bị suy giảm
khả năng lao động từ 61% trở lên, được hưởng lương hưu khi thuộc một trong
các trường hợp sau:
1. Nam đủ 50 tuổi trở lên, nữ đủ 45 tuổi trở lên;
2. Có đủ 15 năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc
hại, nguy hiểm thì không kể tuổi đời”.

Như vậy anh H thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 27 Nghị định
152/2006/NĐ - CP đó là đủ 20 năm đóng bảo hiểm, bị suy giảm khả năng lao
động 61%, 15 năm là công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại nguy hiểm do đó
anh H hưởng trợ cấp lương hưu hàng tháng mà không phụ thuộc vào tuổi
đời.
- Mức lương hưu hàng tháng của anh H
+ Theo quy định tại Điều 28 Nghị định của Chính phủ số 152/2006/NĐ –
CP
“ Người lao động đủ điều kiện hưởng lương hưu theo quy định tại Điều 26
Nghị định này, mức lương hưu hằng tháng được tính bằng 45% mức bình quân
tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội quy định tại Điều 31 Nghị
định này tương ứng với 15 năm đóng bảo hiểm xã hội, sau đó cứ thêm mỗi năm
đóng bảo hiểm xã hội thì tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ; mức tối
đa bằng 75%.
Người lao động đủ điều kiện quy định tại Điều 27 Nghị định này, mức
lương hưu hằng tháng được tính theo quy định tại khoản 1 Điều này, sau đó cứ
mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 26 Nghị định
này thì mức lương hưu giảm đi 1%.
14


Mức lương hưu hằng tháng thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung”.
+ Tại thông tư số 03/2007/TT – BLĐTBXH ngày 30/1/2007 hướng dẫn thực
hiện một số điều của Nghị định số 152/2006/ NĐ – CP có quy định “Đối với người
nghỉ hưu theo khoản 2 Điều 27 Nghị định số 152/2006/NĐ-CP thì lấy mốc tuổi
55 đối với nam và tuổi 50 đối với nữ để tính số năm nghỉ hưu trước tuổi quy
định.
Theo tình huống đề bài anh H làm đơn xin nghỉ hưu khi 49 tuổi. Anh H có 15
năm làm công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại; bị suy giảm khả năng lao động
61% và có 22 năm đóng bảo hiểm xã hội căn cứ vào các quy định trên tỷ lệ

lương hưu của anh H được tính như sau:
15 năm đầu tính bằng 45%.
Từ năm thứ 16 đến năm 22 là 7 năm, tính thêm 7 × 2% = 14 %.
Tỷ lệ lương hưu hàng tháng của anh H được tính bằng 45% + 14% = 59%.
Anh H làm đơn xin nghỉ hưu lúc 49 tuổi thuộc trường hợp nghỉ hưu trước 55
tuổi theo quy định là 6 năm nên tỷ lệ hưởng lương hưu tính giảm 6% .
Tỷ lệ lương hưu hàng tháng của anh H là 59% - 6% = 53 %
Mức lương hưu hằng tháng mà anh H hưởng được tính bằng tích số của tỷ
lệ hưởng lương hưu hằng tháng( 53 %) với mức bình quân tiền lương, tiền công
tháng đóng bảo hiểm xã hội( mức bình quan tiền lương, tiền công tháng đóng
bảo hiểm xã hội được quy định tại Điều 31 Nghị định 152/2006/ NĐ – CP và
hướng dẫn chi tiết tại thông tư số 03/2007/TT – BLĐTBXH). Trường hợp sau
khi tính cụ thể mà mức lương hưu hằng tháng thấp hơn lương tối thiểu chung thì
được điều chỉnh bằng mức lương tối thiểu chung.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật an sinh xã hội, Nxb. CAND,
Hà Nội, 2009.
2. Nguyễn Hiền Phương, Cơ sở lí luận và thực tiền cho việc xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam, Luận án tiền sĩ
luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2008.
3. Luật bảo hiểm xã hội năm 2006.
4. Luật bảo hiểm y tế năm 2008.
5. Pháp lệnh ưu đãi người có công đối với cách mạng năm 2005.
6. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có
công đối với cách mạng năm 2007.

7. Nghị định số 152/2006/NĐ – CP ngày 22/12/2006 hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc.
8. Nghị định số 54/2006/ NĐ – CP ngày 26/5/2006 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của pháp lệnh ưu đãi người có công với
cách mạng năm 2005.
9. Thông tư số 03/2007/TT – BLĐTBXH hướng dẫn thực hiện một số điều
của Nghị định số 152/2006/ NĐ – CP ngày 22/12/2006.
10.Google.com.vn

16


17



×