Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Trình bày các quan điểm về tội phạm quốc tế?Phân tích sự cần thiết phải hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm ma túy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.66 KB, 12 trang )

Bài tập 1.
1. Trình bày các quan điểm về tội phạm quốc tế?
2. Phân tích sự cần thiết phải hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm
ma túy?
A, ĐẶT VẤN ĐỀ :
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, việc hội nhập mang lại cho chúng ta rất
nhiều cơ hội nhưng cũng đem đến không ít thách thức. Một trong những thách
thức mà hầu hết những quốc gia mở cửa hội nhập nền kinh tế phải đối mặt đó là sự
gia tăng của tội phạm, nhất là những loại tội phạm mang tầm quốc tế. Tội phạm
quốc tế mà trong đó đặc biệt là tội phạm về ma túy là loại tội phạm gây ảnh hưởng
lớn đến nền an ninh cũng như kinh tế của các quốc gia. Đấu tranh phòng chống tội
phạm quốc tế – tội phạm ma túy không chỉ đòi hỏi nỗ lực riêng của từng quốc gia
mà chúng ta cần phải hiểu rõ hơn các quy định quốc tế cũng như quy định của
pháp luật Việt Nam về nó, từ đó đưa các biện pháp cụ thể nhằm ngăn chặn sự phát
triển của nhóm tội phạm này. Để hiểu rõ hơn vấn đề này, em xin chọn đề bài số 01
“Trình bày các quan điểm về tội phạm quốc tế?Phân tích sự cần thiết phải hợp tác
quốc tế trong phòng, chống tội phạm ma túy?” làm bài tập lớn học kì của mình
B, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ :
I, Các quan điểm về tội phạm quốc tế :
Trên thế giới hiện nay, tội phạm quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ và nguy
hiểm. Thuật ngữ về TPQT cũng có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau :
1, Quan điểm về TPQT theo nghĩa rộng:
Theo nghĩa rộng thì TPQT có thể được hiểu theo các cách sau:
Thứ nhất, TPQT là tội phạm xâm phạm luật quốc tế, tội phạm xâm phạm con
người, tội phạm chống hòa bình, tội phạm chiến tranh, tội phạm xâm phạm Luật
Hình sự quốc tế.


Thứ hai, TPQT là hành vi phạm tội được thực hiện ở cấp độ quốc tế như tội diệt
chủng, tội chống loài người, tội phạm chiến tranh, tội xâm lược và tội mua bán
người…


Thứ ba, TPQT có thể là hành vi xâm phạm đến cộng đồng thế giới như tội phạm
khủng bố, tội phạm chiến tranh, tội chống loài người, tội diệt chủng…, những
hành vi đe dọa trật tự và an ninh thế giới hoặc có thể bao gồm cả các tội phạm
xuyên quốc gia như buôn bán ma túy, các hành vi phạm tội có tổ chức xuyên quốc
gia như lừa đảo, rửa tiền…, các tội liên quan đến tài chính khác, tội cố ý gây hại
cho môi trường, tội phạm vi tính…
Trong ba quan điểm này thì quan điểm thứ ba được xem là đầy đủ và chính
xác hơn cả về TPQT theo nghĩa rộng. Theo đó, TPQT theo nghĩa rộng không chỉ
bao gồm tội diệt chủng, tội phạm chiến tranh, tội chống loài người, tội xâm lược
mà còn có thể bao gồm một số tội khác được thực hiện ở cấp độ quốc tế. Ví dụ: tội
phạm buôn bán người, tội phạm ma túy, tội phạm rửa tiền…
2, Quan điểm về TPQT theo nghĩa hẹp:
TPQT theo nghĩa hẹp được hiểu theo phạm vi quy định của quy chế Rome về Tòa
án Hình sự quốc tế. Theo quy chế này, TPQT bao gồm bốn loại tội: Tội phạm diệt
chủng (Điều 6), tội phạm chống loài người (Điều 7), tội phạm chiến tranh (Điều
8), tội xâm lược (Điều 8bis).
- Tội phạm diệt chủng: theo Điều 6 thì hành vi khách quan của “tội phạm diệt
chủng” tuy có 5 dạng thể hiện khác nhau nhưng đều có tính chất xâm hại tính
mạng, sức khỏe, tự do thân thể của “nhóm người” (phạm vi nnj nhân tương đối
rộng với nhiều người) và mục đích “tiêu diệt một phần hoặc toàn bộ một nhóm
dân tộc, bộ tộc, chủng tộc hoặc tôn giáo”. Với cách mô tả của Điều 6, ta có thể
thấy rõ, dấu hiệu mục đích nói trên là dấu hiệu rất đặc trưng thể hiện sự khác biệt
của tội diệt chủng so với tọi phạm chống loài người, tội phạm chiến tranh.
- Tội phạm chống loài người: có thể thấy hành vi khách quan của tội phạm chống
loài người là “hành động tấn công trực tiếp vào thường dân có quy mô lớn hoặc
có hệ thống” (điều luật chỉ đòi hỏi là một phần của hành động tấn công). Mặc dù


hành vi này có nhiều hình thức biểu hiện khác nhau nhưng đối tượng mà người
phạm tội trực tiếp gây thiệt hại phải là “thường dân”; tính chất của hành vi tấn

công do người phạm tội thực hiện không phải là hành vi tấn công thông thường
mà là “có quy mô lớn” hoặc “có hệ thống”. Khi thực hiện hành vi tấn công nói
trên, người phạm tội ý thức được việc mình đang làm, nghĩa là biết được mình tấn
công là để “giết người” hoặc “ hủy diệt” hoặc “ép buộc làm nô lệ”…
- Tội phạm chiến tranh: Điều 8 đã diễn giải các hành vi cấu thành tội phạm chiến
tranh, theo đó, điểm đặc trưng của các dấu hiệu thuộc cấu thành tội phạm chiến
tranh đó là:
+ Không đòi hỏi người phạm tội phải nhận thức được những sự kiện đã tạo
nên đặc tính xung đột vũ trang như phạm vi mang tính chất quốc tế hoặc không
mang tính quốc tế.
+ Hành vi phạm tội xảy ra trong hoàn cảnh và liên quan chặt chẽ tới xung
đột vũ trang.
+ Người phạm tội có nhận thức về những hoàn cảnh thực tế về sự tồn tại
của xung đột vũ trang.
- Tội xâm lược: Có thể thấy hành vi khách quan đặc thù của tội xâm lược là “hành
vi sử dụng lực lượng vũ trang của một quốc gia chống lại một quốc gia khác”.
Biểu hiện của hành vi này có thể là: xâm chiếm hoặc tấn công bằng lực lượng vũ
trang từ lãnh thổ của một quốc gia đến một quốc gia khác, đánh bom bằng sức
mạnh vũ trang của một quốc gia xâm phạm đến lãnh thổ của một quốc gia khác
hoặc sử dụng bất kỳ một loại vũ khí nào do một quốc gia tiến hành đối với một
quốc gia khác… Quy chế Rome quy định của hành vi của một quốc gia sử dụng
“các lược lượng quân sự không chính quy” hoặc “lính đánh thuê” chống lại quốc
gia khác cũng là hành vi xâm lược. Đây là lại tội ác có tính nguy hiểm cao cho
cộng đồng quốc tế, do vậy, đối với tội xâm lược thì các hành vi mới chỉ là tạo tiền
đề cho “hành vi xâm lược” như lập kế hoạch, chuẩn bị cũng bị coi là phạm tội xâm
lược
II. Sự cần thiết phải hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm ma túy


1, Hậu quả của Tội phạm ma túy đối với cộng đồng quốc tế:

“Ma túy làm hủy hoại cuộc sống và cộng đồng, làm xói mòn sự tồn tại và phát
triển của loài người và là nguồn phát sinh tội phạm. Ma túy là mối đe dọa lớn đến
độc lập dân chủ và ổn định của các Nhà nước và các dân tộc, đe dọa đến cấu trúc
xã hội, nhân phẩm và hy vọng của hàng triệu người và gia đình họ”.
Nghiện ma tuý có tác hại lớn đối với con người và xã hội. Ma tuý và nghiện ma
tuý đã và đang là thảm hoạ chung của loài người. Tại diễn đàn Liên Hợp quốc,
ngài Boutros Gali - Thư ký Liên Hợp quốc đã đánh giá: "Trong những năm gần
đây, tình trạng nghiện hút ma tuý đã trở thành hiểm hoạ của toàn nhân loại. Không
một quốc gia, dân tộc nào thoát ra khỏi ngoài vòng xoáy khủng khiếp của nó để
tránh khỏi những hậu quả do nghiện hút và buôn lậu ma tuý gây ra. Ma tuý đang
làm gia tăng tội phạm, bạo lực, tham nhũng, vắt cạn kiệt nhân lực, tài chính, huỷ
diệt những tiềm năng quí báu khác mà lẽ ra phải được huy động cho việc phát
triển kinh tế - xã hội, đem lại ấm no, hạnh phúc cho mọi người. Ma tuý đang làm
suy thoái nhân cách, phẩm giá, tàn phá cuộc sống yên vui gia đình, gây xói mòn
đạo lý, kinh tế, xã hội... Nghiêm trọng hơn, ma tuý còn là tác nhân chủ yếu thúc
đẩy căn bệnh thế kỷ HIV/DS...''
2, Thực trạng của tội phạm ma túy
Có thể thấy rằng hoạt động buôn bán ma túy của tội phạm ma túy đang có xu
hướng tăng mạnh từ lượng ma túy cung ứng, cho đến việc đa dạng hóa các tuyến
vận chuyển ma túy quốc tế và cả chủng loại ma túy…
Hiện nay, người ta ước tính hằng năm trên thị trường thế giới số mua bán ma túy
bất hợp pháp lên đến 300 – 500 tỷ USD. Tình hình tội phạm ma túy phát triển
mạnh ở các khu vực trung tâm trồng cây có chất ma túy tự nhiên: “Tam giác
vàng”; “Trăng lưỡi liềm vàng” (trồng cây thuốc phiện và sản xuất heroin); khu vực
Nam Mỹ; một số nước trồng cây cần sa ở châu Phi và châu Á, diện thích trồng cây
có chất ma túy có thể giảm đi nhưng nguy hiểm hơn là việc sản xuất, điều chế,
buôn bán và sử dụng các loại ma túy tổng hợp ATS sẽ tăng nhanh và lan rộng ra
nhiều nước. “Tam giác vàng”; “Trăng lưỡi liềm vàng” và khu vực Nam Mỹ vẫn



còn là những trung tâm sản xuất lớn ma túy tự nhiên (thuốc phiện, heroin,
cocaine…) và điều chế ma túy tổng hợp; các nước Tây Âu, châu Mỹ, nơi có thế
mạnh về sản xuất tiền chất đang và sẽ là một trung tâm điều chế và sử dụng ATS
của thế giới (hiện nay Hà Lan và Bỉ là nơi sản xuất và sử dụng 70% ATS ở châu
Âu). Tại nhiều nước trên thế giới nhất là các nước đang phát triển, bọn tội phạm
về ma túy cũng sẽ tổ chức sản xuất ATS để kiếm lợi nhuận cao hơn.
Đông Nam Á, “Tam giác vàng” vẫn là một trung tâm sản xuất ma túy lớn nhất thế
giới, các nước bên cạnh đã có nhiều nỗ lực nhưng do địa hình, lợi nhuận từ sản
xuất, buôn lậu ma túy; sự ổn định chính trị chưa vững chắc, nên việc sản xuất và
buôn bán ma túy ở đây không giảm mà còn phát triển lan rộng sang các nước
trong khu vực, khơi thông nhiều con đường vận chuyển ma túy qua nước ta và các
nước xung quanh ra 5 biển Đông, biển Thái Lan để vận chuyển đi các nước nhất là
các nước tiêu thụ nhiều ma túy. Chủ nghĩa khủng bố quốc tế vẫn là một trong
những mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với nền hòa bình và an ninh quốc tế.
Chủng loại ma túy hiện nay cũng vô cùng đa dạng từ cần sa, heroin, cho đến các
loại ma túy tổng hợp như heroin, “đá”, tài mà….
Liên hợp quốc đã chính thức xác nhận tình trạng báo động về mối quan hệ mật
thiết giữa sản xuất, buôn bán, vận chuyển ma túy trái phép với các nhóm khủng
bố, tội phạm, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và nạn tham nhũng, về sự tăng
lên của các hoạt động bạo lực từ mối quan hệ sản xuất ma túy trái phép và buôn
bán vũ khí.
Trong khoảng 20 năm cuối của thế kỷ XX, gần hai mươi tổng thống, thủ
tướng, phó thủ tướng của các nước trên thế giới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội tham nhũng có liên quan đến ma túy. Trên 80% các vụ buôn bán ma túy lớn
trên thế giới bị phát hiện, khám phá đều có dấu hiệu, bằng chứng cụ thể về sự cấu
kết giữa bọn buôn lậu chuyên nghiệp với các quan chức chính phủ của các cơ quan
thương mại, hải quan, thuế quan, xuất nhập khẩu…
3, Hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm ma túy



Hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm ma túy được hiểu là các biện
pháp tạo ra sự phối hợp giữa các quốc gia hay các tổ chức quốc tế trong hoạt
động phòng chống tội phạm ma túy. Sự hợp tác này bao gồm việc trao đổi các
thông tin về tình hình tội phạm, trao đổi kinh nghiệm, đào tạo cán bộ, hỗ trợ tài
chính, phương tiện kỹ thuật, xây dựng pháp luật, phát hiện, điều tra, bắt giữ, dẫn
độ tội phạm…
Phải hợp tác quốc tế trong phòng chống tội phạm ma túy vì :
Thứ nhất, Hợp tác quốc tế tạo ra sự liên kết giữa các quốc gia, phát huy lợi thế,
sức mạnh của quốc gia ở phương diện pháp luật, trình độ, kỹ thuật, tài chính,
nghiệp vụ, cưỡng chế để đấu tranh có hiệu quả với tình hình tội phạm nói chung
và đối với tội phạm ma túy nói riêng, giữ vững hòa bình thế giới, an ninh toàn cầu.
Hợp tác quốc tế tạo ra sự tiếp xúc, hội nhập và hiểu biết lẫn nhau về pháp luật và
quan điểm của mỗi quốc gia trong đấu tranh phòng chống tội phạm, từ đó mỗi
quốc gia từng bước hoàn thiện công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trên cơ
sở của sự hợp tác.
Thứ hai, tính tất yếu của việc hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống tội
phạm ma túy: Như đã biết, đấu tranh phòng chống tội phạm là chức năng đối nội
của bất kỳ một quốc gia nào. Cuộc đấu tranh này diễn ra dựa trên nền tảng pháp
luật của mỗi quốc gia đó, do các cơ quan bảo vệ pháp luật của chính quốc gia đó
thực hiện. Không một quốc gia nào lại không coi trọng đấu tranh phòng chống tội
phạm.
Thế nhưng, nếu như nhiều thế kỷ trước đây, tội phạm ma túy thường hoạt động
đơn lẻ, tự phát thì ngày nay, tội phạm ma túy đã hoàn toàn biến đổi, phát triển một
cách mạnh mẽ trong không gian và thời gian, có tổ chức chặt chẽ, có tiềm lực kinh
tế, có địa bàn hoạt động… Đồng thời, chúng lợi dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật,
lợi dụng “kẽ hở” của pháp luật các nước và quốc tế để phạm tội. Tác hại do chúng
gây ra trên phạm vi rộng lớn xuyên quốc gia, xuyên lục địa, tội phạm mafia, tội
phạm có tổ chức, tội phạm quốc tế đã và đang đe dọa sự phát triển của các quốc
gia, của nhân loại. Từ các tội phạm truyền thống, tội phạm ma túy đã trở thành



một hiện tượng quốc tế hóa mạnh mẽ. Do vậy, đấu tranh phòng chống tội phạm
ma túy trong phạm vi mỗi quốc gia đã trở nên phức tạp, khó khăn hơn.
Sự nỗ lực của từng quốc gia đơn lẻ, biệt lập với nhau, thiếu sự liên kết, hợp tác
không thể đem lại hiệu quả mong muốn. Bởi tội phạm ma túy đã trở thành vấn đề
toàn cầu. Việc giải quyết nó nếu chỉ do một vài quốc gia đơn độc ở nước này hoặc
nước khác hoặc ở khu vực đều không đủ, không hiệu quả, việc truy nã dẫn độ
chúng rất khó khăn. Và bởi nó liên quan chặt chẽ đến việc nó được giải quyết (hay
không được giải quyết) ở nước khác, các khu vực khác cũng như trên thế giới nói
chung.
Do đó, trước thực tại khách quan này, sự liên kết, hợp tác giữa các quốc gia trong
đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy là một vấn đề cấp bách và có tính quy
luật. Đấu tranh phòng chống tội phạm trước kia được xem là công việc nội bộ của
quốc gia, nay đã được xem ở góc độ rộng hơn. Nói cách khác, hiện nay vấn đề tội
phạm ma túy mang tính toàn cầu, hoạt động đấu tranh phòng chống nó cũng phải
trên quy mô toàn cầu.
Xu hướng toàn cầu hóa là quy luật tất yếu khách quan. Mỗi quốc gia sẽ không thể
phát triển trong tình trạng biệt lập, khép kín, tách rời các quốc gia khác, trong đó
có vấn đề đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm ma túy nói
riêng. Đó là tiền đề quan trọng để liên kết tất cả các quốc gia có cùng quan tâm
chung lại với nhau.
Hơn nữa, đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy đòi hỏi nhanh chóng, chính xác
mới ngăn chặn kịp thời tội phạm, trừng trị thích đáng đối với hành vi phạm tội do
chúng gây ra. Vì vậy cần có sự hợp tác rộng rãi, phối hợp chặt chẽ, nhẹ nhàng giữa
các quốc gia, các tổ chức phòng chống tội phạm quốc tế, cung cấp thông tin, phối
hợp truy nã , bắt giữ, dẫn độ để đảm bảo tiến trình vụ án mới đem lại hiệu quả cao
trong công tác này.
Thứ ba, hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy trong bối
cảnh toàn cầu hóa hiện nay: Hiện nay, xu hướng hội nhập quốc tế trong tất cả lĩnh
vực giữa các quốc gia, kéo theo sự phát triển của tình hình tội phạm, đặc biệt là



đối với tội phạm có tính chất quốc tế và trong đó nghiệm trọng nhất có thể kể đến
chính là tội phạm ma túy.
Từ thực trạng và xu hướng toàn cầu hóa của tội phạm ma túy có thể thấy, tình hình
tội phạm ma túy trên thế giới đang ngày càng phát triển với tính chất, quy mô lớn
gây thiệt hại nghiêm trọng cho các quốc gia và cộng đồng quốc tế. Tình hình này
đặt các quốc gia trước yêu cầu tất yếu hợp tác quốc tế phòng chống tội phạm nói
chung và hợp tác quốc tế phòng chống tội phạm ma túy nói riêng.
Hơn nữa, Pháp luật của mỗi quốc gia chỉ có hiệu lực pháp luật trên phạm vi lãnh
thổ quốc gia đó. Và quốc gia cũng không thể đơn phương tiến hành các hoạt động
tố tụng trên lãnh thổ quốc gia khác, nếu không có thỏa thuận, hợp tác.
Hoạt động hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm ma túy là vấn đề chung và
là sự chia sẻ trách nhiệm trong việc hòa đồng cũng như đảm bảo sự công bằng
trong việc thực hiện dầy đủ mục đích, nguyên tắc của hiến chương Liên hợp quốc
và luật pháp quốc tế, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công
việc nội bộ của các nước, nhân quyền và quyền tự quyết của các quốc gia.
Hợp tác phòng chống ma túy và tội phạm ma túy đã và đang được thực hiện trên
tinh thần hợp tác đa phương, dưới sự diều hành, hỗ trợ, tài trợ của Liên hợp quốc,
các tổ chức tài chính quốc tế, ngân hàng thế giới, các ngân hàng phát triển khu
vực…
Các cơ quan thi hành pháp luật của quốc gia cũng như các cơ quan thi hành pháp
luật quốc tế như tổ chức cảnh sát hình sự quốc tế Interpol, tổ chức hải quan quốc
tế… thường xuyên có sự phối hợp trao đổi thông tin, hợp tác điều tra, khám phá,
bóc gỡ những đường dây buôn bán, vận chuyển ma túy xuyên quốc gia.
4, Sự hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm ma túy ở Việt Nam:
Có thể thấy rằng, Việt Nam ta đã tham gia vào hợp tác quốc tế trong phòng, chống
tội phạm ma túy từ rất sớm. Điển hình như việc Ngày 01 tháng 09 năm 1997,
thông qua Quyết định số : 798/QĐ-CTN. Bên cạnh đó Việt Nam đã ra nhập 3 công
ước của Liên Hợp quốc về kiểm soát ma túy gồm:



1. Công ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961 (đã được sửa đổi theo Nghị
định thư năm 1972 sửa đổi công ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961);
2. Công ước về các chất hướng thần năm 1971;
3. Công ước của Liên Hợp quốc về chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy
và các chất hướng thần năm 1988.
Năm 2000, Việt Nam tham gia Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia; năm 2003 là thành viên của Công ước Liên hợp quốc về
chống tham nhũng v.v..
Việt Nam tham gia các điều ước quốc tế về phòng chống tội phạm đa phương, khu
vực song phương. Ví dụ: Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với Lào,
Liên bang Nga, Trung Quốc, Cộng hòa Pháp, Ucraina… Ngoài ra, cấp chính phủ,
Việt Nam còn ký một số hiệp định: Hiệp định về chống ma túy Việt Nam – Thái
Lan (1998); Việt Nam – Lào (1998); Việt Nam – Campuchia (1998)…
Việt Nam cũng tham gia các tổ chức quốc tế toàn cầu và khu vực có chức năng
phòng chống tội phạm. Ví dụ: Liên hợp quốc (1977); Interpol (1991); Aseanapol
(1995)… Thông qua các tổ chức này cảnh sát Việt Nam cùng với cảnh sát các
nước trong khu vực tham gia phòng chống tội phạm có hiệu quả, đặc biệt là các tội
phạm ma túy.
Đẩy mạnh công tác hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm về ma túy, Việt
Nam đã hợp tác cùng các quốc gia láng giềng nhu Lào, Campuchia, Trung
Quốc….đẩy mạnh hoạt động công tác, điều tra về tội phạm ma túy…ví dụ như :
Sau 1 năm triển khai thực hiện biên bản ghi nhớ ngày 19/1/2011 tại hội nghị giao
ban công tác phối hợp phòng chống ma tuý qua biên giới lần thứ XI giữa các tỉnh
tuyến biên giới Việt – Lào tại thị xã Sầm Nưa, tỉnh Hủa Phăn, Lào; lực lượng
phòng chống và kiểm soát ma túy 8 tỉnh nói trên đã chủ động triển khai, tập trung
đấu tranh xử lý đối với các hành vi mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép chất
ma túy qua biên giới. Đã phát hiện, bắt giữ và xử lý 2.662 vụ, 3.547 đối tượng;
trong đó, các tỉnh phía Việt Nam phát hiện bắt giữ, xử lý 2.535 vụ, 3.331 đối



tượng; các tỉnh phía Lào phát hiện, bắt giữ và xử lý 127 vụ, 216 đối tượng.Thu
giữ: 347kg heroin, 30,349kg ma túy tổng hợp dạng đá, 23.461 viên ma túy tổng
hợp; 1.300kg thuốc phiện, 32 khẩu súng, 711 viên đạn, 5 quả lựu đạn và nhiều
tang vật, tài sản khác có liên quan đến hoạt động phạm tội về ma túy...
Bên cạnh những mặt tích cực cũng tồn tại một số hạn chế của Việt Nam trong hợp
tác quốc tế phòng chống tội phạm ma túy nói riêng cũng như phòng chống tội
phạm nói chung: Việc tham gia các điều ước quốc tế phòng chống tội phạm còn
chậm, chưa nhiều, đặc biệt là trong việc xây dựng, ký kết các hiệp định tương trợ
tư pháp song phương còn chưa thực sự được áp dụng mạnh mẽ. Bên cạnh đó, việc
phối hợp triển khai thực hiện các điều ước quốc tế về phòng chống tội phạm ch ưa
đạt hiệu quả như mong muốn do chưa có sự phối hợp tốt giữa các cơ quan chức
năng của Việt Nam (Công an – Viện kiểm sát – Tòa án – Bộ ngoại giao – Bộ tư
pháp…), giữa Việt Nam với các nước ký kết. Ngoài ra còn có sự hạn chế về mặt
chuyên môn, kỹ thuật nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ của cán bộ chiến sỹ trực tiếp
tham gia hợp tác quốc tế trong công tác phòng chống tội phạm.
C KẾT THÚC VẤN ĐỀ :
Như vậy, có thể thấy được rằng, tội phạm quốc tế - đặc biệt là tội phạm ma
túy ngày càng trở thành vấn đề lớn đối với mỗi quốc gia. Vì vậy, việc đảm bảo
hợp tác quốc tế cũng như hoàn thiện hệ thống pháp luật về tội phạm ma túy ở mỗi
nước là một trong những vấn đề cần phải đẩy mạnh nhằm ngăn chặn tội ác xảy ra,
góp phần ổn định về nền kinh tế, chính trị cũng như đời sống của nhân dân trong
mỗi quốc gia.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội – Ts. Dương Tuyết Miên – Quy chế Rome
về Tòa án hình sự quốc tế. Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội – 2011
2. Luật hình sự quốc tế - ThS. Nguyễn Thị Thuận (chủ biên) – Nxb Công an

nhân dân. Hà Nội – 2007
3. Giáo trình tội phạm học - Ts. Dương Tuyết Miên (chủ biên) –. Nxb Giáo
dục Việt Nam. 2010
4. Các trang wed tham khảo:
/> /> />option=com_content&view=article&id=713:ma-tuy-gay-tac-hi-cho-xa-hi-nh-thnao&catid=158:phong-chng-ma-tuy-hivaids&Itemid=363


Mục lục :
A, ĐẶT VẤN ĐỀ
B, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I, Các quan điểm về tội phạm quốc tế :
1, Quan điểm về TPQT theo nghĩa rộng:
2, Quan điểm về TPQT theo nghĩa hẹp:
II. Sự cần thiết phải hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm ma túy
1, Hậu quả của Tội phạm ma túy đối với cộng đồng quốc tế:
2, Thực trạng của tội phạm ma túy
3, Hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm ma túy
4, Sự hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm ma túy ở Việt Nam:
C KẾT THÚC VẤN ĐỀ :



×