Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

trình bày hiểu biết của em về chế độ tài sản ước định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.52 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu…………………………………………………………………..…2
Nội dung………………………………………………………………………..3
1. Chế độ tài sản vợ chồng……………………...…………………………3
1.1.

Chế độ tài sản ước định và chế độ tài sản pháp định………..……..3

1.2.

Hôn ước……………………………………..…………………………....3

2. Nguồn gốc hình thành chế độ tài sản ước định và việc áp dụng chế độ
tài sản ước định tại một số nước trên thế giới………………………...4
3. Chế độ tài sản ước định vợ chồng trong pháp luật Việt Nam……..…6
3.1.

Thời kì trước năm 1975………………………………………………...6

3.2.

Thời kì sau khi đất nước thống nhất……………………………..……7

4. Vấn đề thừa nhận chế độ tài sản ước định trong pháp luật Hôn nhân
và Gia đình Việt Nam…………………………………………………..8
4.1.

Ưu điểm của chế độ tài sản ước định………………………...

……….8


4.2.

Hạn

chế

của

chế

độ

tài

sản

ước

định………….................................8
4.3.

Đề xuất giải pháp……………………………………………………..…9

1


Kết luận……………………………………………………………………….11
Danh mục tài liệu tham khảo………………………………………………..12

LỜI MỞ ĐẦU

Do tính chất đặc biệt của quan hệ hôn nhân mà các vấn đề về quyền sở
hữu đối với tài sản của vợ chồng không thể chỉ điều chỉnh bằng các quy định
chung về sở hữu tài sản thông thường. Tất cả các quốc gia trên thế giới, dù chế
độ xã hội khác nhau, trình độ phát triển kinh tế khác nhau, điều kiện về phong
tục tập quán, truyền thống văn hóa khác nhau, tất cả quốc gia đó dù đã quy định
về quyền sở hữu tài sản thông thường nhưng ít hay nhiều cũng đều có quy định
riêng về vấn đề sở hữu tài sản vợ chồng. Như vậy, tài sản của hai người nam và
nữ khi bước vào hôn nhân được điều chỉnh bởi một quy chế pháp lý có tên là
“chế độ tài sản vợ chồng”.
Nói đến chế độ tài sản vợ chồng là nói đến vấn đề về sở hữu đối với tài
sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân. Trên tiêu chí hình thức, chế độ tài sản
vợ chồng được chia thành chế độ tài sản pháp định và chế độ tài sản ước định.
Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đều cho phép những người sắp kết hôn tự
thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng bằng một văn bản có tên “hôn ước”, tuy
nhiên ở Việt Nam thì chế độ tài sản vợ chồng chỉ do pháp luật quy định. Vậy,
chế độ tài sản ước đinh là gì và có nên đưa chế độ này vào trong pháp luật Hôn
nhân gia đình Việt Nam hay không? Để làm rõ vẫn đề này, em xin chọn đề tài
“trình bày hiểu biết của em về chế độ tài sản ước định” để phân tích. Từ đó có
cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về chế độ tài sản vợ chồng trong Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam.

2


NỘI DUNG
1. Chế độ tài sản vợ chồng
Nói đến chế độ tài sản vợ chồng là nói đến vấn đề sở hữu đối với tài sản
của vợ chồng. Chế độ tài sản của vợ chồng chỉ tồn tại trong thời kì hôn nhân (từ
khi kết hôn cho đến khi hôn nhân chấm dứt) và cũng do đó chế độ tài sản vợ
chồng không bao gồm các vấn đề thừa kế tài sản giữa vợ và chồng, vấn đề cấp

dưỡng của vợ chồng.
1.1.

Chế độ tài sản pháp định và chế độ tài sản ước định
Về hình thức pháp lí, chế độ tài sản vợ chồng có thể được xác định theo

căn cứ pháp luật (chế độ tài sản pháp định) hoặc theo thỏa thuận của vợ chồng
(chế độ tài sản ước định).
Chế độ tài sản pháp định là chế độ tài sản mà ở đó pháp luật đã dự liệu
về căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng đối với các loại tài sản, các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản của
vợ chồng. Chế độ tài sản pháp định được pháp luật của tất cả các quốc gia trên
thế giới dự liệu.
Khác với chế độ tài sản pháp định, chế độ tài sản ước định là chế độ tài
sản mà trong đó căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản, quyền và nghĩa
vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản, các trường hợp và nguyên tắc chia tài
sản của vợ chồng do vợ chồng thỏa thuận.
1.2.

Hôn ước
Khi áp dụng chế độ tài sản ước định, vợ chồng được tự do thỏa thuận về

chế độ tài sản trong thời kì hôn nhân. Văn bản ghi nhận sự thỏa thuận đó là hôn

3


ước. Hôn ước là văn bản do hai bên nam nữ lập trước khi kết hôn theo thể thức
nhất định trong đó ghi nhận sự thỏa thuận của họ về chế độ tài sản vợ chồng áp
dụng trong thời kì hôn nhân và chỉ phát sinh hiệu lực trong thời kì hôn nhân.

2. Nguồn gốc hình thành chế độ tài sản ước định và việc áp dụng chế độ
tài sản ước định tại một số nước trên thế giới
Xác định tài sản của vợ chồng dựa trên cơ sở hôn ước được xuất phát từ
quan niệm của nhà làm luật ở các nước phương Tây. Theo họ, hôn nhân thực
chất là một loại hợp đồng dân sự, hôn nhân chỉ khác với các loại hợp đồng dân
sự thông thường khác ở tính chất “long trọng” trong thiết lập (việc kết hôn phải
được đăng ký tại cơ quan nhà nước hoặc nhà thờ có thẩm quyền theo một nghi
thức đặc biệt được qui định trong pháp luật) và trong việc chấm dứt (hôn nhân
chỉ chấm dứt khi có sự kiện chết, có tuyên bố của Toà án một bên vợ, chồng đã
chết hoặc khi có bản án hoặc quyết của Toà án về ly hôn có hiệu pháp luật, tất
cả các trường hợp chấm dứt này phải tiến hành theo những thủ tục hành chính
hoặc thủ tục tố tụng tại Toà án được pháp luật qui định). Bên cạnh đó, nhà làm
luật ở các nước phương tây cũng đề cao quyền tự do cá nhân, quyền tự định
đoạt đối với tài sản của vợ, chồng. Như vậy, tự do lập hôn ước đã trở thành một
nguyên tắc và là giải pháp đầu tiên khi qui định chế độ tài sản của vợ chồng
trong pháp luật về Hôn nhân và Gia đình ở hầu hết các nước phương Tây.
Theo nguyên tắc trên, trước khi kết hôn vợ chồng hoàn toàn có quyền tự
do lập hôn ước để qui định chế độ tài sản của họ. Họ muốn lựa chọn chế độ tài
sản nào cũng được, pháp luật chỉ can thiệp và qui định chế độ tài sản của vợ
chồng khi họ không lập hôn ước. Điều 755 và Điều 756 Bộ Luật dân sự Nhật
Bản, Điều 1465 Bộ Luật Dân sự và thương mại Thái Lan, Điều 1387 Bộ Luật
Dân sự Cộng hoà Pháp (Luật số 65-570 ngày 13/7/1965) đều qui định: Vợ
chồng có thể tự do lập hôn ước, miễn là những thoả thuận trong hôn ước không

4


trái với thuần phong mỹ tục hoặc không trái với các qui định của pháp luật về
điều kiện thừa nhận tính hợp pháp của hôn ước.
Như vậy, tài sản của vợ chồng không nhất thiết do pháp luật qui định mà

do chính bản thân vợ chồng tự thoả thuận tài sản nào là tài sản chung, tài sản
nào là tài sản riêng. Vợ chồng có thể thoả thuận trên cơ sở lựa chọn theo một
chế độ tài sản được qui định trong pháp luật hoặc họ có thể chọn một chế độ tài
sản riêng biệt, hoàn toàn độc lập với chế độ tài sản theo qui định của pháp luật.
Các thoả thuận của vợ chồng trong hôn ước mang tính ổn định cao. Về
nguyên tắc, sau khi kết hôn việc thực hiện hôn ước là “bất di bất dịch”, Điều
1395 Bộ Luật Dân sự Pháp năm 1804 qui định: Hôn ước không thể thay đổi sau
khi đã kết hôn. Tuy nhiên, nguyên tắc hôn ước không thể thay đổi trong thời kỳ
hôn nhân có một hạn chế cơ bản là nó có thể gây ra những ảnh hưởng không tốt
đến lợi ích của gia đình, của bản thân vợ, chồng hay của người thứ ba có quan
hệ giao dịch với vợ chồng khi vợ chồng đã chọn lầm một chế độ tài sản hoàn
toàn không phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh gia đình, điều kiện nghề nghiệp,
thu nhập; hoặc, chế độ tài sản mà vợ chồng lựa chọn có thể chỉ phù hợp ở giai
đoạn đầu. Để khắc phục hạn chế trên, hiện nay, pháp luật một số nước đã thừa
nhận, các thoả thuận trong hôn ước có thể được thay đổi trong thời kỳ hôn nhân
với những điều kiện pháp lý chặt chẽ, Điều 1397 Bộ Luật Dân sự Cộng hoà
Pháp (Luật số 65-570 ngày 13/7/1965, Luật số 89 – 18 ngày 13/1/1989) qui
định: Sau hai năm áp dụng chế độ tài sản trong hôn nhân theo thoả thuận hoặc
theo Luật định, hai vợ chồng có thể, vì lợi ích của gia đình, xin sửa đổi hoặc
thay đổi hoàn toàn chế độ tài sản trong hôn nhân bằng một chứng thư có chứng
thực của công chứng viên và được Toà án nơi cư trú phê chuẩn.
Bộ Luật Dân sự Nhật Bản không qui định cụ thể về vấn đề này, nhưng
theo Điều 758, 759: Tài sản thuộc sở hữu chung có thể được thay đổi hoặc phân
chia trong trường hợp vợ chồng có thoả thuận hoặc trong trường hợp vợ, chồng
5


quản lý tài sản của nhau, nhưng người đó thực hiện quản lý tài sản không tốt và
người kia đã yêu cầu Toà án Hôn nhân và Gia đình tước bỏ việc quản lý nói
trên. Việc thay đổi hoặc phân chia tài sản chung không được sử dụng để chống

lại người thừa kế hợp pháp của chồng hoặc vợ, trừ khi việc này đã được đăng
ký. Như vậy, theo pháp luật Nhật Bản, những căn cứ xác định tài sản của vợ
chồng được qui định trong hôn ước cũng có thể được thay đổi cho phù hợp với
thực tế tạo lập, chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản giữa vợ và chồng.
3. Chế độ tài sản ước định vợ chồng trong pháp luật Việt Nam
3.1.

Thời kì trước năm 1975

Trong thời kỳ Pháp thuộc, luật pháp về dân sự ở Việt Nam mang đậm dấu
ấn của Bộ luật dân sự Napoléon. Trong ba bộ dân luật được áp dụng ở ba miền,
Bộ dân luật bắc và Bộ dân luật trung đã ghi chép những nguyên tắc cơ bản của
BLDS Pháp như : quyền tự do lập hôn ước và tính chất không thay đổi của chế
độ hôn sản. Khác với BLDS Pháp, hai Bộ dân luật này chỉ dự liệu một chế độ
chung để áp dụng cho những vợ chồng không lập hôn ước, mà không đề xuất
những chế độ để vợ chồng có thể thỏa thuận lựa chọn. Thực tế, những quy định
này đã được thực hiện ở Việt Nam trong khoảng 20 năm.
Trong giai đoạn đất nước bị chia cắt thành hai miền Nam-Bắc, pháp luật
về vấn đề này ở hai miền thể hiện những nội dung trái chiều. Luật hôn nhân và
gia đình ngày 29 tháng 12 năm 1959 ở Miền bắc chỉ quy định về một hình thức
của chế độ tài sản pháp định (chế độ cộng đồng toàn sản), và vì thế, không có
một quy định nào về quyền lập hôn ước của vợ chồng. Trong khi đó, ở Miền
nam, ba đạo luật đã được lần lượt ban hành để điều chỉnh các quan hệ dân sự,
gia đình (Luật gia đình ngày 02 tháng 1 năm 1959, Luật 15/64 ngày 23 tháng 7
năm 1964 và Bộ dân luật ngày 20 tháng 12 năm 1972), đều thừa nhận quyền tự
do lập hôn ước của vợ chồng và chế độ tài sản chung theo luật định chỉ được áp
dụng khi vợ chồng không lập hôn ước. Chẳng hạn, Bộ dân luật năm 1972 quy
6



định : Vợ chồng có thể tự do lập hôn ước tùy ý muốn, miễn không trái với trật
tự công cộng và thuần phong mỹ tục (Điều 145) và Luật pháp chỉ quy định chế
độ phu phụ tài sản khi vợ chồng không lập hôn ước (Điều 144).
3.2.

Thời kì sau khi đất nước thống nhất

Luật HN-GĐ năm 1986 và Luật HN-GĐ năm 2000 đều chỉ tập trung quy
định về một chế độ tài sản pháp định. Nhà lập pháp không dự liệu bất kỳ một
điều khoản nào cho phép vợ chồng lập hôn ước, nhưng cũng không ấn định
những quy định cấm. Trong bối cảnh đó, nhìn chung, giới luật gia và những
người áp dụng pháp luật đều cho rằng chế độ hôn sản pháp định có hiệu lực áp
dụng đối với tất cả các quan hệ hôn nhân hợp pháp, do vậy, mọi thỏa thuận của
vợ chồng trái với các quy định của chế độ hôn sản pháp định cần bị tuyên bố là
vô hiệu khi có tranh chấp xảy ra.
Tuy nhiên, trong trường hợp xảy ra sự kiện chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân, Nghị định số 70 của Chính phủ ngày 03 tháng 10
năm 2001 quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã
đem đến một yếu tố mới, mà chúng ta thấy có khả năng xuất hiện một chế độ tài
sản của vợ chồng khác với chế độ pháp định.
Khoản 2 Điều 8 quy định : Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất
kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản
chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận
khác. Mặt khác, các quy định ở Điều 9 và Điều 10 về khôi phục chế độ tài sản
chung của vợ chồng đòi hỏi vợ chồng đã chia tài sản chung mà sau đó muốn
khôi phục lại chế độ tài sản chung thì phải lập thành văn bản có người làm
chứng hoặc được công chứng, chứng thực.
Các quy định ở Khoản 2 Điều 8 và Điều 9, 10 thể hiện sự lôgíc của một ý
tưởng mới về những quan hệ tài sản giữa vợ và chồng theo thỏa thuận. Vậy thì
7



chúng ta có thể đưa ra một giả thuyết rằng, chính người soạn thảo văn bản Luật
đã muốn có một sự mềm dẻo trong việc thừa nhận chế độ hôn sản theo thỏa
thuận của vợ chồng trong những trường hợp cần thiết. Nếu giả thuyết này đúng,
thì đây quả thực sẽ là một bước đệm quan trọng cho việc thiết lập những quy
định về hôn ước trong Luật Hôn nhân và Gia đình tương lai. Mặt khác, vì Nghị
định 70 vẫn đang có hiệu lực, chắc chắn, sau khi chia hết tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có thể thực hiện một chế độ tách riêng tài sản. Tuy
nhiên, trong trường hợp này, việc đóng góp của các bên vợ, chồng vào đời sống
chung của gia đình cần được các văn bản pháp luật dự liệu cụ thể.
4. Vấn đề thừa nhận chế độ tài sản ước định trong pháp luật Hôn nhân
và Gia đình Việt Nam
Việc thừa nhận hay không thừa nhận chế độ tài sản ước định trong luật cần
được xem xét trên hai khía cạnh, ưu điểm và hạn chế.
4.1.

Ưu điểm của chế độ tài sản ước định

Tự xác lập hôn ước là bước cụ thể hóa nguyên tắc cá nhân có quyền tự
quyết định các vấn đề của bản thân, trong đó có hôn nhân và quyền sở hữu tài
sản trong hôn nhân. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, sở hữu cá nhân và tự
do kinh doanh đang dẫn đến ý thức độc lập và tự chủ ngày càng cao của cá nhân
về lợi ích tài sản. Tự do lập hôn ước cho phép vợ chồng tự quyết định quyền sở
hữu trong gia đình, tạo ra khả năng đôi bên có thể tự giác thực hiện các nghĩa
vụ và quyền được thỏa thuận. Do đó, nếu có tranh chấp về tài sản của vợ chồng,
hôn ước giúp các cơ quan tư pháp thực hiện tốt công tác xét xử và thi hành án.
4.2.

Hạn chế của chế độ tài sản ước định


Chế độ này đề cao lợi ích cá nhân, điều này mâu thuẫn với bản chất của
gia đình là “bổn phận và trách nhiệm”. Gia đình thường bắt đầu từ hôn nhân, từ
quan hệ vợ chồng về tình cảm mà phát sinh các quan hệ giữa cha mẹ và con,
anh chị em Trong trật tự đó không có chỗ cho cá nhân, không thừa nhận tính ích
8


kỉ của bất kì người nào. Nó đòi hỏi các chủ thể khi thực hiện nghĩa vụ của mình
phải đặt lợi ích của gia đình lên trước lợi ích cá nhân. Trong tự do lập hôn ước,
“cái tôi” thường được đề cao, lợi ích riêng này của cá nhân trong gia đình
không được đảm bảo sẽ là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự xa cách về
mặt tình cảm và các quan hệ gia đình có thể bị phá vỡ bởi yếu tố vật chất. Hạn
chế này của hôn ước có thể ảnh hưởng đến mục tiêu của hôn nhân là xây dựng
gia đình dân chủ, hòa thuận, hạnh phúc và bền vững.
Thêm vào đó, chế độ tài sản ước định không hoàn toàn phù hợp với tập
quán truyền thống và tâm lý chung của nhân nhân ta. Với người Việt Nam, hôn
nhân và gia đình là những quan hệ xã hội quan trọng nhất trong cuộc sống. Con
người sống gắn chặt với gia đình, phẩm chất và giá trị của từng người phụ thuộc
rất nhiều vào hôn nhân và gia đình của họ. Do đó, trong các vấn đề hôn nhân và
gia đình nói chung và các vấn đề về tài sản trong gia đình nói riêng, con người
Việt Nam thường đề cao lợi ích chung của gia đình hơn là lợi ích riêng của cá
nhân. Nhân dân ta đã có những quan niệm nói lên sự đồng tâm hiệp lực của cả
hai vợ chồng trong việc tạo lập và sở hữu tài sản chung của hai vợ chồng, chẳng
hạn về lao động sản xuất: “Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”; “Thuận vợ
thuận chồng tát biển Đông cũng cạn” hay về quyền sở hữu có quan niệm “ Của
chồng công vợ” Như vậy, quan niệm rạch ròi,tự do quá đà trong các vấn đề gia
đình nói chung và tài sản nói riêng không phải là tập quán tâm lí chung của
nhân dân ta, do vậy, việc áp dụng chế độ này vào đời sống hôn nhân cũng như
pháp luật ở Việt Nam còn tương đối khó khăn.

4.3.

Đề xuất giải pháp

Từ những phân tích trên, ta có thể thấy, để đuợc một cách thức tổ chức
hợp lý nhất các quan hệ tài sản của vợ chồng, Luật HN-GĐ Việt Nam cần quan
tâm xử lý hai vấn đề cơ bản sau :

9


Thứ nhất, nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận trong các quan hệ dân sự,
được ghi nhận trong Bộ luật dân sự, đảm bảo cho các cá nhân có quyền tự do
thỏa thuận để xác lập các quyền và nghĩa vụ, miễn sao các thỏa thuận đó không
vi phạm điều cấm của pháp luật và đạo đức xã hội. Trong các quan hệ gia đình,
vợ chồng có bổn phận, trách nhiệm phải đảm bảo những điều kiện về tinh thần
cũng như vật chất cho sự tồn tại và phát triển của gia đình mình. Tuy nhiên,
điều đó không có nghĩa là tất cả các đôi vợ chồng đều cần phải thực hiện một
chế độ tài sản chung nhất. Quyền tài sản của vợ chồng là quyền gắn với nhân
thân vợ chồng, vì vậy cần phải để cho chính họ cùng nhau thỏa thuận, quyết
định lựa chọn một hình thức thực hiện hợp lý, có lợi nhất cho bản thân và cho
gia đình. Mặt khác, để bảo vệ lợi ích của gia đình, của con cái, Luật HN-GĐ
cần tập trung quy định một cách rõ ràng hơn những những nghĩa vụ và quyền
về tài sản của vợ và chồng – áp dụng chung nhất cho mọi trường hợp, đồng thời
phải đi kèm với những biện pháp đảm bảo thực hiện. Trong bối cảnh luật pháp
như vậy, sự tự do thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng sẽ không phá vỡ
tính cộng đồng của hôn nhân, mà trái lại, nó sẽ củng cố những quan hệ gia đình
một cách thực chất và theo tinh thần tự nguyện hơn.
Thứ hai, thực tế kinh tế-xã hội Việt Nam hiện nay đã có rất nhiều thay
đổi so với thời kỳ những năm 80-90. Gia đình không còn bó hẹp với chức năng

duy trì cuộc sống của các thành viên, mà thực sự đã tham gia tích cực vào nền
kinh tế xã hội. Những quan hệ kinh tế đòi hỏi vợ, chồng phải có những quyết
định nhanh nhạy, nhưng muốn vậy họ phải chủ động về tài sản. Chúng tôi cho
rằng, Luật HN-GĐ hiện hành chưa theo kịp diễn biến của những quan hệ kinh
tế, dân sự hiện nay. Nếu vợ, chồng thực hiện đúng theo quy định pháp luật,
trong nhiều trường hợp, họ sẽ bỏ lỡ những cơ hội làm ăn.
Mặt khác, việc đưa những tài sản chung của vợ chồng vào các hoạt động
sản xuất, kinh doanh cũng hàm chứa những rủi ro và có thể dẫn đến nguy cơ
10


tiêu tán tài sản của gia đình, đặt cuộc sống gia đình vào trong tình trạng bấp
bênh. Vì thế, ở những nước mà luật pháp thừa nhận chế độ hôn sản ước định,
những người vợ, chồng làm nghề kinh doanh thường nghĩ đến một chế độ tách
riêng tài sản. Chế độ đó vừa tạo điều kiện cho họ chủ động trong hoạt động
kinh doanh, vừa tránh được những rủi ro có thể xảy đến cho cuộc sống gia đình.

KẾT LUẬN CHUNG
Tóm lại, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận không phải là một
điều mới lạ đối với xã hội Việt Nam, thậm chí nó đã từng được thực hiện trong
một thời gian khá dài (nhất là ở Miền nam). Thực chất, việc duy trì duy nhất
một chế độ tài sản của vợ chồng, cho đến nay, phản ánh sự thắng thế của một
quan điểm lập pháp, chứ không phải hoàn toàn xuất phát từ thực tiễn kinh tế-xã
hội. Chúng ta không phủ nhận sự phù hợp của chế độ cộng đồng tạo sản mà mà
Luật Hôn nhân và gia đình đang thực hiện, nhưng sự áp đặt của chế độ này cho
mọi quan hệ vợ chồng thì không thể được coi là hợp lý. Do đó, Pháp luật về
Hôn nhân và Gia đình Việt Nam cần thay đổi lại phương thức tổ chức các chế
độ tài sản của vợ chồng, theo hướng thừa nhận quyền tự do của vợ chồng trong
việc chọn chế độ tài sản áp dụng.


11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2009.
2. Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000
3. Nghị định của Chính phủ số 70/2001 NĐ-CP ngày 03/10/2001 quy định chi
tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
4. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và
gia đình Việt Nam, Nhà xuât bản Tư pháp, 2008
5. Nguyễn Hồng Hải, Vấn đề thừa nhận chế độ tài sản định ước trong pháp
luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, tạp chí Luật học, số 3 năm 1998.
6. Bùi Minh Hồng, Chế độ tài sản theo chế độ thỏa thuận của vợ chồng lliên hệ
từ pháp luật nước ngoài đến pháp luật Việt Nam

12


7. Phạm Thị Linh Nhâm, Tìm hiểu về hôn ước và khả năng áp dụng hôn ước ở
Việt Nam, Khóa luật tốt nghiệp, đại học Luật Hà Nội, năm 2010.

13



×