Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Quy định của pháp luật và thực tiễn giải quyết việc làm đối với NKT ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.36 KB, 17 trang )

Mục lục

Trang

A. LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………….

1

B. NỘI DUNG……………………………………………………………..

1

I. Khái quát chung về NKT, pháp luật NKT………………………..

1

1. Định nghĩa người khuyết tật…………………………………….

1

2. Đặc điểm NKT…………………………………………………..

1

3. Khái quát chung về luật người khuyết tật…………………………

2

II. Quy định của pháp luật về việc làm đối với NKT………………

2



1. Khái niệm, nguyên tắc và ý nghĩa của việc làm đối với NKT….

2

1.1. Khái niệm việc làm đối với NKT……………………………..

3

1.2. Nguyên tắc cơ bản của việc làm đối với NKT………………

3

1.3. Ý nghĩa của việc làm đối với NKT……………………………

4

2. Chế độ việc làm của NKT……………………………………..

5

2.1. Quyền và nghĩa vụ của NKT trong lĩnh vực việc làm…….

5

2.2. Chế độ hỗ trợ đối với NKT trong lĩnh vực việc làm………

6

2.3. Trách nhiệm của một số chủ thể trong lĩnh vực việc

làm đối với NKT.

7

III. Thực tiễn giải quyết việc làm đối với NKT ở Việt Nam hiện
nay…………………………………………………………………
1. Kết quả đạt được………………………………………………

8

2. Một số hạn chế…………………………………………………

10

IV.

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải

quyết việc làm đối với người khuyết tật………………………
C. KẾT LUẬN…………………………………………………………….

8

13
15

1


A. LỜI MỞ ĐẦU

Người khuyết tật ( NKT) là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội, chính vì
thế, việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục và tạo việc làm cho người khuyết tật, giúp họ vượt
qua những khó khăn, hòa nhập vào đời sống cộng đồng, xã hội là những hoạt động có ý
nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội và nhân văn sâu sắc. Đã từ lâu, Đảng và Nhà nước ta dành
rất nhiều sự quan tâm cho đối tượng này, bằng những chính sách ưu tiên, ưu đãi, bằng tình
thương và tấm lòng nhân ái của toàn xã hội, ngày càng có nhiều NKT được giúp đỡ để
vượt qua những khó khăn, bất hạnh trong cuộc sống... Tuy nhiên, do số lượng NKT ở
nước ta còn nhiều ( hơn 5.3 triệu người) , họ vẫn còn gặp nhiều khó khăn trên con đường
làm chủ cuộc sống và hoà nhập cộng đồng, đặc biệt là vấn đề việc làm. Để hiểu thêm về
vấn đề này thì em xin đi sâu vào tìm hiểu vấn đề: “ Quy định của pháp luật và thực tiễn
giải quyết việc làm đối với NKT ở Việt Nam hiện nay”.
B. NỘI DUNG
I. Khái quát chung về NKT, pháp luật NKT.
1. Định nghĩa người khuyết tật.
Hiện nay, có rất nhiều quan điểm về NKT. Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật
Người Khuyết tật thì NKT được hiểu là : “ Người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận
cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh
hoạt, học tập gặp khó khăn” 1. Cách hiểu này dựa vào mô hình xã hội tuy nhiên khái niệm
này còn chung chung và chưa đề cập được đến quyền của NKT. Tiếp cận một cách toàn
diện và đầy đủ dưới góc độ quyền con người với những rào cản do yếu tố xã hội, môi
trường, con người khi tham gia vào mọi hoạt đông kinh tế- văn hóa- xã hội thì người
khuyết tật được hiểu là : “ Người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị
suy giảm chức năng dẫn đến những hạn chế đáng kể và lâu dài trong việc tham gia của
người khuyết tật vào hoạt động xã hội trên cơ sở bình đẳng với những chủ thể khác” 2.
2. Đặc điểm người khuyết tật.
Người khuyết tật trước hết là những con người nên họ mang những đặc điểm chung
về mặt kinh tế - xã hội, đặc điểm tâm sinh lí như mọi người khác trong xã hội. Tuy nhiên,
với những đặc điểm riêng về từng dạng khuyết tật nên nhóm người khuyết tật nói chung
lại có những nét đặc thù so với nhóm người không khuyết tật và mỗi nhóm người khuyết
tật dạng này lại có nét đặc thù tương đối so với nhóm người khuyết tật khác.

● Đặc điểm của người khuyết tật dưới góc độ kinh tế - xã hội:
1
2

Khoản 1 Điều 2 Luật Người Khuyết tật
Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật người khuyết tật Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, tr 21

2


Từ góc độ kinh tế, khuyết tật là nguyên nhân làm giảm cơ hội việc làm, phát triển
kinh tế; khả năng sống độc lập khó hơn đối tượng khác (phụ thuộc vào gia đình, người
thân,..), không chỉ bản thân người khuyết tật gặp khóc khăn về kinh tế mà còn gặp khó
khăn cho gia đình, cộng đồng.
Từ góc độ xã hội, người khuyết tật gặp khó khăn trong sinh hoạt, học tập, gặp rào
cản trong hòa nhập (gia đình, cộng đồng, học tập,…), có xu hướng thu hẹp, tách biệt cộng
đồng. Những khó khăn càng trở lên trầm trọng hơn do thái độ tiêu cực của cộng đồng đối
với người khuyết tật.
● Đặc điểm người khuyết tật dưới góc độ dạng tật và mức khuyết tật:
Các dạng tật và mức độ khuyết tật cũng như việc xác định mức độ khuyết tật được
quy định chi tiết trong Luật người khuyết tật Việt Nam và Nghị định 28/2012/NĐ-CP
ngày 10 tháng 04 năm 2012 của Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật người khuyết tật năm 2010..
3. Khái quát chung về luật người khuyết tật.
3.1. Khái niệm Luật người khuyết tật
Luật người khuyết tật là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành
hoặc thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đảm bảo các quyền
và trách nhiệm của người khuyết tật.
3.2. Các nguyên tắc cơ bản của luật người khuyết tật Việt Nam
Dưới góc độ lí luận nhà nước và pháp luật, các nguyên tắc của pháp luật được hiểu

là quan điểm, tư tưởng chỉ đạo trong quá trình ban hành, thực thi, áp dụng, sửa đổi, bổ
sung pháp luật. Luật người khuyết tật 2010 của Việt Nam không có điều luật cụ thể quy
định về các nguyên tắc. Tuy nhiên, trên cơ sở nội dung pháp luật đã được ban hành và
thực tiễn thực hiện ở Việt Nam có thể xác định một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật
người khuyết tật như sau: Nguyên tắc tôn trọng và đảm bảo quyền của người khuyết tật;
nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử; nguyên tắc tham vấn người khuyết tật,
đối tác xã hội và tổ chức xã hội; nguyên tắc đảm bảo quyền được tiếp nhận, hỗ trợ và điều
chỉnh hợp lí đối với người khuyết tật; nguyên tắc bảo đảm hội nhập và thực thi các cam
kết quốc tế.
II. Quy định của pháp luật về việc làm đối với NKT.
1. Khái niệm, nguyên tắc và ý nghĩa của việc làm đối với NKT.
1.1. Khái niệm việc làm đối với NKT.
Việc làm theo cách hiểu đơn thuần là một hoặc tập hợp một số công việc mà người
lao động tiến hành để có thu nhập nhằm thỏa mãn những nhu cầu của đời sống xã hội.
3


Ở Việt Nam, thì khái niệm việc làm được chính thức ghi nhận trong bộ luật Lao
động năm 1994, cụ thể việc làm được hiểu là : “ Mọi hoạt động lao động nhằm tạo ra thu
nhập và không bị pháp luật cấm” 3 . Theo định nghĩa này thì việc làm có thể được hiểu là
những hoạt động lao động có tính chất thường xuyên liên tục và mang tính nghề nghiệp,
do những người lao động thực hiện trong thời gian tương đối ổn định và phạm vi nhất
định nhằm tạo ra thu nhập và hoạt động đó phải là hoạt động hợp pháp. Từ khái niệm này
thì ta có thể hiểu khái niệm việc làm đối với NKT là : “ Các hoạt động tạo ra thu nhập
cho người khuyết tật và không bị pháp luật cấm” 4. Tuy nhiên, việc làm cho NKT là đề cập
dưới góc độ cơ hội việc làm cho họ. Việc làm ở đây bao gồm cả việc tiếp nhận đào tạo
nghề, được tiếp nhận việc làm và các loại nghề nghiệp và cả điều kiện sử dụng lao động
cũng như đảm bảo việc làm. Như vậy, theo quy định pháp luật thì NKT được tạo cơ hội
việc làm bình đẳng như những người lao động khác.
1.2. Nguyên tắc cơ bản của việc làm đối với NKT.

Để NKT có cơ hội và điều kiện làm việc bình đẳng như những người lao động khác
thì pháp luật Việt Nam có quy định các nguyên tắc cơ bản .
● Nguyên tắc không phân biệt đối xử đối với NKT trong lĩnh vực việc làm:
Nguyên tắc này xuất phát từ vấn đề quyền con người. NKT bị khiếm khuyết một
hay nhiều bộ phận nên có được việc làm đối với họ rất khó khăn. Thực tế hiện nay những
người sử dụng lao động không muốn nhận những NKT mặc dù trong luật có quy định bởi
vì năng suất lao động của NKT thấp hơn so với người không khuyết tật, hơn nữa trong
một số trường hợp sử dụng lao động khuyết tật thì người sử dụng lao động còn phải đầu tư
cơ sở vật chất để tạo môi trường làm việc thuận lợi cho NKT. Chính điều này tạo nên sự
phân biệt đối xử việc làm giữa NKT và người không khuyết tật. Phân biệt đối xử bao gồm
phân biệt đối xử trực tiếp ( là sự đối xử không công bằng giữa người lao động khuyết tật
và người lao động không khuyết tật được quy định trong luật pháp hoặc các thông lệ thực
tiễn gây nên sự khác biệt rõ ràng giữa những người lao động này) và phân biệt đối xử gián
tiếp ( Là những quy định pháp luật hoặc các thông lệ thực tiễn gián tiếp làm triệt bỏ hoặc
làm phương hại sự bình đẳng cơ may hoặc đối xử giữa nhưng NKT và người không
khuyết tật trên thực tế).
Nguyên tắc này được hiểu là việc NKT và người không khuyết tật được đối xử bình
đẳng như nhau về việc làm, cơ hội tìm việc làm cũng như quá trình sử dụng lao động và
bảo đảm việc làm.
● Nguyên tắc hỗ trợ, điều chỉnh hợp lý đối với NKT trong lĩnh vực việc làm.
3
4

Điều 13, Bộ Luật Lao động năm 1994 ( Sửa đổi năm 2007).
Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật người khuyết tật Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, tr 204

4


NKT là một trong những đối tượng lao động đặc thù. Do những đặc điểm về thể chất

nên họ gặp nhiều khó khăn trong tìm kiếm việc làm cũng như duy trì việc làm, hơn thế họ
cần được làm việc trong một môi trường đặc thù, riêng biệt phù hợp với sức khỏe. Để
NKT bình đẳng như người khác về cơ hội việc làm cũng như duy trì nó thì cần phải có sự
hỗ trợ, điều chỉnh hợp lý cho NKT để họ có thể tìm kiếm được việc làm và có được việc
làm bền vững, được thực hiện quyền việc làm của mình. Đặc biệt là đối với nữ lao động
khuyết tật, những người thường phải đối mặt với những bất lợi, khó khăn hơn lao động
nam khuyết tật bởi họ còn bị phân biệt đối xử về giới. Những hỗ trợ đặc biệt nhằm tạo cơ
hội bình đẳng và đối xử bình đẳng giữa lao động khuyết tật với lao động không khuyết tật
không bị coi là phân biệt đối xử mà chỉ là việc làm nhằm tạo điều kiện để NKT được bình
đẳng ngang bằng với những người lao động khác, giúp họ tái hòa nhập với cộng đồng. Để
việc hỗ trợ, điều chỉnh này được đảm bảo thực thi trên thực tế thì Nhà nước với tư cách là
chủ thể quyền lực phải chịu trách nhiệm chình trong việc hỗ trợ, điều chỉnh này. Bản thân
NKT cũng phải có những cố gắng nhất định và người sử dụng lao động cũng phải có trách
nhiệm hỗ trợ một phần.
1.3. Ý nghĩa của việc làm đối với NKT.
Đối với chúng ta, việc làm có ý nghĩa rất quan trọng bởi nó tạo ra thu nhập để thỏa
mãn những nhu cầu lợi ích, duy trì cuộc sống. Đối với NKT, việc làm lại càng ý nghĩa.
■ Việc làm giúp người khuyết tật có thu nhập và cuộc sống ổn định.
Từ xa xưa, theo quan niệm truyền thống và đạo đức thì người ta thường nhìn nhận
NKT là một đối tượng yếu thế cần được trợ giúp, họ thường sống dựa vào gia đình, xã
hội, cộng đồng. Chính vì thế xã hội và những người thân cần phải giúp đỡ, hỗ trợ họ. Tuy
nhiên, chính thái độ này làm cho NKT cảm thấy mình là người “ ăn bám, gánh nặng”. Do
vậy, nếu NKT có việc làm thì đời sống vật chất và tinh thần của họ sẽ được nâng cao: Họ
có thu nhập để nuôi sống bản thân không cần phải sống dựa vào người khác, thậm chí họ
còn hỗ trợ gia đình, đóng góp cho xã hội. Các nhìn về người lao động cũng sẽ thay đổi,
họ trở thành một chủ thể của xã hội, cũng có quyền được làm việc, được đóng góp, cống
hiến sức lao động của mình cho xã hội như bao người bình thường khác.
■ Việc làm giúp NKT hòa nhập vào cộng đồng và tự tin hơn vào cuộc sống:
Những NKT do những khiếm khuyết về thể chất và tinh thần và thái độ của xã hội
dành cho họ nên đa số NKT luôn trong tình trạng tự ti, mặc cảm với số phận kém may

mắn, phó mặc số phận cho ông trời và chỉ biết dựa vào gia đình hoặc của cộng đồng, họ
ngại hòa nhập với cuộc sống, họ không tự tin trong cuộc sống, thu hẹp mình lại, ngại
giao tiếp. Chính vì thế nếu có việc làm, được đóng góp sức mình vào sự phát triển
chung của xã hội thì NKT sẽ cảm thấy tự tin trong cuộc sống, có ý chí vươn lên trong
5


cuộc sống và lao động như những người bình thường khác và có thể hòa nhập được với
cộng đồng bởi trong môi trường làm việc thì họ được tiếp xúc với nhiều người, được
đóng góp sức của mình, cảm thấy mình có ích. Bên cạnh đó thì việc làm cũng xây dựng
lòng tin và tạo ra các kênh tương tác xã hội, từ đó mang lại lòng tự hào và nhân phẩm
cho người khuyết tật. Có thể nói : “ Việc làm là công cự quan trọng nhất để có thể tái
hòa đồng những người thường có xu hướng bị bỏ bên rìa xã hội”.
■ Việc làm cho NKT góp phần phát huy nguồn lực cho xã hội:
NKT là một bộ phận cấu thành của xã hội không thể tách rời và họ cũng có trách
nhiệm trong việc tham gia vào các hoạt động của cộng đồng, đóng góp sức mình vào sự
phát triển chung của cả xã hội và cũng được hưởng những thành quả khoa học- công
nghệ. Nhưng do những khiếm khuyết về thể chất và tinh thần mà họ gặp rất nhiều khó
khăn và cản trở khi tham gia vào các hoạt động cộng đồng. Việc có việc làm sẽ giúp họ
đóng góp được sức mình. Tuy nhiên, nếu được tạo điều kiện thuận lợi và tự mình vươn
lên thì người khuyết tật có thể sống, hoạt động và phát huy được năng lực và nguồn lực,
đóng góp vào sự phát triển nền kinh tế đất nước.
2. Chế độ làm việc của NKT.
2.1. Quyền và nghĩa vụ của NKT trong lĩnh vực việc làm.
NKT khi tham gia vào các quan hệ lao động thì trở thành chủ thể của quan hệ lao
động, chính vì vậy, NKT cũng có những quyền và nghĩa vụ giống như những người lao
động không bị khuyết tật ở trong các lĩnh vực như tuyển dụng lao động, giao kết hợp
đồng, sử dụng lao động, bảo đảm việc làm. Tuy nhiên do những khiếm khuyết về thể
chất hoặc tinh thần mà pháp luật có một số quy định riêng đối với NKT nhằm tạo những
cơ hội, điều kiện phù hợp. Cụ thể là khi tham gia vào quan hệ lao động thì NKT được

giảm giờ làm, “Thời giờ làm việc của người tàn tật không được quá bảy giờ một ngày
hoặc 42 giờ một tuần”5. Đặc biệt, để bảo vệ sức khỏe cho NKT thì pháp luật còn quy
định : “Người sử dụng lao động không được sử dụng lao động là người tàn tật làm
những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh
mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành” 6, “Cấm sử dụng
người tàn tật đã bị suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên làm thêm giờ, làm việc
ban đêm”7. Như vậy, nhìn ở một góc độ nào đó thì những quy định pháp luật trên là
nhằm bảo vệ NKT, đảm bảo sức khỏe của họ. Tuy nhiên, những quy định pháp luật trên
lại chình là rào cản đối với họ bởi thực tế người sử dụng lao động sẽ không muốn sử
dụng lao động là NKT bởi năng suất lao động của NKT thấp hơn người không khuyết
5

Khoản 4, Điều 125 Bộ luật lao động Việt Nam 1994 ( sửa đổi năm 2007)
Khoản 3, Điều 127 Bộ luật lao động Việt Nam 1994 ( sửa đổi năm 2007)
7
Khoản 2, Điều 127 Bộ luật lao động Việt Nam 1994 ( sửa đổi năm 2007)
6

6


tật, và để sử dụng lao động là NKT thì cần phải đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật để người
khuyết tật có môi trường làm việc thuận lợi, tránh rủi ro. Bởi vậy, trong thời gian tới
chúng ta cần thay đổi những quy định trên cho phù hợp và đảm bảo hiện quả thực thi .
2.2. Chế độ hỗ trợ đối với người khuyết tật trong lĩnh vực việc làm.
Do NKT thường có những khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần mà năng suất lao
động của họ thường thấp hơn so với những người không khuyết tật. Chính điều này mà
những người sử dụng lao động thường không muốn nhận NKT vào cơ sở sản xuất của
mình. Để tạo cơ hội cho những NKT có việc làm thì nhà nước ta có những chính sách hỗ
trợ, ưu đãi đối với các doanh nghiệp này. Cụ thể tại Điều 34 Luật người khuyết tật có quy

định : “ Cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người
khuyết tật được hỗ trợ cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết
tật; được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp; được vay vốn với lãi suất ưu đãi theo dự án
phát triển sản xuất kinh doanh; được ưu tiên cho thuê đất, mặt bằng, mặt nước và miễn,
giảm tiền thuê đất, mặt bằng, mặt nước phục vụ sản xuất, kinh doanh theo tỷ lệ lao động
là người khuyết tật, mức độ khuyết tật của người lao động và quy mô doanh nghiệp” 8.
Bên cạnh đó thì pháp luật còn quy định các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lập
quỹ việc làm cho người khuyết tật để giúp NKT phục hồi chức năng lao động và tạo việc
làm. Quỹ này được sử dụng với mục đích là : cấp hỗ trợ cho các cơ sở sản xuất kinh
doanh dành riêng cho người khuyết tật để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu, duy
trì việc dạy nghề và phát triển sản xuất, để từ đó các doanh nghiệp sẽ nhận nhiều người
khuyết tật vào làm việc. Bên cạnh đó thì còn chính sách cho vay với lãi suất thấp đối với
các đối tượng : Cơ sở dạy nghề, cơ sở sản xuất kinh doanh dành riêng cho người tàn tật;
Cá nhân và nhóm lao động là người tàn tật; Cơ sở dạy nghề có nhận người tàn tật vào học
nghề; Doanh nghiệp nhận số lao động là người tàn tật vào làm việc cao hơn tỷ lệ quy định
trong luật; Các hoạt động phục hồi chức năng lao động cho người tàn tật.
Cơ sở dạy nghề và những cơ sở sản xuất kinh doanh dành riêng cho NKT “có trên
51% số lao động là người khuyết tật, có quy chế hoặc điều lệ phù hợp với đối tượng là
động là người tàn tật”9 được giúp cơ sở vật chất ban đầu về nhà xưởng, trường, lớp, trang
thiết bị, được miễn thuế, được vay vốn với lãi suất thấp.
2.3. Trách nhiệm của một số chủ thể trong lĩnh vực việc làm đối với NKT.
■ Trách nhiệm của Nhà nước: NKT cũng là một công dân, là lực lượng lao động
của xã hội nên với vai trò là chủ thể quyền lực, nhà nước có trách nhiệm : “ Giải quyết
việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm”. Bên
8

Điều 34 Luật Người khuyết tật năm 2010
Điều 3, Nghi định số 81/1995/NĐ-CP ngày 23/11/1995 của Chính phủ về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều Bộ Luật Lao động về lao động là người tàn tật.
9


7


cạnh đó thì nhà nước còn có trách nhiệm tạo điều kiện để NKT phục hồi chức năng lao
động, được tư vấn việc làm miễn phí, có việc làm và việc làm phù hợp với sức khỏe.
Điều này được ghi nhận tại điều 33 Luật Người khuyết tật và tại điều 125 Bộ luật lao
động có quy định : “ Nhà nước bảo hộ quyền làm việc của người tàn tật và khuyến
khích việc thu nhận, tạo việc làm cho người tàn tật. Hàng năm, thì nhà nước dành một
khoản ngân sách để giúp người tàn tật phục hồi sức khỏe, phục hồi chức năng lao
động, học nghề và có chính sách cho vay với lãi suất thấp để người tàn tật tự tạo việc
làm và tự ổn định đời sống”10.
■ Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Giải quyết việc làm
cho NKT không chỉ là trách nhiệm của nhà nước mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội.
Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân vì vậy cũng phải có trách nhiệm giải quyết
việc làm cho NKT. Cụ thể:
+ Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân không được từ chối tuyển dụng
NKT có đủ tiêu chuẩn tuyển dụng và làm việc hoặc đặt ra tiêu chuẩn tuyển dụng trái
quy định của pháp luật nhằm hạn chế cơ hội việc làm của NKT. Các doanh nghiệp phải
có trách nhiệm nhận tỉ lệ lao động là NKT đối với một số ngành nghề công việc theo
quy định của pháp luật hoặc đóng góp một khoản tiền theo quy định của chính phủ vào
quỹ việc làm để góp phần giải quyết việc làm cho NKT
+ Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân có trách nhiệm bố trí sắp xếp công
việc, bảo đảm điều kiện và môi trường làm việc phù hợp cho NKT, đồng thời phải thực
hiện đầy đủ các quy định của pháp luật về lao động với NKT. Tổ chức việc làm có trách
nhiệm giới thiệu việc làm và tư vấn học nghề, việc làm cho NKT.
IV. Thực tiễn giải quyết việc làm đối với NKT ở Việt Nam hiện nay.
1. Kết quả đạt được.
Cả nước hiện nay có khoảng 5,1 triệu NKT, chiếm khoảng 6% dân số, trong đó có
1,1 triệu khuyết tật nặng, chiếm 21,5% tổng số NKT. Bao gồm 29% khuyết tật vận động,

17% tâm thần, 14% tật thị giác, 9% tật thính giác, 7% tật ngôn ngữ, 7% trí tuệ và 17% các
dạng tật khác. Tỷ lệ nam là NKT cao hơn nữ. Nguyên nhân gây nên khuyết tật có tới 36%
bẩm sinh, 32% do bệnh tật, 26% do hậu quả chiến tranh và 6% do tai nạn lao động 11. Dự
báo trong nhiều năm tới số lượng NKT ở Việt Nam chưa giảm do tác động của ô nhiễm
môi trường, ảnh hưởng của chất độc hoá học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam,
tai nạn giao thông và tai nạn lao động, hậu quả thiên tai…Số lượng NKT rất nhiều tuy
nhiên vấn đề giải quyết việc làm cho đối tượng này hiện nay tuy gặp nhiều khó khăn. Để
10
11

Điều 125, Bộ Luật Lao động năm 1994 ( sửa đổi năm 2007).
/>
8


thực hiện tốt vấn đề giải quyết việc làm cho NKT thì Đảng và nhà nước đã ban hành
những quy định pháp luật tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thực hiện trên thực tế,
nhìn chung thì đã tương đối đủ, đặc biệt là đã có những quy định về việc làm đối với
NKTnhư đã ban hành các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng lao động là
NKT; đối với hoạt động tạo việc làm cho NKT phải đảm bảo bình đẳng trong tuyển dụng,
sử dụng, bố trí công việc, cải tạo cơ sở vật chất bảo đảm môi trường tiếp cận để NKT làm
công việc như những người bình thường khác ….Việc ban hành các văn bản điều chỉnh
vấn đề việc làm cho người khuyết tật đã góp phần không nhỏ vào những thành quả trong
công tác giải quyết việc làm cho NKT. Cụ thể:
Hiện nay, trên cả nước đã có nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh có NKT. Qua thống
kê, cả nước hiện có hơn 400 cơ sở sản xuất kinh doanh của NKT, thu hút trên 15.000 lao
động khuyết tật tham gia, trong đó Hội Người mù có 146 cơ sở với khoảng 4.000 lao
động. Các cơ sở này thường nhận lao động khuyết tật ở mọi hình thức sau đó phân loại,
hướng nghiệp dạy nghề, giải quyết việc làm cho họ. Ví dụ như HTX thủ công mỹ nghệ An
Dương ở thị trấn Rế (huyện An Dương), ngày càng có thêm nhiều lao động khuyết tật gắn

bó. HTX mở hướng phát triển thêm ngành nghề trồng hoa, cây cảnh. NKT được động
viên, khuyến khích, đào tạo nghề, không ít NKT có khả năng phát huy tinh thần lao động,
sáng tạo của mình. Vì vậy, những công việc như trồng cây cảnh, trồng nấm tưởng như khó
với họ, nhưng nhiều người sau khi được đào tạo nghề đã làm tốt nghề, thu nhập đáng kể.
Nhiều địa phương đã có quỹ việc làm dành cho NKT. Theo thống kê thì Có 8 tỉnh
đã thành lập và bố trí kinh phí Quỹ việc làm cho NKT. Rất nhiều mô hình, cách làm hay,
hiệu quả như Chương trình tín dụng chính sách NKT đang hưởng lợi của Ngân hàng chính
sách Đà Nẵng, Mô hình chăm sóc bán trú trẻ KT tại cộng đồng ở Phù Cát- Bình Định , các
mô hình gây quỹ, xây dựng tổ chức, tạo điều kiện cho NKT hòa nhập với công việc ...
Bên cạnh đó thì các chính sách hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật cũng được tổ
chức tốt ở nhiều địa phương. Đặc biệt là công tác đào tạo nghề để tạo tiền đề, nâng cao
trình độ tay nghề cho NKT khi họ làm việc. Theo số liệu của Bộ Lao động thương binh và
xã hội Việt Nam : “ từ năm 2007 đến nay, đã có 2.500 NKT được tư vấn trợ giúp pháp lý,
thành lập được 121 hiệp hội với trên 60.000 hội viên, 13 lớp dạy nghề may, thêu, mây tre
đan được mở ở 13 tỉnh, thành dành cho chị em khuyết tật. 13 nhóm tự lực với 30 thành
viên mỗi nhóm được hỗ trợ thành lập ở 13 địa phương. Bên cạnh đó thì trong cả nước có
260 cơ sở dạy nghề, trong đó 55 cơ sở chuyên biệt và 205 cơ sở có tham gia dạy nghề cho
người khuyết tật. Chương trình mục tiêu Quốc gia về giáo dục và đào tạo cũng đã dành
hàng trăm tỷ đồng kinh phí cho việc đầu tư xây dựng cơ sở, hỗ trợ dạy nghề cho người
9


khuyết tật mỗi năm. Trên 49.000 NKT được trợ giúp về học nghề, trong đó nữ chiếm
50,5% và theo báo cáo của 33 tỉnh, thành, đã có khoảng 15.581 người được tạo việc làm.
Khoảng 65% số hộ có NKT được hưởng các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, như:
miễn giảm thuế, hỗ trợ tín dụng ưu đãi, hỗ trợ đất sản xuất” 12...
Không những thế, để tạo cơ hội cho NKT có điều kiện học hỏi và cống hiến nhiều
hơn cho xã hội, thời gian qua, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam đã phối hợp thực hiện một chương trình đào tạo kết hợp với tư vấn
tại nhà máy cho các doanh nghiệp có quy mô từ vừa đến lớn tại 4 tỉnh, thành phố là Hà

Nội, Vĩnh Phúc, Hưng Yên và Hải Dương với mục tiêu “Cơ hội cho mọi người”, tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và NKT có được sự hợp tác và gắn kết. Qua đó,
doanh nghiệp có được những thông tin cần thiết để tuyển dụng người lao động là NKT.
Về phía NKT cũng chủ động hơn trong việc trau dồi kiến thức, kỹ năng chuyên môn để đủ
tự tin tham gia tuyển dụng vào làm việc tại các doanh nghiệp có nhu cầu. Tại đây thì
nhiều doanh nghiệp đã tuyển chọn được lao động là NKT cho doanh nghiệp mình như
Công ty Cổ phần Hoa Lan là doanh nghiệp chuyên sản xuất kinh doanh hóa mỹ phẩm,
chất diệt trùng, xà phòng thơm, bao bì carton... đã tuyển dụng được 3 người khuyết tật vào
làm việc tại xưởng đóng gói. Theo Chủ tịch Công đoàn công ty Hoàng Đình Duy thì
những người lao động khuyết tật được tuyển vào làm việc rất có trách nhiệm và đạt hiệu
quả lao động cao như những người lao động bình thường. Đây là bước khởi đầu khả quan,
mở ra một hướng mới cho các doanh nghiệp về kênh thông tin trong tuyển dụng lao động,
mặt khác, giúp người khuyết tật có được công việc ổn định để nuôi sống bản thân và gia
đình, xóa bỏ mặc cảm, tự ti, tạo thêm niềm tin vào cuộc sống. Chia sẻ cảm xúc của mình
khi được tuyển vào làm việc vào Công ty Ford Việt Nam đóng tại Hải Dương, chị Nguyễn
Thị Phượng một người bị khuyết tật cho biết: “ Tôi rất may mắn sau khi tốt nghiệp đại
học đã được tuyển dụng vào làm việc tại Công ty và gắn bó từ đó cho đến nay đã gần 10
năm. Đối với những người khuyết tật như chị, đó là sự may mắn và hạnh phúc, môi
trường làm việc rất thuận lợi, được đồng nghiệp chia sẻ, giúp đỡ, được lãnh đạo quan
tâm, tạo điều kiện để chị hoàn thành tốt công việc và có thu nhập ổn định. Mong sao,
những người khuyết tật khác cũng có được cơ hội được làm việc, được cống hiến, cộng
đồng có sự đồng cảm hơn đối với những người khuyết tật kém may mắn” 13.
2. Một số hạn chế.

12



13


Http:// vicongdong.vn/news/select.aspx?topic=41347340

10


Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan mà hiện nay, vấn đề
việc làm đối với người khuyết tật vẫn là một bài toán nan giải đối với các cấp, các
ngành và cộng đồng.
Thứ nhất, quy định của pháp luật: Pháp luật lao động quy định các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế phải nhận từ 2-3% lao động là người tàn tật vào làm việc tùy
theo loại hình doanh nghiệp, doanh nghiệp không nhận đủ tỷ lệ lao động là người tàn tật
theo quy định phải đóng một khoản tiền vào Quỹ việc làm cho NKT. Nếu thực hiện đúng
như quy định này thì với hàng triệu doanh nghiệp trên cả nước, con số lao động khuyết tật
được tạo việc làm là rất đáng kể. Và trong trường hợp số doanh nghiệp nhận người khuyết
tật ít ỏi như hiện nay thì theo quy định trên, Quỹ việc làm cho NKT sẽ thu được số tiền
không nhỏ. Quy định, chính sách về cơ bản đã đủ nhưng việc thực thi trên thực tế lại rất
khó khăn bởi việc kiểm tra giám sát chưa được quan tâm thực hiện và chưa có một chế tài
xử lý những trường hợp doanh nghiệp chưa tuân thủ quy định. Bởi vậy, dù đã trải qua
hàng chục năm thực hiện quy định này (kể từ khi Nghị định 81/CP được ban hành năm
1995), vẫn tồn tại nghịch lý số doanh nghiệp nhận đủ người khuyết tật vào làm tính trên
đầu ngón tay, nhưng Quỹ việc làm cho NKT ở hầu hết các địa phương đều trống; nhiều cơ
sở dành riêng cho NKT thì lại lao đao vì thiếu các nguồn hỗ trợ. Bên cạnh đó thì Tình
trạng sử dụng lao động khuyết tật không có hợp đồng lao động, không có bảo hiểm xã hội,
sự vi phạm về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, về an toàn vệ sinh lao động,… còn
xảy ra khá phổ biến. Hơn thế, công tác thanh kiểm tra còn lỏng lẻo, việc xử lý vi phạm
còn bị xem nhẹ, việc tuyên truyền phổ biến pháp luật trong đối tượng này còn chưa
thường xuyên và chưa sâu rộng.
Bên cạnh đó thì quy định cấm xe 3 bánh chở hàng, nhưng đồng thời lại chưa có
giải pháp tháo gỡ thỏa đáng khiến một bộ phận NKT sống bằng nghề chở hàng xe ba bánh
mất việc, không có thu nhập và cũng chưa chuyển đổi nghề khác phù hợp. Đi lại bằng

giao thông công cộng thì xe buýt không tiếp cận được, thái độ phục vụ còn thờ ơ. Đến đi
lại bằng đường hàng không còn trường hợp bị từ chối phục vụ. Khó khăn trong đi lại đồng
nghĩa với khó khăn tìm kiếm việc làm .
Thứ hai, về phía cơ sở sản xuất, kinh doanh: Do NKT có những khiếm khuyết về thể
chất và tinh thần nên luật có những quy định nhằm bảo vệ sức khỏe cho họ như về thời
gian làm việc, về điều kiện làm việc….Nhìn ở khía cạnh nào đó thì nó bảo vệ NKT nhưng
trên thực tế những quy định này chính là rào cản đối với NKT bởi so với người bình
thường thì năng suất lao động của NKT thấp hơn nhưng người sử dụng lao động vẫn phải
trả mức lương như người bình thường, ngoài ra khi sử dụng lao động là NKT thì người sử
dụng lao động còn phải đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật để tạo môi trường làm việc cho
11


NKT. Chính vì điều này mà các cơ sở sản xuất kinh doanh rất ít khi nhận lao động là
NKT. Trên thực tế việc làm dành cho NKT vẫn chủ yếu được tạo ra từ các cơ sở kinh
doanh dành riêng cho họ, tức là những cơ sở có trên 51% lao động là NKT hoặc trong các
tổ chức, cơ sở mang tính nhân đạo, từ thiện, rất ít người tìm được việc làm và làm việc ổn
định trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Thống kê năm 2008, đã có 15.000 lao
động là NKT làm việc ổn định trong 400 cơ sở sản xuất, kinh doanh của thương binh và
NKT. Phần đông NKT là lao động tự do. Đặc biệt ở các vùng nông thôn, NKT chủ yếu
tham gia vào công việc nhà nông là chính. Một số ít tham gia buôn bán nhỏ..
Thứ ba, về phía người khuyết tật:. Bản thân NKT chưa đáp ứng được yêu cầu
tuyển dụng của các doanh nghiệp, đồng thời do tính chất sản xuất, kinh doanh các
doanh nghiệp cũng khó khăn trong việc bố trí việc làm phù hợp với sức khoẻ, đặc điểm
của người khuyết tật, nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề đặc thù
như luyện kim, hoá chất, địa chất, đo đạc bản đồ, dầu khí, khai thác mỏ, khai thác
khoáng sản, xây dựng cơ bản, vận tải...Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (LĐ-TB & XH) năm 2001, có 97.64% NKT ở Việt Nam không
được đào tạo qua trường lớp chính thức, trong đó 1,22% đã có trình độ kỹ thuật đủ để
đáp ứng nhu cầu công việc, 0,53% mới tốt nghiệp từ những trường dạy nghề và chỉ có
0,61% tốt nghiệp từ các trường cao đẳng và đại học. Thực trạng này dẫn đến tỷ lệ NKT

không tìm được việc làm khá cao: 41,86% ở Đồng bằng sông Hồng và 35,77% ở phía
Đông Nam đồng bằng sông Cửu Long. Ông Hoàng Thanh, Phó Chủ tịch Hội Bảo trợ
người tàn tật và trẻ mồ côi cho biết: “Trên địa bàn tỉnh cũng có một số doanh nghiệp
tham gia đào tạo nghề cho người khuyết tật nhưng cũng chỉ đào tạo để tự sử dụng là
chính. Mà số người khuyết tật còn sức lao động có việc làm cũng rất ít. Phần đông họ
là lao động tự do. Đặc biệt ở các vùng nông thôn, người khuyết tật chủ yếu tham gia
vào công việc nhà nông là chính. Một số ít tham gia buôn bán nhỏ....”14 , Có khoảng
58% người tàn tật tham gia làm việc; 30% chưa có việc làm và mong muốn có việc làm
ổn định. Trong số người tàn tật từ 15 tuổi trở lên chỉ có 29% người tàn tật trả lời là có
khả năng lao động, trong số này có gần 75% tham gia hoạt động kinh tế, tuy nhiên cũng
chỉ có 47,5% đủ việc làm, 37,2% thiếu việc làm và 15,3% chưa có việc làm. Thu nhập
của những người có việc làm cũng rất thấp, thấp hơn cả mức lương tối thiểu, đa số làm
việc trong ngành nông nghiệp, nơi mà mức thu nhập thấp nhất. Hơn 80% NKT sống ở
nông thôn, phần lớn học sống cùng gia đình. Số có làm việc thì đại bộ phận là lao động
thủ công như: Làm tăm tre, chổi đót, đan lát, trồng trọt và chăn nuôi....Họ làm việc cùng
nhau trong tổ, nhóm ở cùng một thôn, bản, làng, xóm nhưng cũng có thể làm việc làm
14

Http://www.petrotimes.vn/xa.../them-co-hoi-viec-lam-cho-nguoi-khuyet-tat

12


việc theo đơn lẻ tại gia đình. Qua số liệu này có thể thấy vấn đề việc làm và thu nhập
cho người tàn tật đang là vấn đề bức xúc cần được quan tâm.
Trong quá trình tiếp cận cơ hội học nghề, tìm việc làm, NKT gặp rất nhiều khó
khăn. Thiếu thông tin về học nghề, việc làm là một trong những trở ngại, nhất là người
khiếm thính. Để khắc phục cần có sự quan tâm của gia đình, đoàn thể, tổ chức hội,
chính quyền địa phương giới thiệu, cung cấp thông tin cho NKT, những điều này không
được như mong đợi. Cùng với đó là bản thân NKT còn tự ti không mạnh dạn liên hệ

hoặc chủ động đề nghị giới thiệu, giúp đỡ. Anh Lê Quang Tuấn , sinh 1974, quê xã Hải
Yến, Tỉnh Gia, Thanh Hóa bước vào nghề ăn xin cách đây 5 năm với lý do phải tự nuôi
thân. Anh Tuấn cho rằng: "Học nghề thì cần phải có nhiều văn hóa. Mình học hết lớp 5,
người thì trông như thế này, làm gì có ai nhận dạy nghề, tạo việc làm cho "15. Bởi vậy,
anh Tuấn chưa từng nghĩ xem mình có thể làm việc gì bằng sức lao động chính đáng mà
tự cho mình chỉ có thể đi ăn xin. Điều đáng buồn là gia đình anh còn bố mẹ, anh chị
cũng ủng hộ việc anh đi ăn xin khắp nơi.
Các chính sách hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật: Một biểu hiện cụ thể đấy
chính là quỹ việc làm cho người khuyết tật. Quỹ Việc làm cho người tàn tật dùng để hỗ
trợ cho cơ sở dạy nghề, cơ sở SXKD dành riêng cho người khuyết tật để xây dựng nhà
xưởng, mua máy móc, thiết bị, duy trì dạy nghề và phát triển sản xuất. Các cơ quan
quản lý để đào tạo nâng cao năng lực đối với người làm công tác dạy nghề, tư vấn, giới
thiệu việc làm cho người khuyết tật cũng được hưởng từ nguồn quỹ này...Rất nhiều địa
phương đã lập quỹ việc làm, điển hình như Quảng Ninh là địa phương đầu tiên trong cả
nước thành lập được Quỹ Việc làm cho người tàn tật vào năm 2006 với tổng quỹ hiện
nay là hơn 10 tỷ đồng nhưng đến nay Quỹ vẫn chưa phát huy được hiệu quả như mong
muốn: cơ chế chi trả quỹ, hỗ trợ các dự án của các cơ sở có người khuyết tật chưa đồng
bộ, thống nhất, nhiều điểm còn chồng chéo. Bởi vậy không ít các dự án dạy nghề hoặc
việc làm rất có lợi cho người khuyết tật, phù hợp với đối tượng hỗ trợ của Quỹ nhưng
lại vướng ở khâu hồ sơ, thủ tục. Chính vì vậy, hiện nay Quỹ Việc làm cho người tàn tật
vẫn còn tồn đọng hơn 9 tỷ đồng.
Việc làm của người khuyết tật gắn liền với đào tạo nghề, tuy nhiên việc đào tạo nghề
cho người khuyết tật hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn. Một số trung tâm đào tạo nghề
như Trường đào tạo nghề cho người khuyết tật quận Kiến An, Trường khiếm thính (quận
Hải An), Trường nuôi dạy trẻ em khiếm thị (quận Ngô Quyền), điển hình có tỉnh chỉ có
một trung tâm đào tạo nghề cho người khuyết tật như Nghệ An ( Trung tâm dạy nghề
người tàn tật Nghệ An) trong khi tỉnh có 203.000 người khuyết tật các loại, trong đó có
15

Http://www.nguoikhuyettat.org/.../viec-lam-cho-nguoi-khuyet-tat-12166-1-.


13


khoảng 70.000 người khuyết tật có thể làm việc mong muốn được học nghề và có nghề để
tự lập.… Kinh phí hỗ trợ đào tạo hạn hẹp, các trường phần lớn phải tự lo nên mới chỉ đào
tạo một số nghề đơn giản, thủ công, …Sau khóa học, các trường có giới thiệu việc làm
cho học sinh tại một số doanh nghiệp, nhưng chỉ một số được tiếp nhận vào các cơ sở sản
xuất kinh doanh nhưng mức lương mà họ nhần rất thấp.
III.
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết việc làm đối
với NKT.
Người ta thường nói việc làm là cánh cửa vào đời với mỗi con người. Tuy nhiên, với
những khó khăn đang tồn tại, “cánh cửa” của NKT vẫn còn rất hẹp. Chính vì thế trong
thời gian tới các cấp các ngành, cộng đồng cần có những biện pháp để “ cánh cửa” việc
làm cho người khuyết tật được rộng mở. Một số biện pháp có thể tiến hành như
■ Hoàn thiện các quy định pháp luật:
+ Luật có nhiều quy định riêng đối với NKT khi họ tham gia vào quan hệ lao động
nhưng vô hình chung những quy định đó trở thành rào cản. Chính vì thế thay vì có những
quy định như vậy thì Nhà làm Luật nên có những quy định hướng tới việc đảm bảo điều
kiện lao động cho NKT, cho họ được tham gia thực hiện các dự án, chương trình về việc
làm cho NKT, đối với cơ sở sản xuất kinh doanh có NKT thì ưu đãi về vốn, thuế, mặt
bằng, địa điểm tổ chức sản xuất, được tham gia tập huấn về quản lý.... Không nên chỉ
dành chính sách ưu đãi đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh mà nên mở rộng chính sách ưu
đãi đối với cơ sở của NKT ở các lĩnh vực như: dịch vụ du lịch, dịch vụ tư vấn, ...
+ Cần bổ sung chế tài xử lý đối với những cơ sở sản xuất, doanh nghiệp vi phạm
các quy định có liên quan đến NKT trong lĩnh vực việc làm. Đồng thời cũng phải có quy
định cụ thể hướng dẫn việc sử dụng quỹ việc làm cho NKT, đảm bảo sử dụng có hiệu quả
quỹ này.
+ Nên quy định thời giờ làm việc của NKT không quá 7 giờ/ngày để tạo điều kiện

cho những NKT có nhu cầu được làm việc như những người bình thường và người sử
dụng lao động không còn dè dặt trong tuyển chọn lao động là NKT . Bên cạnh đó, Nhà
nước tạo điều kiện cho NKT đạt được đầy đủ các trách nhiệm của họ như các thành viên
khác trong xã hội chẳng hạn tạo các cơ hội tiếp cận giáo dục và đào tạo để nâng cao trình
độ chuyên môn của người tàn tật, cung cấp cho họ các phương tiện chuyên dùng, sáng chế
và cải tiến công cụ làm việc phù hợp với từng dạng tật, cải thiện điều kiện và môi trường
làm việc.
■ Nâng cao chất lượng lao động là NKT: : Để giải quyết việc làm cho người khuyết
tật không chỉ trông chờ vào các chính sách xã hội hay tình thương. Về phía người khuyết
tật cũng phải tự trang bị cho mình những kiến thức, kỹ năng chuyên môn, sẵn sàng đảm
14


đương được công việc của nhà tuyển dụng để khẳng định được mình là những người “tàn
mà không phế”. Xuất phát từ nguyên nhân khiến các doanh nghiệp không mặn mà nhận
người lao động khuyết tật bởi trình độ, hiểu biết của họ với công việc còn hạn chế, một số
doanh nghiệp nhận người lao động khuyết tật đã qua đào tạo ở các trường dạy nghề,
nhưng vẫn phải đào tạo lại tay nghề mới đáp ứng được công việc. Chính vì thế để người
khuyết tật có được công việc ổn định thì cần nâng cao trình độ nghề cho họ. Như vậy, việc
đào tạo nghề tại chỗ ngay tại doanh nghiệp, đồng thời giải quyết việc làm cho người
khuyết tật ngay tại doanh nghiệp là giải pháp tích cực, tiết kiệm chi phí phải đào tạo đi,
đào tạo lại, khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nghiệp gắn bó với người lao động.
Người lao động khuyết tật cũng phát huy cao hiệu quả lao động của mình phục vụ doanh
nghiệp. Bên cạnh đó thì có thể mở thêm các trung tâm đào tạo nghề cho người khuyết tật
để nâng cao tay nghề cho họ, chương trình việc làm cho người khuyết tật phải lồng ghép
vào các chương trình dạy nghề, chương trình việc làm. Mở các trung tâm tư vấn việc làm
cho người khuyết tật để họ có thể tìm được công việc phù hợp với thể lực của bản thân,
tăng cường gắn kết giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo nghề để giải quyết tốt hơn việc
làm cho người khuyết tật. Hằng năm thường xuyên tổ chức Hội thi tay nghề, ngày hội việc
làm của NKT. Tăng cường một số hoạt động xã hội hóa trong đào tạo nghề và giới thiệu

việc làm để bảo trợ các hoạt động dạy nghề và tạo việc làm cho NKT bằng cách mở rộng
các hình thức liên kết đào tạo, liên kết giới thiệu việc làm trong việc dạy văn hóa, dạy
nghề và việc làm với các trường ĐH, CĐ, TC nghề, trung tâm dạy nghề… nhằm nâng cao
năng lực nghề nghiệp và giải quyết việc làm ổn định cho đối tượng này. Lồng ghép vấn đề
việc làm cho NKT vào các chương trình xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn. Phải tách riêng kinh phí dạy nghề để tạo tạo việc làm cho NKT, không để
chung với kinh phí hổ trợ hổ trợ cho nông dân. Tạo thuận lợi và ưu tiêu thụ, tìm đầu ra
cho sản phẩm đảm bảo chất lượng do NKT sản xuất.
■ Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật: Để người khuyết tật có thể làm việc trong
một môi trường làm việc tốt, đảm bảo được sức khỏe thì các cơ sở sản xuất kinh doanh
cần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật. Nhà nước cần hỗ trợ các công cụ, cơ sở vật chất
kỹ thuật để người khuyết tật có điều kiện đi lại, học nghề, tiếp cận việc làm;
■ Công tác tuyên truyền, giáo dục: Thực tế hiện nay thì nhiều người vẫn có thái độ
kỳ thị, phân biệt đối với NKT, chính thái độ này đã làm cho không ít NKT không thể hòa
nhập được với xã hội, với người xung quanh, trở thành gánh nặng cho cả gia đình và xã
hội. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật chưa được quan tâm đúng mức, thường
mới chỉ dừng lại ở việc đưa tin hội nghị hoặc một số hoạt động tặng quà nhân ngày lễ, tết;
công tác tuyên truyền chưa đi vào chiều sâu. Chính vì thế, để NKT có thể hòa nhập với xã
15


hội, có thể lao động, làm việc cho những người bình thường, đóng góp sức mình cho xã
hội thì phải tuyên truyền cho mọi người hiểu để họ đồng cảm, chia sẻ với NKT, giúp đỡ
NKT hòa nhập được với môi trường xung quanh. Các cơ sở sản xuất cũng có cách nhìn
khác đối với NKT, để họ được tạo điều kiện, cơ hội làm việc. Bản thân NKT cũng phải có
ý chí vươn lên để khẳng định được vai trò của mình trong xã hội.
■ Tăng cường hợp tác quốc tế: Tăng cường tham gia và ký kết các điều ước có
liên quan đến người khuyết tật, Tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài để
tạo công việc cho người khuyết tật, tranh thủ các nguồn hỗ trợ của nước ngoài…..
C. KẾT LUẬN

Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta phát triển mạnh mẽ và Việt Nam vừa gia nhập Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO), yêu cầu về nguồn nhân lực có trình độ cao là rất lớn,
vấn đề tạo việc làm cho người lao động đang là mối quan tâm bức thiết của người dân nói
chung và người tàn tật nói riêng. Tạo việc làm cho người tàn tật, tạo điều kiện cho họ vượt
qua những khó khăn, hòa nhập vào đời sống cộng đồng, xã hội là những hoạt động có ý
nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội và nhân văn sâu sắc. Có như vậy mới giải quyết được việc
làm cho NKT một cách có hiệu quả và đảm bảo tính ổn định, bền vững.

DANH MUC TAI LIÊU THAM KHAO

1. Giáo trình Luật người khuyết tật Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB,
Công an nhân dân năm 2011.
16


2. Luật người khuyết tật 2010
3. Nghị định 28/2012/NĐ-CP ngày 10 tháng 04 năm 2012 của Chính phủ về việc
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người khuyết tật
năm 2010.
4. Nghi định số 81/1995/NĐ-CP ngày 23/11/1995 của Chính phủ về quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Bộ Luật Lao động về lao động là người
tàn tật
5. Công ước về Quyền của người khuyết tật của Liên hợp quốc (năm 2006)
6. Bộ luật lao động Việt Nam 1994 (sửa đổi 2002, 2006, 2007)
7. Http:// www.chinhphu.vn
8. Http:// www.molisa.gov.vn
9. Http:// www.vietlaw.gov.vn
10. Http://www.nguoikhuyettat.org

17




×