Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Hình ảnh và quyền đối với hình ảnh của cá nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.36 KB, 11 trang )

Hình ảnh và quyền đối với hình ảnh của cá nhân
A. LỜI MỞ ĐẦU
“Bộ luật dân sự có nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
tổ chức, lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, bảo đảm sự bình đẳng và an
toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng các nhu
cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”
( Điều 1, BLDS 2005).
Quy định của BLDS nước CHXHCN VN đã nhấn mạnh nhiệm vụ đặc biệt
quan trọng của luật dân sự là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng. Luật dân sự đã ghi nhận những
giá trị nhân thân được coi là quyền nhân thân và quy định các biiện pháp bảo
vệ các giá trị nhân thân đó. Một trong số đó là quyền của cá nhân đối với hình
ảnh của mình.
Quyền của cá nhân đối với hình ảnh của mình được quy định tại điều 31
BLDS 2005, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với quyền
được bảo đảm về bí mật đời tư của con người. Trên thực tế hiện nay, bảo vệ
hình ảnh riêng tư của cá nhân là một vấn đề nóng bỏng và hết sức nhạy cảm
do sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện kĩ thuật số và ý thức của
từng cá nhân. Việc ban hành và áp dụng quyền của cá nhân đối với hình ảnh
có ý nghĩa hơn bao giờ hết trong tình hình phát triển xã hội như hiện nay.

B. NỘI DUNG
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hình ảnh cá nhân là vấn đề thuộc về riêng tư của mỗi người, là thuộc sở
hữu của mỗi cá nhân vì vậy khi muốn sử dụng hình ảnh của một ai đó cho
mục đích riêng của mình thì cần phải có được sự đồng thuận cho phép của
chính cá nhân trong bức ảnh đó

1



Việc sử dụng quyền hình ảnh của cá nhân là một vấn đề rất nhạy cảm và
phức tạp trong cuộc sống cũng như trong pháp luật. Để bảo vệ quyền lợi của
cá nhân về hình ảnh của mình, khoản 2 Điều 31 BLDS (BỘ LUẬT DÂN SỰ)
năm 2005 đã quy định và công nhận quyền của cá nhân đối với hình ảnh của
mình là một trong những quyền nhân thân cơ bản của mỗi cá nhân. Quy định
này đã thể hiện sự tiến bộ của pháp luật dân sự Việt Nam, bởi lẽ không phải ở
quốc gia nào quyền của cá nhân đối với hình ảnh cũng được quy định cụ thể
trong BLDS: Điển hình như BLDS của nước Cộng hòa Pháp hiện nay cũng
chưa có điều khoản cụ thể về quyền của cá nhân đối với hình ảnh mà quyền
này mới chỉ được ghi nhận thông qua án lệ.
Để hiểu rõ hơn về quy định này và thực tiễn áp dụng của nó tại Việt Nam
hiện nay về quyền của cá nhân đối với hình ảnh của mình.

II. Cá nhân có quyền đối với hình ảnh
1) Khái niệm về hình ảnh
Hình ảnh BLDS năm 2005 quy định Điều 31 quyền của cá nhân đối với
hình ảnh của mình. Trong thực tế trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã
hội, mỗi một lĩnh vực có đưa ra một hình ảnh khác nhau phụ thuộc vào mỗi
bản chất của mỗi lĩnh vực mà đưa ra khái niệm về hình ảnh ở trong mỹ thuật
hình ảnh là sự tái diễn tả hay tái hiện một vật. Trong truyền hình hình ảnh là
những gì mà chúng ta nhìn thấy thông qua thị giác (nhìn thấy bằng mắt). Hình
ảnh dưới góc độ xã hội là những biểu hiện biên ngoài của một vật thể nào đó
được cảm nhận và tiếp thu qua thị giác.
Về mặt pháp lí căn cứ theo điều 31 BLDS năm 2005 khái niệm về hình ảnh
của cá nhân được hiểu là: Bao gồm mọi hình thức, nghệ thuật ghi lại hình
dáng của con người như ảnh chụp, ảnh vẽ và có thể bao gồm cả bức tưởng
của cá nhân đó hoặc cả hình ảnh có được do ghi hình ( quay phim hay quay
video).
2



Như vậy: Ở góc độ pháp lí hình ảnh của cá nhân là khái niệm có phạm vi
rộng khái niệm này chỉ hiểu mang tính pháp lí về hình ảnh của cá nhân.
“Hình ảnh của cá nhân có thể được hiểu là sự tái hiện lại vẻ bề ngoài của
một người bằng cách thức nào đó có thể ghi lại và gây ấn tượng thị giác cho
những người khác. Khi được mọi người nhìn vào hình ảnh tái hiện đó có thể
nhận diện được rằng đó là ai”
2, Cá nhân có quyền đối với hình ảnh
Cơ sở pháp lí: Điều 31 BLDS năm 2005.
“1. Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình.
2.Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong
trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười
lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại
diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích
công cộng hoặc pháp luật có quy định khác
3. Nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm danh
dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.”
Đây là cơ sở pháp lí cho cá nhân đối với quyền của cá nhân về hình ảnh của
mình trong thực tế cuộc sống xã hội mà nhà nước đã thừa nhận được quy định
trong bộ luật dân sự nước ta hiện nay.
Cá nhân có các quyền đối với hình ảnh là:
A) Cá nhân có quyền được sử dụng hình ảnh của mình.
Quyền đối với hình ảnh của cá nhân là một yếu tố nhân thân gắn liền với
cá nhân cụ thể vì vậy “hình ảnh của cá nhân” thì trước hết chính bản thân cá
nhân đó là người được sử dụng, cá nhân sử dụng hình ảnh của mình là thông
qua việc khai thác giá trị thương mại về “hình ảnh của cá nhân” bằng cách là
bán hình ảnh của mình cho người khác sử dụng và nhận tiền từ việc bán hình
ảnh đó.
3



Ví dụ: hoa hậu người mẫu kí hợp đồng chụp ảnh mẫu với nhiếp ảnh gia
theo đó các nhiếp ảnh gia sẽ phải trả tiền cho hoa hậu người mẫu để được hoa
hậu người mẫu cho chụp ảnh,
Như vậy; quyền đối với hình ảnh là quyền nhân thân gắn liền với cá nhân
cho nên cá nhân có quyền sử dụng hình ảnh của mình
B) Cá nhân có quyền cho người khác sử dụng hình ảnh của mình.
“Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong
trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười
lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại
diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích
công cộng hoặc pháp luật có quy định khác” Khoản 2 Điều 31 BLHS năm
2005, đây là quy định cho cá nhân có quyền định đoạt đối với hình ảnh cụ thể
của mình cho chủ thể khác sử dụng hình ảnh cụ thể của cá nhân mình. Muốn
sử dụng hình ảnh của một cá nhân phải được sử đồng ý của cá nhân đó hoặc
người đại diện, nhưng theo điều điều luật lại không quy định rõ thế nào là sự
“đồng ý” cho sử dụng hình ảnh. Theo quy định của điều luật ta có thể hiểu
đồng ý là có sự thỏa thuận giữa người sử dụng hình ảnh của cá nhân đối với
hình ảnh đó hay người đại diện của cá nhân đó có hình ảnh đồng ý hay là việc
sử dụng hình ảnh của cá nhân không có sự phản đối của người có hình ảnh thì
được hiểu là người đó đương nhiên đồng ý, ta thấy ở trong quy định của điều
luật này “sự đồng ý” cho việc sử dụng hình ảnh của cá nhân vào bất kỳ một
mục đích gì mà không có sự đồng ý của cá nhân đó đều bị coi là xâm phạm
quền nhân thân về hình ảnh của cá nhân, cho dù việc sử dụng hình ảnh cá
nhân đó đem lại hậu quả tốt hay xấu cho người có hình ảnh.
Vấn đề hình ảnh của cá nhân đó có bị khởi kiện hay không là
quyền của chủ thể của quan hệ dân dân sự và người đó có quyền lựa chọn.
Pháp luật quy định như vậy cho thấy việc bảo vệ quyền đối với hình ảnh của
cá nhân đã rất chặt chẽ, quyền của cá nhân đối với hình ảnh phù hợp với mục
đích của quy phạm pháp luật hiện hành


4


Tấm hình, pho tượng,… điều là tác phẩm nghệ thuật của chủ sở
hữu hợp pháp; là quyền nhân thân của cá nhân vì vậy ai đó muốn sử dụng
hình ảnh của một cá nhân điều phải được sự đồng ý của người có hình ảnh đó.
Hình ảnh của cá nhân là quyền nhân thân tuyệt đối, được phép sử
dụng hay cho người khác sử dụng hình ảnh của mình; mọi hành vi sử dụng
hình ảnh cá nhân đều phải được sử đồng ý của cá nhân đó.
Trong thực tế có những trường hợp sử dụng hình ảnh của người
khác cho nhu cầu bản thân, không phát tán cho người thứ 3 có phải xin phép
hay không? Trường hợp sử dụng hình ảnh để giới thiệu cho người khác không
nhằm mục đích thương mại Ví dụ như: Giảng viên sử dụng hình ảnh của các
nhà danh nhân, chính trị để giới thiệu cho sinh viên; hoặc những người sưu
tầm ảnh của thần tượng để làm hình nền cho điện thoại cá nhân, dán ảnh khắp
nhà mình, đưa ảnh lên facebook, blog là hành vi sử dụng trái pháp luật hay
không? Hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể nào ….
C) Quyền được bảo vệ đối với hình ảnh của cá nhân trước hành vi sử
dụng trái phép.
Hình ảnh của cá nhân là thuộc quyền nhân thân đối với hình ảnh là thuộc
nhóm quyền nhân thân thiệt đối được quy định trong bộ luật dân sự vì vậy
hình ảnh của cá nhân được pháp luật dân sự bảo vệ; vì thế bất kỳ hành vi xâm
phạm nào về hình ảnh của cá nhân đều phải chịu trách nhiệm pháp lí có thể là
hình sự hoặc dân sự, hay trắc nhiệm pháp lý khác theo quy định của các biện
háp bảo vệ và khôi phục các quyền nhân thân của công dân.
Người vi phạm đến hình ảnh của cá nhân (hình ảnh của người người
khác dù cố ý hay vô ý đều phải chấm dứt hành vi xâm phạm và xin lỗi, cải
chính công khai nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại.
Theo quy định tại điều 31 BLDS 2005 thì xâm hại đến hình ảnh của

người khác không nhất thiết phải gây ra thiệt hại mới bị coi là vi phạm về
quyền đối với hình ảnh kể cả trường hợp không có thiệt cũng bị coi là vi
phạm nếu sử dụng hình ảnh của người khác mà không có sự đồng ý của chính
người đó.
5


3. Hình ảnh của cá nhân bị hạn chế.
Đối với hình ảnh của một cá nhân là một trong những quyền nhân thân
tuyệt đối của cá nhân không thể chuyển giao cho người khác đươc.
Tuy nhiên quyền của cá nhân đối với hình ảnh vẫn bị giới hạn trong một số
trường hợp khi áp dụng trong thực tế.
- Quyền của cá nhân đối với hình ảnh bị giới hạn trong trường hợp xung đột
với quyền lợi chung, quyền lợi bên thứ ba hoặc đương sự bỏ quyền của mình
đối với hình ảnh.
4. Quyền được bảo vệ hình ảnh của cá nhân.
Hình ảnh của cá nhân được pháp luật bảo vệ, quyền hình ảnh của cá nhân
đã được quy định trong bộ luật dân sự hiện hành vì vậy hình ảnh của cá nhân
được pháp luật bảo vệ.
Đối với các biện pháp mang tính chất pháp lý thì việc bảo vệ quyền nhân
thân nói chung và quyền của cá nhân đối với hình ảnh nói riêng đã được quy
định tại Điều 25 BLDS năm 2005 “Khi quyền nhân thân của cá nhân bị vi
phạm thì người đó có quyền:
1.Tự mình cải chính;
2.Yêu cầu vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc
người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai;
3.Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại”
- Tự mình cải chính;
Nếu hình ảnh của cá nhân bị xâm phạm thì trước hết cá nhân tự mình bảo vệ

quyền lợi hợp pháp của mình

6


Tự mình cải chính cá nhân tự mình cải chính được thực hiện sau khi có
hành vi xâm phạm quyền đối với hình ảnh và tuân thủ theo quy định thủ tục
của pháp luật là biện pháp bảo vệ quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá
nhân bị xâm phạm được áp dụng được trong trường hợp có hành vi trái pháp
luật đưa ra những hình ảnh không đúng sự thật đây là trường hợp để cho cá
nhân bảo vệ hình ảnh của mình một cách kịp thời, hạn chế được thiệt hại gây
ra…. Người có quyền cải chính hình ảnh bằng cách trực tiếp bày tỏ trước đám
đông hoặc cải chính trực tiếp thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng…. Biện pháp này có hiệu quả rất cao vì tự bản thân họ tự đính chính lại
những thông tin, hình ảnh của mình, bản thận họ đã được giải tỏa trước công
chúng, sư luận xã hội.
- Yêu cầu người vi phạm chấm dứt hành vi xâm phạm hoặc yêu cầu cơ
quan tổ chức có thẩm quyền buộc người có hành vi xâm phạm chấm dứt
hành vi xâm phạm.
Được áp dụng đố với trường hợp bị xâm phạm khi cá nhân biết được hình
ảnh của mình bị sử dụng mà không có sự xin phép của mình như đăng hình
ảnh trên báo, website,…
Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành
vi xâm phạm là biện pháp bảo vệ quyền nhân thân có hiệu quả nhất
- yêu cầu người vi phạm bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu cơ quan tổ
chức có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại.

2. Thực trạng việc sử dụng hình ảnh cá nhân và việc áp dụng
quyền hình ảnh ở Việt Nam hiện nay.
a) Việc sử dụng hình ảnh cá nhân ở Việt Nam

Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm 2005 đã có các quy định cụ thể về quyền
cá nhân đối với hình ảnh được quy đinh tại điều 31 BLDS năm 2005.Tuy
7


nhiên, quy định vẫn cứ là quy định còn có thực hiện hay không lại là một
chuyện khác. Con người Việt Nam vẫn có một thói quen rất xấu đó là “tiền
trảm hậu tấu” hay thậm chí là “trảm” xong rồi, khỏi “tấu”.Có thể nói từ trước
đến nay người việt Nam ít quan tâm đến vấn đề bản quyền,hay quyền hình
ảnh cá nhân vì vậy việc xài “chùa” hình ảnh của người khác là điều rất
thường xảy ra.Vì thế vấn đề áp dụng quyền cá nhân đối với hình ảnh còn
nhiều tồn tại
Vi phạm quyền hình ảnh cá nhân rất thường hay xảy ra ở Việt Nam, và
cũng có ít vụ kiện tranh chấp đến quyền hình ảnh diễn ra.Tuy nhiên cùng với
sự phát triển của xã hội, ý thức pháp luật nâng cao nên người dân ngày càng
hiểu biết hơn về quyền đối với hình ảnh của cá nhân mình.
Đối với các tổ chức, đặc biệt là các tổ chức kinh tế (các công ty, tập đoàn
kinh tế…) thì việc sử dụng hình ảnh cá nhân làm apfich, pano quảng cáo là rất
phổ biến nhưng trong số những hình ảnh đó, không ai có thể biết được có
chính xác bao nhiêu cái đã được chủ nhân của nó (bao gồm người chụp hoặc
vẽ và người hiện diện trong hình ảnh đó) đồng ý.
Một số vụ việc dùng ảnh đã bị đưa ra khởi kiện:
– 01/2008, người mẫu Nguyễn Kim Tiên tiến hành khởi kiện Công ty
Organon về việc sử dụng hình ảnh của cô mà chưa được phép để quảng cáo
thuốc ngừa thai Mercilon. Cô yêu cầu Công ty Organon phải ngưng ngay
việc quảng cáo trên, xin lỗi cô trên ba số báo liên tiếp và bồi thường 20.000
USD.
- Đầu năm 2004, gia đình bé Minh Khôi kiện Công ty Biti’s, đòi bồi thường
thiệt hại 154 triệu đồng vì Biti’s xài trái phép ảnh của bé Minh Khôi in trên
bìa lịch, tập quảng cáo. Tháng 9-2004, TAND quận 6 (TP.HCM) buộc Biti’s

phải xin lỗi công khai gia đình bé Khôi, chấm dứt vô điều kiện việc sử dụng
trái phép hình ảnh của bé và bồi thường gần ba triệu đồng.
8


Tuy nhiên, do quy mô và tính chất của việc sử dụng hình ảnh chưa đủ
khiến cho cá nhân bị xâm phạm quyền hình ảnh cá nhân phải lên tiếng do đó,
số lượng các án kiện về việc vi phạm quyền hình ảnh giữa các cá nhân với
nhau thường ít hơn so với các vụ tranh chấp giữa cá nhân và tổ chức.
Những vụ việc vi phạm hình ảnh cá nhân với mục đích xâm phạm danh
dự, uy tín và nhân phẩm của cá nhân:
Những vụ án điển hình. Vụ phát tán clip sex của diễn viên Hoàng Thùy
Linh:
Ngày 15/5/2008, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã đưa ra xét xử sơ
thẩm vụ án phát tán clip sex của diễn viên Hoàng Thùy Linh. Trong vụ án
này, Hoàng Thùy Linh được Tòa triệu tập với tu cách là nhân chứng – tức là
người “biết” về vụ việc. Tuy nhiên, xét ở khía cạnh cá nhân, trong vụ án này,
diễn viên Hoàng Thùy Linh chính là nạn nhân, là người bị hại. Cô đã bị người
khác lấy trộm những hình ảnh cá nhân, riêng tư và đưa lên “bêu xấu” trên
mạng internet. Hậu quả với cô đã quá rõ: bị “làm nhục” về hình ảnh trong mắt
mọi người, bị cắt hợp đồng phim (Nhật ký Vàng Anh và rất nhiều hợp đồng
khác nữa)…
Có thể thấy, tình dục là bản năng tự nhiên của bất cứ một người bình thường
nào, và đây là một vấn đề cực kỳ riêng tư, tế nhị. Trong vụ việc này, Hoàng
Thùy Linh cơ bản không làm điều gì xấu hay phương hại đến bất kỳ ai.
Nhưng những gì cô đã phải gánh chịu từ vụ việc này thì là quá lớn. Theo quy
định của pháp luật, cô hoàn toàn có quyền làm đơn tố cáo hoặc khởi kiện các
bị cáo trong phiên tòa về hành vi trộm cắp tài sản (là các đoạn phim hình ảnh
cá nhân của mình), hành vi xâm phạm quyền của cá nhân đối với hình ảnh và
yêu cầu bồi thường thiệt hại.


9


b) Việc áp dụng quyền hình ảnh ở Việt Nam hiện nay
Áp dụng quyền hình ảnh ở Việt Nam ngày nay đã đạt được những bước tiến
bộ nhất định cho thấy sự phát triển của pháp luật dân sự nói chung và pháp
luật về quyền hình ảnh nói riêng
Tuy nhiên vẫn còn phổ biến tình trạng vi phạm quyền đối với hình ảnh cá
nhân – một trong những quyền nhân thân cơ bản của mỗi cá nhân, được pháp
luật công nhận và bảo vệ, vậy đâu là lí do khiến cho tình trạng này phổ biến
như vậy? Ngoài chuyện ý thức ra thì nguyên nhân mẫu chốt vẫn chính là do
việc áp dụng Luật ở Việt Nam còn rất nhiều vấn đề bất cập.
Theo Điều 31 – Bộ Luật Dân Sự Việt Nam năm 2005, hành vi sử dụng hình
ảnh cá nhân của một người mà chưa được sự đồng ý của người đó bị coi là vi
phạm quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh. Tức là muốn sử dụng
hợp pháp thì cá nhân tổ chức doanh nghiệp phải xin phép. Nhưng xin phép
như thế nào thì luật chưa nói đến. Nghĩa là ở Việt nam thiếu các văn bản
hướng dẫn áp dụng luật này vào thực tế trong việc sử dụng hình ảnh của cá
nhân. Còn điều 31 BLDS năm 2005 được quy định thì chung chung khó hiểu
cũng là bước trở ngại cho việc hợp pháp hóa hình ảnh sử dụng của cá nhân, tổ
chức, doanh nghiệp ở nước ta hiện nay.
C, Phương pháp khắc phục và hoàn thiện pháp luật về quyền của cá
nhân đối với hình ảnh
Để khắc phục những hạn chế còn tồn tại
Thứ nhất là phải tuyên truyền ý thức pháp luật trong người dân, để mọi
người hiểu rõ đâu là những quyền nhân thân cơ bản của mình biết tự đấu
tranh bảo vệ về quyền hình ảnh của mình cũng như sử dụng hình ảnh người
khác một cách đúng luật.


10


Thứ hai là tiếp tục hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung các điều luật cũng như văn
bản hướng dẫn áp dụng luật về quyền hình ảnh của cá nhân.
Tích cực thông báo rộng rãi phổ biến pháp luật trên các phương tiện thông
tin đại chúng về quyền này để người dân nắm rõ tình hình về quyền đối với
hình ảnh của cá nhân mình, và nhà nước ban hành văn bản pháp luật về hình
ảnh của cá nhân phù hợp với pháp luật Việt Nam và quốc tế
Điều luật nên quy định rõ ràng thế nào là sự đồng ý cho người khác sử
dụng hình ảnh.

C. KẾT LUẬN
Hình ảnh của cá nhân là vấn đề tương đối phức tạp và khó giải quyết, đặc biệt
là như ở trong tình hình việt nam hiện nay, bằng những thay đổi đã nêu, có thể
nhận thấy pháp luật nước ta đã tiến đến việc xử lý hài hòa quyền lợi của cá nhân
với quyền lợi của cộng đồng. Quyền về hình ảnh của cá nhân ngày càng được coi
trọng,đổi mới và phát triển cho phù hợp với những bước tiến của pháp luật, cũng
như của xã hội ngày nay.
Trên đây là bài phân tích của cá nhân em về hình ảnh và quyền cá nhân đối với
hình ảnh. Do kiến thức trong lĩnh vực này còn hạn chế nên bài tập của em không
tránh khỏi những thiếu sót trong bài làm. Kính mong thầy, cô góp ý, bổ sung
thêm để bài làm em được hoàn thiện hơn.
Em chân thành cảm ơn.

11




×