Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

những nội dung pháp lý cơ bản liên quan đến thủ tục chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.25 KB, 15 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường với quy luật cạnh tranh, chọn lọc và đào thải được
ví như một vòng đấu khốc liệt, trong đó các doanh nghiệp, chủ thể chính của các quan
hệ kinh tế chính là các đối thủ không cân sức, kẻ mạnh thắng thế sẽ tiếp tục tồn tại và
phát triển, còn những kẻ yếu hơn nếu không muốn bị đào thải phải chủ động tìm kiếm
phương án cơ cấu, tổ chức lại nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt
động. Trên thực tế có rất nhiều doanh nghiệp đã làm ăn thua lỗ liên tiếp, rơi vào tình
trạng bế tắc. Thậm chí đã có những doanh nghiệp chấm dứt hoàn toàn mọi hoạt động
lẽ ra phải được Tòa án tuyên bố phá sản nhưng lại chọn các phương án khác như sáp
nhập, hợp nhất, giải thể doanh nghiệp. Vì vậy đề tài nhóm em xin lựa chọn là: Tư vấn
cho một doanh nghiệp (đang thua lỗ trong hoạt động kinh doanh) những nội dung
pháp lý cơ bản liên quan đến thủ tục chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp.
NỘI DUNG
I/ Những vấn đề cơ bản về phá sản:
1. Khái niệm, dấu hiệu phá sản doanh nghiệp:
Phá sản là hiện tượng kinh tế khách quan trong nền kinh tế thị trường mà hậu
quả của nó là sự xung đột lợi ích của các bên tham gia quan hệ kinh doanh. Phá sản
không chỉ là sự xung đột lợi ích giữa con nợ mất khả năng thanh toán với các chủ nợ
của nó mà còn dẫn đến sự xung đột với lợi ích của tập thể người lao động làm việc tại
cơ sở của con nợ, đến lợi ích chung của xã hội, đến tình hình trật tự trị an tại một địa
phương, vùng lãnh thổ nhất định nào đó. Theo đó doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là
lâm vào tình trạng phá sản khi không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến
hạn khi chủ nợ có yêu cầu.1
Theo điều 3, luật phá sản năm 2004 thì một doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản khi: Điều 3: Doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản
Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn
khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản.

1

/>%C3%A1%20s%E1%BA%A3n%20l%C3%A0%20g%C3%AC?&lang=vn



1


Và theo hướng dẫn tại mục 2 Phần I Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP ngày
28-4-2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một
số quy định của Luật Phá sản, thì doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là lâm vào tình trạng
phá sản khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
- Có các khoản nợ đến hạn: Các khoản nợ đến hạn phải là các khoản nợ không có bảo
đảm hoặc có bảo đảm một phần (chỉ tính phần không có bảo đảm); đã rõ ràng; được
các bên xác nhận, có đầy đủ các giấy tờ, tài liệu để chứng minh và không có tranh
chấp;
- Chủ nợ đã có yêu cầu thanh toán các khoản nợ đến hạn, nhưng doanh nghiệp, hợp tác
xã không có khả năng thanh toán. Chủ nợ yêu cầu phải có căn cứ chứng minh là chủ
nợ đã có yêu cầu, nhưng không được doanh nghiệp, hợp tác xã thanh toán (như văn
bản đòi nợ của chủ nợ, văn bản khất nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã…). Do vậy, đối
với chủ nợ, doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là lâm vào tình trạng phá sản khi:
+ Có khoản nợ đến hạn;
+ Chủ nợ đã yêu cầu;
+ Doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ không có khả năng thanh toán.
Khi xuất hiện dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản nêu trên, doanh nghiệp phải áp dụng
các biện pháp tài chính cần thiết như sau đã khắc phục tình trạng mất khả năng thanh
toán nợ đến hạn như :


Các phương án tổ chức lại sản xuất kinh doanh, quản lý chặt chẽ các khoản chi
phí, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm.




Có biện pháp xử lý hàng hoá tồn kho, vật tư tồn đọng.



Thu hồi các khoản nợ và tài sản bị chiếm dụng.



Thương lượng với các chủ nợ để hoãn nợ, mua nợ, bảo lãnh nợ, giảm nợ, xoá
nợ.



Tìm kiếm các khoản tài trợ và các khoản vay mới để trang trải nợ cũ và đầu tư
đổi mới công nghệ.

Sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết nêu trên mà vẫn gặp khó khăn,
không khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì doanh
nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản và phải được xử lý phá sản theo quy định của
pháp luật.

2


Như vậy, dấu hiệu pháp lý căn bản của tình trạng phá sản là mất khả năng thanh
toán nợ đến hạn, phá sản là bước cuối cùng sau khi doanh nghiệp đã tìm các biện pháp
để cứu vãn tình hình nhưng không thành công.
2. Phân loại phá sản:
Căn cứ vào tính chất của sự phá sản thì phá sản gồm: Phá sản trung thực: Là sự
phá sản do nhựng nguyên nhân có thực gây ra. Và phá sản gian trá : Là sự phá sản do

người kinh doanh sắp đặt trước bằng những thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản
của chủ nợ.
Căn cứ vào đối tượng đệ đơn yêu cầu tuyên bố phá sản gồm; Phá sản tự
nguyện: Là do phía doanh nghiệp tự đệ đơn yêu cầu tuyên bố phá sản khi thấy mình
mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và không còn cách nào để khắc phục tình trạng
mất khả năng thanh toán nợ đến hạn đó. Và phá sản bắt buộc: Là do chủ nợ đệ đơn yêu
cầu toà án tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp mắc nợ, bản thân doanh nghiệp
không muốn bị tuyên bố phá sản.
3. Phá sản theo quy định của Luật phá sản năm 2004
3.1. Phạm vi áp dụng
Theo Điều 2, khoản 1 luật phá sản năm 2004 thì phạm vi áp dụng với các đối
tượng cụ thể như sau: Điều 2. đối tượng áp dụng
1. Luật này áp dụng đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (hợp tác
xã, liên hiệp hợp tác xã gọi chung là hợp tác xã) được thành lập và hoạt động theo
quy định của pháp luật
Theo quy định tại mục 1,Phần II Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 284-2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số
quy định của Luật Phá sản thì đối tượng cụ thể là: Công ty nhà nước; Công ty trách
nhiệm hữu hạn ; Công ty cổ phần; Công ty hợp danh; Doanh nghiệp tư nhân; Doanh
nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội; Hợp tác xã; Doanh nghiệp
liên doanh…
Như vậy phạm vi áp dụng của luật phá sản là rất rộng, bao gồm tất cả các loại
hình kinh doanh được đăng ký kinh doanh theo pháp luật Việt Nam.
3.2. Đối tượng có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản

3


Luật phá sản của nước ta quy định chỉ các chủ thể sau đây mới có quyền hay
nghĩa vụ làm đơn yêu cầu tuyên bố phá sản DN, HTX:
3.2.1. Chủ nợ (Điều 13)

Pháp luật về phá sản được đặt ra trước hết là nhằm bảo vệ các chủ nợ. Do vậy,
đối tượng đầu tiên được pháp luật qui định có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản
là chủ nợ. Tuy nhiên, chủ nợ có bảo đảm không được quyền làm đơn yêu cầu tuyên bố
phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
Vì vậy, Điều 13 Luật phá sản 2004 qui định chỉ có các chủ nợ sau đây mới có
quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã:
- Chủ nợ không có bảo đảm là chủ nợ có khoản nợ không được bảo đảm bằng tài sản
của doanh nghiệp, HTX hoặc của người thứ ba.
- Chủ nợ có bảo đảm một phần là chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của
doanh nghiệp, HTX hoặc của người thứ ba mà giá trị tài sản bảo đảm ít hơn khoản nợ
đó.
Điều kiện để các chủ nợ nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản là sau thời gian 30
ngày kể từ ngày gửi giấy đòi nợ đến hạn mà không được thanh toán. Các chủ nợ khi
làm đơn phải nộp lệ phí
3.2.2. Người lao động (Điều 14)
Luật phá sản đã cho phép người lao động có quyền được làm đơn yêu cầu Tòa
án tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã nơi họ đang làm việc với điều kiện:
doanh nghiệp, hợp tác xã không trả lương, các khoản khác khi đến tháng và người lao
động nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.
Như vậy, điều kiện để người lao động được làm đơn:
- Tính chất là nợ lương, các khoản khác lương;
- Không tính đến thời hạn nợ lương là bao lâu;
- Có văn bản thể hiện ý chí chung của tập thể người lao động về việc đưa
doanh nghiệp, hợp tác xã ra Tòa án để giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản (Ví dụ:
Nghị quyết của Công đoàn).
3.2.3. Doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản (Điều 15)
Theo Khoản 1 Điều 15 Luật phá sản 2004 thì sau khi phát hiện mình đã lâm
vào tình trạng mất khả năng thanh toán và mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết

4



mà vẫn không thoát khỏi tình trạng đó thì chủ doanh nghiệp hoặc người đại diện hợp
pháp của doanh nghiệp phải nộp đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố phá sản, nếu không thì
phải chịu trách nhiệm theo qui định của pháp luật.
Như vậy, so với các chủ nợ thì làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố phá sản của
các doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ là nghĩa vụ chứ không phải là quyền. Vì vậy, tại
Khoản 5 Điều 15 Luật phá sản 2004 có quy định: “Trong thời hạn ba tháng, kể từ khi
nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, nếu chủ doanh
nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã không nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.”
Như vậy bản thân doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản có thể đứng trước nguy
cơ bị chủ nợ hay người lao động của doanh nghiệp đó nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá
sản lên cơ quan Tòa án có thẩm quyền.
3.3. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
Cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu phá sản thuộc về tòa án. Toà án
nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền tiến hành thủ tục
phá sản đối với hợp tác xã đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp
huyện đó.
Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền tiến hành
thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan
đăng ký kinh doanh cấp tỉnh đó.
Trong trường hợp cần thiết Toà án nhân dân cấp tỉnh lấy lên để tiến hành thủ
tục phá sản đối với hợp tác xã thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện. Tòa
án nhân dân cấp tỉnh nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài đó. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
được quy định cụ thể trong điều 7, luật phá sản năm 2004.
II/ Trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản của doanh nghiệp
1. Nộp đơn, thụ lý đơn và điều tra về khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp

Các đối tượng có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp gửi đơn đến Toà án nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp yêu cầu giải quyết
việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Nếu là chủ nợ: kèm theo đơn phải có bản sao giấy

5


đòi nợ, các tài liệu liên quan đến việc giải quyết tranh chấp các khoản nợ, các tài liệu
chứng minh tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn... Nếu là doanh nghiệp mắc
nợ: kèm theo đơn là các tài liệu như danh sách chủ nợ, báo cáo tình hình kinh doanh
06 tháng trước khi mất khả năng thanh toán nợ đến hạn; báo cáo quyết toán và thuyết
trình chi tiết tình hình tài chính 02 năm cuối; báo cáo về các biện pháp tài chính cần
thiết đã áp dụng để khắc phục... Trong thời hạn ba tháng, kể từ khi nhận thấy doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, nếu chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp
pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì phải
chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật, theo quy định tại khoản 5, điều 15 luật
phá sản năm 2004.
Toà án thụ lý đơn phải vào sổ và cấp cho người nộp đơn giấy báo đã nhận được
đơn. Trong 7 ngày kể từ ngày thụ lý, toà án phải thông báo cho doanh nghiệp mắc nợ
biết kèm theo bản sao đơn và các tài liệu khác có liên quan. Theo quy định của pháp
luật tại khoản 1 Điều 7 Luật phá sản năm 2004, doanh nghiệp có quyền nộp đơn yêu
cầu giải quyết phá sản đến tòa án nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp.
2. Mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản của doanh nghiệp
Điều kiện mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp :
Doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn do hai lý
do là gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp phải
chứng minh được các khoản thua lỗ là đúng, là hợp pháp, không có dấu hiệu của phá
sản gian trá.
Doanh nghiệp đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn gặp khó khăn,
không khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.

Nếu là doanh nghiệp nhà nước trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và dịch vụ
công cộng quan trọng phải có ý kiến bằng văn bản của Thủ tướng Chính phủ hoặc của
thủ trưởng cơ quan nhà nước đã ra quyết định thành lập doanh nghiệp về việc không
áp dụng các biện pháp cần thiết phục hồi khả năng thanh toán nợ đến hạn của doanh
nghiệp.

6


Có hồ sơ yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp hợp lệ, bao gồm đơn, bản sao
giấy đòi nợ, các giấy tờ tài liệu chứng minh doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn.
Có chứng từ chứng minh người nộp đơn đã nộp tiền tạm ứng lệ phí theo quy định
của pháp luật.
Quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp: Trong thời
hạn 30 ngày kể từ ngày thụ lý đơn, chánh toà kinh tế toà án nhân dân cấp tỉnh phải
xem xét và ra một trong 2 quyết định:
Quyết định không mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, nếu xét thấy
không đủ căn cứ.
Quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản trong đó ấn định thời
điểm ngừng thanh toán nợ của doanh nghiệp, chỉ định thẩm phán và tổ chức quản lý
tài sản để giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Trong quyết định này
phải nêu rõ lý do mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp; ấn
định thời điểm ngừng thanh toán nợ của doanh nghiệp; họ tên của Thẩm phán phụ
trách và các nhân viên Tổ quản lý tài sản được chỉ định.
Quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản được quy định cụ thể trong điều 28 luật
phá sản năm 2004.
3. Hội nghị chủ nợ và khôi phục lại doanh nghiệp:
3.1 Hội nghị chủ nợ.
Hội nghị chủ nợ đóng vai trò quan trọng, là điều kiện tiên quyết để có thể tiến hành

thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh. Hay nói cách khác, thủ tục phục hồi hoạt động
kinh doanh chỉ được áp dụng nếu thẩm phán triệu tập được hội nghị chủ nợ để thông
qua nghị quyết đồng ý với các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh (Điều 68
Luật phá sản). Hội nghị chủ nợ do thẩm phán triệu tập để giải quyết các nội dung quy
định tại Điều 64 Luật phá sản.
3.2 Phục hồi hoạt động kinh doanh
Phục hồi kinh doah là một thủ tục độc lập mà thẩm phán có thể quyết định áp dụng
hay không áp dụng sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản.

7


Điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi kinh doanh. Điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi
hoạt động kinh doanh được quy định tại Điều 68 Luật phá sản. Theo Luật phá sản, để
áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh theo Luật phá sản, cần phải có điều
kiện:
-

Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất được tổ chức thành công.

-

Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua Nghị quyết đồng ý các giải pháp tổ
chức lại hoạt động kinh doanh, kế hoạch thanh toán nợ cho các chủ nợ và yêu
cầu doanh nghiệp phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.

Khi Hội nghị chủ nợ thông qua Nghị quyết, thẩm phán ra quyết định áp dụng thủ tục
phục hồi hoạt động kinh doanh.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua
Nghị quyết, doanh nghiệp phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh

của mình và nộp cho Tòa án. Nếu doanh nghiệp cần phải có thời gian dài hơn thì phải
có văn bản đề nghị thẩm phán gia hạn (thời gian gia hạn không quá 30 ngày). Trong
thời hạn nói trên, bất kỳ chủ nợ hoặc người nào nhận nghĩa vụ phục hồi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp đều có quyền xây dựng dự thảo phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh cho doanh nghiệp và nộp cho Toà án.
Nội dung phương án phục hồi hoạt động doanh nghiệp. Theo điều 69 Luật phá
sản, trong phương án phục hồi hoạt động, doanh nghiệp cần phải nêu rõ các biện pháp
cần thiết để phục hồi hoạt động kinh doanh; các điều kiện, thời hạn và kế hoạch thanh
toán các khoản nợ. Các biện pháp cần thiết để phục hồi hoạt động kinh doanh gồm có:
huy động vốn mới; thay đổi mặt hàng sản xuất, kinh doanh; đổi mới công nghệ sản
xuất; tổ chức lại bộ máy quản lý; sáp nhập hoặc chia tách bộ phận sản xuất nhằm nâng
cao năng suất, chất lượng sản xuất; bán lại cổ phần cho chủ nợ; bán hoặc cho thuê tài
sản không cần thiết và các biện pháp khác không trái pháp luật. Ngoài ra, phương án
phục hồi phải ghi rõ các điều kiện, thời hạn và kế hoạch thanh toán các khoản nợ.
Xem xét, thông qua phương án phục hồi. Thẩm phán xem xét phương án phục
hồi trong thời hạn 15 ngày. Sau đó đưa ra quyết định đưa phương án ra Hội nghị chủ
nợ hay sửa đổi bổ sung phương án trong trường hợp phương án chưa đảm bảo nội
dung. (Điều 70 Luật phá sản).

8


Nếu nội dung phương án phù hợp thì Thẩm phán triệu tập Hội nghị chủ nợ để xem xét,
thông qua.
Công nhận nghị quyết về phương án phục hồi và giám sát thực hiện phương án
phục hồi. Sau khi hội nghị chủ nợ thông qua phương án, thẩm phán ra quyết định công
nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi doanh nghiệp và quyết
định này có hiệu lực với tất cả các bên có liên quan (điều 72 Luật phá sản)
Phương án phục hồi kinh doanh của doanh nghiệp sẽ có cơ chế giám sát quy định tại
điều 73 Luật phá sản. Ở giai đoạn doanh nghiệp thực hiện phương án phục hồi hoạt

động kinh doanh, tổ quản lý, thanh lý tài sản bị giải thể (khoản 1). Sáu tháng một lần,
doanh nghiệp phải gửi cho Tòa án báo cáo tình hình thực hiện phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh ở doanh nghiệp. Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn chịu sự giám
sát của chủ nợ trong việc thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
Thời hạn thực hiện phương án phục hồi. “Thời hạn tối đa để thực hiện phương
án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng
phá sản là ba năm, kể từ ngày cuối cùng đăng báo về quyết định của Toà án công
nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, hợp tác xã.” (điều 74 Luật phá sản).
Trong quá trình thực hiện phương án phục hồi, các chủ nợ và doanh nghiệp có thể thỏa
thuận về việc sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
4. Tuyên bố phá sản và phân chia tài sản của doanh nghiệp:
4.1 Quyết định tuyên bố phá sản
Thẩm phán Toà kinh tế cấp tỉnh có thẩm quyền ra quyết định tuyên bố phá sản doanh
nghiệp trong các trường hợp:


Doanh nghiệp mắc nợ không có phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại
hoạt động kinh doanh khi có đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp của
chủ nợ và toà án đã có quyết định mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp.



Chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp không có mặt ở
hội nghị chủ nợ để trình bày phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại sản
xuất kinh doanh.

9





Hội nghị chủ nợ không thông qua phương án hoà giải và giải pháp tổ chức lại
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.



Hết thời hạn tổ chức lại hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp vẫn kinh doanh
không có hiệu quả và các chủ nợ yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.



Trong thời hạn tổ chức lại hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp vi phạm nghiêm
trọng những thoả thuận tại hội nghị chủ nợ và chủ nợ yêu cầu tuyên bố phá sản.



Trong quá trình giải quyết việc phá sản doanh nghiệp mà chủ doanh nghiệp tư
nhân bỏ trốn hoặc bị chết và người thừa kế từ chối thừa kế hoặc không có người
thừa kế.

Quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp được gửi đến chủ nợ, doanh nghiệp bị phá
sản và Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp.
Quyết định tuyên bố phá sản có thể bị khiếu nại (đối với các chủ nợ và doanh nghiệp
bị tuyên bố phá sản) và kháng nghị (đối với Viện kiểm sát). Thời hạn khiếu nại và
kháng nghị là 30 ngày kể từ ngày có quyết định.
Quyết định này phải được đăng báo địa phương và báo hàng ngày của trung ương
trong 3 số liên tiếp. Thời hạn đăng báo chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày quyết định có
hiệu lực.
4.2 Phân chia giá trị tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.

Việc phân chia tài sản của doanh nghiệp được tiến hành sau khi đã xác định rõ tài
sản của doanh nghiệp. Tài sản của doanh nghiệp gồm:
-

Tài sản cố định và tài sản lưu động của doanh nghiệp đang có trong doanh
nghiệp.

-

Tiền hoặc tài sản góp vốn liên doanh, liên kết với cá nhân, doanh nghiệp hoặc
tổ chức khác.

-

Tiền hoặc tài sản của doanh nghiệp mà cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp khác
đang nợ hoặc chiếm đoạt.

-

Tài sản đang cho thuê hoặc cho mượn.

-

Các quyền về tài sản.

10


Riêng đối với doanh nghiệp tư nhân thì tài sản của doanh nghiệp còn bao gồm cả
tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân không trực tiếp dùng vào hoạt động kinh doanh.

Tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản gọi là tài sản phá sản.
Thứ tự ưu tiên phân chia tài sản:
-

Các khoản lệ phí, các chi phí theo quy định của pháp luật cho việc giải quyết
phá sản doanh nghiệp.

-

Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp
luật và các quyền lợi khác theo thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao động
đã ký.

-

Các khoản nợ nộp thuế.

-

Các khoản nợ cho các chủ nợ trong danh sách chủ nợ.

Khi phân chia giá trị tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản, có thể có các
tình huống xảy ra: Nếu giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp phá sản còn đủ để thanh
toán các khoản nợ cho các chủ nợ thì mỗi chủ nợ đều được thanh toán đủ số nợ của
mình. Nếu giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp phá sản không đủ để thanh toán các
khoản nợ cho các chủ nợ thì mỗi chủ nợ được thanh toán một phần các khoản nợ của
mình theo tỷ lệ tương ứng. Nếu vẫn còn thừa thì phần còn lại thuộc:


Chủ doanh nghiệp nếu là doanh nghiệp tư nhân




Các thành viên công ty nếu là công ty



Ngân sách nhà nước nếu là doanh nghiệp nhà nước.

5. Về thi hành quyết định tuyên bố phá sản
Quyết định giải quyết khiếu nại của Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản được
ban hành trong quá trình giải quyết vụ phá sản có tuyên rõ nghĩa vụ thi hành của
đương sự được thi hành theo quy định tại Luật Phá sản, Nghị định 67/2006/NĐ-CP
ngày 11/7/2006 của Chính phủ “hướng dẫn việc áp dụng Luật Phá sản đối với doanh
nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản” và Điều 138
Luật Thi hành án dân sự. Trong trường hợp này, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân
sự không ra quyết định thi hành án, mà Chấp hành viên và Tổ quản lý, thanh lý tài sản

11


căn cứ quyết định của Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản để tổ chức thi hành.
Trường hợp đương sự không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên (Tổ trưởng tổ
quản lý, thanh lý tài sản) có quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án theo quy
định tại điểm i khoản 2 Điều 21 Nghị định 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006 của
Chính phủ và khoản 8 Điều 20 Luật Thi hành án dân sự.
Trường hợp có khiếu nại đối với quyết định cưỡng chế thi hành án của Chấp
hành viên thi giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
III/ Nhận xét, hoàn thiện pháp luật phá sản và các quy định pháp luật có
liên quan:

Ta nhận thấy, doanh nghiệp đang thua lỗ trong hoạt động kinh doanh là sự biểu
hiện một trong những dấu hiệu doanh nghiệp đó rơi vào tình trạng phá sản và có thể
dẫn tới phá sản doanh nghiệp. khi mà chủ doanh nghiệp hướng tới phá sản để chấm
dứt hoạt động của doanh nghiệp, thì có thể phục hồi lại được hoạt động kinh doanh khi
tìm ra được hướng giải pháp phù hợp. Trong tiến trình phá sản doanh nghiệp có giai
đoạn phục hồi lại hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp ấy
tiếp tục tồn tại và phát triển.
Phá sản ở một khía cạnh nào đó có lợi hơn cho chủ doanh nghiệp với tư cách là
những con nợ vì doanh nghiệp đang hoạt động thua lỗ, có thể thanh toán được hết các
khoản nợ bằng khối tài sản còn lại của doanh nghiệp. Khi giải quyết thủ tục phá sản,
nghĩa vụ của doanh nghiệp mắc nợ sẽ chấm dứt sau khi dùng toàn bộ tài sản của doanh
nghiệp để trả nợ mặc dù có thể thanh toán chưa đủ cho các chủ nợ.
Phá sản không phải bao giờ cũng dẫn đến việc doanh nghiệp chấm dứt hoạt
động và bị xóa tên trong sổ đăng ký kinh doanh. Trong khi đó nếu chủ doanh nghiệp
lựa chọn giải thể thì doanh nghiệp ấy chấm dứt hoạt động và bị xóa tên hoàn toàn
trong sổ đăng ký kinh doanh.
Thực tế kinh doanh cho thấy, trong quá trình hoạt động các doanh nghiệp ít hay
nhiều đều mắc một số sai phạm về mặt pháp luật. Nếu đệ đơn phá sản, tòa sẽ thụ lý và
xem xét tất cả các hồ sơ, chứng từ có liên quan. Xem ra, một vụ phá sản thuần túy dân
sự có nhiều khả năng trở thành một vụ phá sản hình sự. Vì vậy, nhiều doanh nhân rất e
ngại khi phải đệ đơn xin phá sản.

12


Ngoài ra, Luật Phá sản của Việt Nam có hướng bảo vệ nhiều cho con nợ thay vì
chủ nợ. Chính vì vậy trên quan điểm của các tổ chức tín dụng, để con nợ phá sản thì
khả năng thu hồi lại nợ vay cũng không nhiều. Từ thực tế này, chính các tổ chức tín
dụng cũng hạn chế sử dụng cơ chế phá sản cho các doanh nghiệp để thu hồi nợ.
Đồng thời, những doanh nhân làm việc thất bại phải phá sản còn bị những luật

định chế tài rất khắt khe. Theo pháp luật hiện hành, chủ doanh nghiệp phá sản và
những người quản lý doanh nghiệp đó sẽ bị tòa quyết định không được quyền thành
lập, và cấm đảm nhiệm các chức vụ quản lý doanh nghiệp từ 1 – 3 năm, kể từ ngày
doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.
Thị trường mua bán nợ không phát triển khiến việc xử lý các khoản nợ (có thế
chấp) khi doanh nghiệp phá sản trở nên rất khó khăn, đặc biệt là khi liên quan đến
nhiều chủ nợ.
Hoạt động phá sản theo luật định là một công cụ sàng lọc doanh nhân, hạn chế
những doanh nghiệp quá yếu kém. Vì các doanh nghiệp này tiếp tục chiếm dụng vốn,
làm cho nợ xấu tăng lên. Nếu công cụ tuyển chọn này được hoàn thiện thì hoạt động
kinh doanh tại Việt Nam sẽ có nhiều khởi sắc hơn. Theo TS Lê Đăng Doanh, vấn đề
phá sản của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường cần được nhìn nhận như sau:
“Trong nền kinh tế thị trường, việc phá sản là một hiện tượng bình thường. Trong kinh
tế học, người ta coi phá sản là một sự tàn phá sáng tạo. Tức là những doanh nghiệp
nào có ông chủ kém, đã có đầu tư sai và không có khả năng kinh doanh nữa thì doanh
nghiệp đó sẽ phải làm thủ tục phá sản; để cho có một ông chủ khác có năng lực hơn
được thực hiện…”
Phá sản luôn là một giải pháp cần thiết trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, vì
đây là cách tái phân bổ nguồn lực từ chỗ không còn hiệu quả sang chỗ có hiệu quả
hơn. Trong thực tế, những doanh nghiệp mất khả năng chi trả nhưng không áp dụng
được thủ tục phá sản sẽ làm tăng thêm rủi ro cho nền kinh tế vốn nhiều trì trệ hiện nay.
Nhưng điều quan trọng là Luật Phá sản phải được sửa sao để các doanh nghiệp
lâm vào cảnh phá sản coi đây là lối thoát, là phương thức tốt nhất cho họ giải quyết nợ
nần và bảo vệ quyền lợi của họ. Luật cũng phải cho doanh nghiệp thấy, khi không còn
khả năng trả nợ đến hạn mà không tuyên bố phá sản thì các khoản nợ này cứ ngày một

13


lớn lên cùng với lãi suất - khi đó doanh nghiệp càng lún sâu vào nợ nần - khó có thể

dứt ra được.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế nói chung và pháp luật phá sản nói riêng
là đòi hỏi khách quan của nền kinh tế, phù hợp với đường lối phát triển đất nước của
Đảng và Nhà nước ta. Luật Phá sản năm 2004 đã có nhiều điểm tiến bộ so với Luật
Phá sản doanh nghiệp năm 1993 nhưng qua 5 năm thi hành đã cho thấy còn nhiều
khiếm khuyết, bất cập. Do đó, hoàn thiện pháp luật phá sản trong thời điểm hiện nay là
cần thiết. Việc hoàn thiện pháp luật phá sản cần đáp ứng được những nguyên tắc sau
đây:
Thứ nhất, pháp luật phá sản cần thể hiện được những quy luật vốn có của nền
kinh tế thị trường nhưng trên cơ sở thực tiễn, hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của nước ta.
Phải khắc phục được những vướng mắc trong thực tiễn, khắc phục được những hạn
chế thiếu sót cũng như duy trì những nhân tố hợp lý và kinh nghiệm áp dụng hai Luật
Phá sản đã có và đã được thực tế kiểm nghiệm, chứng minh.
Thứ hai, pháp luật phá sản phải được hoàn thiện trong điều kiện hoàn thiện
pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật kinh tế nói riêng. Pháp luật phá sản phải
đồng bộ, thống nhất với các văn bản pháp luật khác như Luật Doanh nghiệp, Luật
Thương mại, pháp luật về thi hành án, pháp luật giải quyết tranh chấp, pháp luật lao
động, pháp luật đất đai.
Thứ ba, Việt Nam đang là thành viên của WTO, việc hoàn thiện pháp luật phá
sản phải phù hợp yêu cầu của pháp luật về kinh tế quốc tế.
Thứ tư, hoàn thiện pháp luật phá sản phải dựa vào thực tiễn nền kinh tế đất
nước, do đó, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản phải phù hợp, chặt chẽ và linh
hoạt.
Pháp luật phá sản của Việt Nam đã phần nào đáp ứng được nền kinh tế thị
trường trong điều kiện, hoàn cảnh đất nước hiện nay. Tuy nhiên, thực tiễn luôn phát
sinh những vấn đề hết sức phức tạp và đa dạng. Bản thân Luật Phá sản năm 2004 và
các văn bản hướng dẫn thi hành đã bộc lộ một số hạn chế cần sửa đổi, bổ sung cho phù
hợp yêu cầu và tình hình phát triển của xã hội. Luật Phá sản cho doanh nghiệp cần
hoàn thiện hơn, để doanh nghiệp sau khi mất khả năng kinh doanh được rút lui khỏi thị
trường một cách có trật tự, lành mạnh.


14


KẾT LUẬN
Trong nền kinh tế khó khăn hiện nay thì các chủ doanh nghiệp khó có thể thoát
khỏi tình trạng làm ăn thua lỗ, thất thoát, dẫn tới phải chấm dứt hoạt động doanh
nghiệp của mình. Lựa chọn bất cứ loại hình nào cũng có những mặt hạn chế và tích
cực nhất định. Thủ tục của từng hình thức là khác nhau, các chủ doanh nghiệp có thể
lựa chọn cho doanh nghiệp của mình một loại hình thích hợp nhất. Bài làm của nhóm
còn nhiều thiếu sót mong thầy, cô và các bạn góp ý.

15



×