Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luậtthuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay và đề xuất các ý kiến pháp lý nhằm thực thi thuế nhập khẩu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.93 KB, 16 trang )

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MÔN: LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

MỤC LỤC


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MÔN: LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

A.LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam có xuất phát điểm thấp, cơ sở vật chất còn nghèo nàn,
lạc hậu, trình độ khoa học kỹ thuật còn yếu kém cùng với hệ thống pháp luật còn
chưa hoàn chỉnh, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, hàng hoá
Việt Nam trên thị trường thế giới là rất thấp. Vì vậy, trong quá trình hội nhập, nhà
nước phải áp dụng các chính sách bảo hộ đối với nền kinh tế để giúp các ngành kinh
tế có thể đứng vững trước sự cạnh tranh khốc liệt của xu hướng toàn cầu hóa. Vấn
đề đặt ra ở đây là bảo hộ với những ngành kinh tế nào, bảo hộ ở mức độ nào mới là
hợp lý? Pháp luật thuế nhập khẩu phản ánh rõ nhất mức độ hội nhập và sự bảo hộ
của nhà nước đối nới nền kinh tế. Vì vậy cần thiết phải xây dựng, hoàn thiện pháp
luật thuế nhập khẩu như thế nào để vừa có thể bảo hộ đúng mức, hợp lý dựa trên
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đồng thời bảo đảm thực hiện đầy đủ các nghĩa
vụ và các cam kết của mình với tư cách là thành viên của các tổ chức kinh tế quốc
tế. Hay nói cách khác pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam cần phải được xây dựng
và hoàn thiện như thế nào để đảm bảo cho việc hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay đạt hiệu quả cao nhất. Vì những lý do đã nêu trên nên em
đã chọn đề tài: “Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật
thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay và đề xuất các ý kiến pháp lý nhằm thực thi
thuế nhập khẩu”. Trên đây là những tìm hiểu của em về vấn đề nêu trên, do kiến
thức trong lĩnh vực này còn nhiều hạn chế nên bài viết không thể tránh khỏi những


thiếu sót, vì vậy em mong nhận được những ý kiến đánh giá của quý thầy cô để bài
viết của em được đầy đủ và hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MÔN: LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

B.NỘI DUNG
I.Lí luận chung
1. Khái niệm
Với mục đích để làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật thuế nhập
khẩu ở nước ta hiện nay. Trước khi đi tìm hiểu vấn đề cụ thể thì ta cần phải hiểu sơ
lược vấn đề về: thế nào là thuế, thuế nhập khẩu, pháp luật thuế nhập khẩu.
Thứ nhất, thuế là hình thức động viên bắt buộc một phần thu nhập của cá nhân,
doanh nghiệp cho Nhà nước nhằm đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Thứ hai, thuế nhập khẩu có nhiều cách hiểu khác nhau và tuỳ từng góc độ tiếp
cận. Đầu tiên, xét về phương diện kinh tế thì thuế nhập khẩu được hiểu là khoản tiền
đóng góp của tổ chức, cá nhân vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật
khi họ có hành vi nhập khẩu hang hoá, dịch vụ qua biên giới của một nước. Trên
phương diện pháp lí, thuế nhập khẩu có thể hình dung như là một quan hệ pháp luật
phát sinh giữa nhà nước là bên thu thuế với tổ chức, cá nhân người nộp thuế về việc
tạo lập và thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lí cho các bên trong quá trình tiến hành
thu thuế nhập khẩu. Quan hệ pháp luật này phát sinh từ cơ sở pháp lí là đạo luật thuế
nhập khẩu do Quốc hội ban hành mà hậu quả pháp lí chủ yếu của việc áp dụng đạo
luật đó trong thực tiễn là làm phát sinh quyền thu thuế cho nhà nước và nghĩa vụ
đóng góp thuế cho các tổ chức, cá nhân là người nộp thuế.
Thứ ba, thì theo giáo trình luật thuế Việt Nam của trường Đại Học Luật Hà Nội
thì pháp luật thuế nhập khẩu là danh từ pháp lí dùng để chỉ tập hợp các quy phạm
pháp luật do nhà nước ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong

quá trình đăng ký, kê khai, tính thuế, nộp thuế, quyết toán thuế…Cũng xét về mặt
hình thức, pháp luật thuế nhập khẩu bao gồm các văn bản pháp luật như văn bản
luật, nghị quyết, nghị định, chỉ thị, thông tư,…Ngoài ra còn xét về mặt nội dung thì
pháp luật thuế nhập khẩu bao hàm các vấn đề chủ yếu như: phạm vi áp dụng, căn cứ
tính thuế, trình tự, thủ tục…
Cuối cùng, Thuế NK được tính theo công thức:
Thuế NK = (Số lượng hàng NK x Giá tính thuế đơn vị) x Thuế suất
Giá tính thuế đơn vị là giá nhập tại cửa khẩu. Nếu vận chuyển bằng đường biển là
giá FOB, giá CIF. Giá nhập bao gồm cả chi phí vận tải và bảo hiểm tới cửa khẩu.
Thuế suất là số tiền thuế phải nộp trên một đơn vị đối tượng tính thuế. Sau khi xác
định đối tượng tính thuế là gì ta có thể xác định nội dung, cách quy định mức thuế
suất.
2. Đặc điểm và vai trò của thuế nhập khẩu
Thứ nhất, thuế nhập khẩu có đối tượng chịu thuế là những hàng hoá được phép
vận chuyển qua biên giới. Hàng hoá ở đây là các tư liệu sản xuất tiêu dung cho con
người và tư liệu tiêu dùng do con người sản xuất ra tại nước ngoài và lưu thông trên
thị trường Việt nam bằng cách chuyển qua biên giới nước ta. Hiện tại thì nhà nước ta
không đánh thuế nhập khẩu dịch vụ nhưng khi xã hội ngày càng phát triển sẽ kéo


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MÔN: LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

theo nhiều loại hàng hoá vô hình được chuyển vào qua biên giới nước ta. Những tài
sản này được hình thành bằng những con đường khác nhau, và nó cũng không có
phương thức kiểm soát hữu hiệu cho loại hàng hoá này.
Thứ hai, pháp luật thuế nhập khẩu không hoàn toàn là thuế trực thu hoặc thuế
gián thu. Điều này được thể hiện khi một nhà nhập khẩu nộp thuế nhập khẩu và tự
tiêu dùng bằng hàng hoá nhập khẩu đó chứ không phân phối ra ngoài thị trường thì

khi đó khoản thuế nhập khẩu đã nộp có tính chất là thuế trực thu, vì người nhập khẩu
là người nộp thuế và cũng là người chịu thuế. Ngược lại khi nhà nhập khẩu nộp xong
thuế nhập khẩu và bán hàng hoá đó ra ngoài thị trường thì số tiền thuế nhập khẩu đã
nộp có xu hướng chuyển sang cho người mua hàng chịu và do đó, khoản thuế nhập
khẩu này lại có tính chất là thuế gián thu, bởi lẽ người nộp thuế và người chịu thuế
không phải là một.
Thứ ba, thuế nhập khẩu có chức năng đặc trưng là bảo hộ nền sản xuất trong
nước và điều tiết hoạt động nhập khẩu, tạo nguồn thu cho ngân sách, giảm bớt tình
trạng thất nghiệp và đẩy mạnh sự phát triển của nền kinh tế. Với một số loại hàng
hoá nhập khẩu tiêu dùng trong nước do bị đánh thuế nhập khẩu nên nhìn chung về
mặt lí thuyết thì loại hàng hoá này trên thị trường sẽ tăng lên. Trong khi đó cũng
chính mặt hàng này được sản xuất trong nước do không phải chịu thuế nhập khẩu
nên xu hướng rẻ hơn của hàng hoá đó là điều tất yếu, do đó nó mới có sức mạnh
cạnh tranh với mặt hàng nhập khẩu. Từ đó ta có thể thấy việc đánh thuế nhập khẩu
thực chất là một biện pháp bảo hộ nền sản xuất trong nước khi mà cơ quan quản lí
cũng như doanh nghiệp cảm thấy không đủ mạnh hoặc có những bất lợi về chính nền
doanh nghiệp và sự cạnh tranh không cân sức của doanh nghiệp trong nước và nước
ngoài.
Thứ tư, cũng có một số quan điển cho rằng việc đánh thuế nhập khẩu quá cao
đối với một số mặt hàng nhất định là do các doanh nghiệp của ta không đủ mạnh
hoặc chính phủ mô hình chung đã quá bảo hộ với các doanh nghiệp trong nước.
Theo tôi thì quan điểm trên là sai lầm xét về mặt lí luận cũng như thực tiễn. Bởi, một
quốc gia muốn phát triển thật sự bền vững và độc lập thì quốc gia đấy phải có nền
kinh tế đủ mạnh để tự cung, tự cấp cho nên khi cảm thấy khi không đủ mạnh để cạnh
tranh và muốn bảo hộ một cách hữu hiệu cho thị trường tiêu thụ trong nước thì quốc
gia đó phải đánh thuế nhập khẩu nói chung, và với các mặt hàng đánh thuế nhập
khẩu cao nói riêng. Ngoài ra, xét về góc độ thương mại việc đánh thuế nhập khẩu
nhằm chống lại hành vi tấn công thương mại của một số quốc gia, tổ chức khi có ý
đồ không tốt và cũng chính từ việc đánh thuế nhập khẩu sẽ phát triển ngành sản xuất
trong nước và kích thích nền kinh tế phát triển.

Cuối cùng, với vai trò tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, và là loại thuế dễ
thu đối với các cá nhân, tổ chức trong nước, nhằm giảm bớt được tình trạng thất
nghiệp khi đánh thuế nhập khẩu cao. Bởi khi đánh thuế cao một số loại hàng hoá thì
chính hàng hoá đó sẽ giảm và nhà nước phải mở rộng đầu tư để phục vụ cho nhu cầu
trong nước thì phải phát triển sản xuất nhằm tạo công ăn việc làm cho người lao
động.


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MÔN: LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

II. Tình hình thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong thời gian qua
1. Nội dung của thuế nhập khẩu
1.1 Chủ thể nộp thuế nhập khẩu
Được quy định tại Điều 4 Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu 2005 và được hướng dẫn
chi tiết tại Điều 3 Nghị định 87/2010/NĐ – CP của chính phủ về việc hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật thuế xuất nhập khẩu năm 2005. Theo đó các đối tượng
nộp thuế bao gồm: “chủ hàng hoá nhập khẩu, tổ chức nhận uỷ thác nhập khẩu, cá
nhân có hàng hoá nhập khẩu khi nhập cảnh, nhận hàng qua cửa khẩu, biên giới Việt
nam hoặc tổ chức uỷ quyền, bảo lãnh và nộp thay thế”.
1.2 Đối tượng chịu thuế nhập khẩu
Được quy định Điều 2 Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu 2005 và được hướng dẫn chi
tiết tại Điều 1 Nghị định 87/2010/NĐ – CP của chính phủ về việc hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật thuế xuất nhập khẩu năm 2005. Theo đó các đối tượng
chịu thuế nhập khẩu là những đối tượng: “1. Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu qua
cửa khẩu, biên giới Việt Nam bao gồm: hàng hoá nhập khẩu, nhập khẩu qua cửa
khẩu bằng đường bộ, đường sông, cảng biển, cảng hàng không, đường sắt liên vận
quốc tế, bưu điện quốc tế và địa điểm làm thủ tục hải quan khác được thành lập
theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

2. Hàng hoá được đưa từ thị trường trong nước vào khu phi thuế quan và từ khu phi
thuế quan vào thị trường trong nước”.
Và theo quy định tại Điều 3 của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu năm 2005 và được
hướng dẫn tại Điều 2 Nghị định 87/2010/NĐ – CP của chính phủ về việc hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật thuế xuất nhập khẩu năm 2005 thì những đối tượng
không chịu thuế nhập khẩu gồm: “1. Hàng hoá vận chuyển quá cảnh hoặc chuyển
khẩu qua cửa khẩu Việt nam theo quy định của pháp luật.
2. Hàng hoá viện trợ nhân đạo, hàng hoá viện trợ không hoàn lại …hậu quả, thiên
tai, chiến tranh, dịch bệnh.
3. Hàng hoá từ khu phi thuế quan xuất khẩu ra nước ngoài, hàng hoá nhập khẩu từ
nước ngoài vào khu phi thuế quan và chỉ được sử dụng trong khu phi thuế quan,
hàng hoá đưa từ khu phi thuế quan này hoặc sang khu phi thuế quan khác.
4. Hàng hoá là phần dầu khí thuộc khu thuế tài nguyên của nhà nước khi nhập
khẩu”.
1.3. Thuế suất thuế nhập khẩu
Thuế suất là một trong các căn cứ để xác định nghĩa vụ thuế nhập khẩu đối với
người nộp thuế và được quy định tại khoản 2 Điều 10 Luật thuế xuất khẩu, nhập
khẩu 2005 và được hướng dẫn chi tiết tại khoản 2 Điều 9 Nghị định 87/2010/NĐ –
CP của chính phủ về việc hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế xuất nhập
khẩu năm 2005. Theo đó thuế suất thuế nhập khẩu được chia làm ba nhóm.
Thuế suất đối với hàng hóa nhập khẩu được quy định cụ thể cho từng mặt hàng, gồm
thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và thuế suất thông thường:
- Thuế suất ưu đãi: thuế suất ưu đãi áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ
từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong quan hệ


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MÔN: LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM


thương mại với Việt Nam. Thuế suất ưu đãi được quy định cụ thể cho từng mặt hàng
tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi;
- Thuế suất ưu đãi đặc biệt: thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng đối với hàng hóa nhập
khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ
quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam theo thể chế khu vực thương mại tự
do, liên minh thuế quan hoặc để tạo thuận lợi cho giao lưu thương mại biên giới và
trường hợp ưu đãi đặc biệt khác;
Điều kiện áp dụng thuế suất ưu đãi đặc biệt:
Thứ nhất, phải là những mặt hàng được quy định cụ thể trong thỏa thuận đã ký
giữa Việt Nam với nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện ưu đãi đặc biệt về
thuế và phải đáp ứng đủ các điều kiện đã ghi trong thỏa thuận;
Thứ hai, phải là hàng hóa có xuất xứ tại nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ
mà Việt Nam tham gia thỏa thuận ưu đãi đặc biệt về thuế.
- Thuế suất thông thường: thuế suất thông thường áp dụng đối với hàng hóa nhập
khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ không thực hiện đối xử tối
huệ quốc và không thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với Việt Nam. Thuế
suất thông thường được áp dụng thống nhất bằng 150% mức thuế suất ưu đãi của
từng mặt hàng tương ứng quy định tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi.
2. Tình hình thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong thời gian qua
Trong những năm qua và nhất là từ khi thực hiện cải cách thuế bước 2, từ năm
1999 đến nay thì cùng với việc sửa đổi bổ sung, ban hành, áp dụng mới các sắc thuế
nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, pháp luật thuế nhập
khẩu nói riêng pháp luật thuế nói chung đã từng bước xây dựng và hoàn thiện. Cụ
thể:
2.1 Tổng quan về thuế nhập khẩu ở việt nam trong thời gian qua
2.1.1 Số lượng hàng nhập khẩu
Nhà nước áp dụng các chính sách hạn chế định lượng XNK đối với mặt hàng ô
tô, các mặt hàng điện tử, điện lạnh, phân bón, thuốc lá, thực phẩm và các mặt hàng
khác; cấm nhập khẩu một số mặt hàng như xe đạp, xe hai bánh, ba bánh gắn máy cũ,
các vật tư, phương tiện đã qua sử dụng. Hàng tiêu dùng như dệt may, giày dép, quần

áo, đồ điện tử, điện lạnh, điện gia dụng, hàng trang trí nội thất, thiết bị y tế, đồ gia
dụng, các sản phẩm công nghệ thông tin đã qua sử dụng cũng nằm trong danh mục
hàng cấm nhập. Nhà nước còn quy định hạn ngạch XNK đối với mặt hàng thuốc lá
nguyên liệu, bông, sữa nguyên liệu cô đặc, sữa nguyên liệu chưa cô đặc, muối, ngô
hạt và trứng gia cầm,... Số lượng hàng hóa nhập khẩu sẽ được điều chỉnh thuế suất
dựa trên sự cân đối giữa nhu cầu và năng lực sản xuất trong nước. Ngoài ra còn có
những quy định về việc cấp phép nhập khẩu tùy ý đối với một số mặt hàng.
2.1.2 Cơ cấu hàng nhập khẩu
...
Theo cơ cấu nhóm hàng, cơ cấu nhập khẩu trong thời gian qua có những biến
động giữa hai nhóm hàng là tư liệu sản xuất và vật liệu tiêu dùng. Nhập khẩu hàng
tiêu dùng có xu hướng giảm nhanh. Trước năm 1995 tỷ trọng nhóm hàng nhập khẩu
tiêu dùng giao động khoảng 13% đến 15%. Từ năm 1996 đến nay thì tỷ lệ này đã


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MÔN: LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

giảm xuống một mức đáng kể và ổn định ở mức 7% đến 8 %. Từ năm 2000 đến năm
2006 thì tỷ trọng hàng nhập khẩu bình quân từ 7% đến 11%. Nó thể hiện sự đúng
đắn của nhà nước theo định hướng giảm tỷ trọn hàng nhập khẩu phục vụ tiêu dùng,
tăng tỷ trọng hàng nhập khẩu là máy móc, thiết bị, nguyên liệu cho sản xuất, đồng
thời cũng phản ánh xu hướng, nhập khẩu góp phần phát triển và thúc đẩy sản xuất
trong nước theo hướng thay thế hàng nhập khẩu tiêu dùng.
2.1.3 Xác định trị giá tính thuế nhập khẩu
Nhà nước chủ trương áp dụng bảng giá tối thiểu và giá tham khảo để tính thuế
nhập khẩu với một số mặt hàng: rượu vang, rượu mạnh, gạch lát, v.v…
2.1.4 Cơ cấu thị trường nhập khẩu
Thị trường nhập khẩu Việt nam đã được mở rộng trên 170 quốc gia và vùng lãnh

thổ. Trong đó Châu á là thị trường có kim ngạch nhập khẩu cao nhất với 35,84 tỉ
USD. Châu âu là thị trường thứ hai với kim ngạch xuất nhập khẩu 5,44 tỉ USD.
Châu mỹ là thị trường có kim ngạch xuất nhập khẩu đứng thứ ba với 1,9 tỉ USD.
Còn lại là châu phi với 322 triệu USD. (Số liệu trên được tính đến hết năm 2006).
2.1.5 Quyền kinh doanh nhập khẩu của các doanh nghiệp
Nhà nước quy định rõ doanh nghiệp FDI chỉ được nhập khẩu những mặt hàng
quy định trong giấy phép đầu tư nhằm phục vụ mục đích sản xuất của mình. Cùng
với việc thực hiện cam kết của Việt nam về thuế nhập khẩu trong khuôn khổ tổ chức
thương mại thế giới WTO thì tốc độ tăng của nhập khẩu cao gấp đôi tốc độ tăng của
xuất khẩu.
2.1.6 Biểu thuế nhập khẩu
Nhà nước ban hành biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo danh mục nhóm hàng chịu
thuế và khung thuế suất ưu đãi đối với từng nhóm hàng.
2.2 Tình hình thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong thời gian qua
Được sửa đổi bổ sung nhiều lần xuất phát từ thực tiễn nhập khẩu hàng hóa cũng
như những cam kết trong phạm vi toàn cầu, pháp luật thuế nhập khẩu đã có những
đóng góp quan trọng trong trao đổi hàng hóa giữa Việt Nam với các quốc gia khác.
Nhìn chung, luật thuế nhập khẩu đã phù hợp với các nguyên tắc và nền tảng pháp lí
chung của các chế định kinh tế quốc tế, góp phần hình thành nền tảng pháp lí quan
trọng, thúc đẩy phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Luật thuế nhập khẩu đã
tạo nguồn thu quan trọng trong tổng thu ngân sách nhà nước, tác động tích cực trong
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của các
ngành sản xuất trong nước.
Những chính sách được đề cập ở phần tổng quan thuế nhập khẩu đã có tác động
không nhỏ tới nền kinh tế đất nước. Thực tế cho thấy những chính sách này được đặt
ra có rất nhiều mặt phù hợp với tình hình kinh tế Việt Nam trong những năm đầu
thời kì hội nhập.
Thứ nhất, các chính sách trên giúp hạn chế những mặt hàng chỉ phục vụ cho một
số lượng người nhất định trong phạm vi toàn quốc. Nếu chính phủ cho phép nhập
khẩu những mặt hàng đó một cách tràn lan, không đánh thuế suất cao thì tài sản đất

nước (bao gồm cả tài sản của toàn dân, của các hãng, và của nhà nước) sẽ không thể


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MÔN: LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

tập trung vào phát triển nền sản xuất. Trong khi đất nước còn kém phát triển điều
này sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ tới tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, Nhà nước có những qui định khắt khe về các mặt hàng như rượu, thuốc
lá, xì gà,... vì đây là những mặt hàng thực tế nếu nhập nhiều sẽ gây ảnh hưởng lớn
tới sức khỏe con người.
Thứ ba, Nhà nước có những chính sách hạn chế nhập với những mặt hàng dệt
may, ô tô,... đã góp phần làm giảm cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước. Khi
các doanh nghiệp trong nước chưa tạo được chỗ đứng cho mình mà nhà nước cho
phép các mặt hàng này được phép nhập với thuế xuất thấp, không có hạn ngạch thì
chắc chắn sản phẩm nhập sẽ tràn lan trên thị trường, các doanh nghiệp trong nước
không thể cạnh tranh nổi và tất yếu đi và sẽ dẫn đến phá sản của một bộ phận doanh
nghiệp.
Thứ tư, có thể thấy rõ các chính sách như trên không chỉ đem lại nguồn thu ngân
sách cho nhà nước mà còn bảo vệ các doanh nghiệp trong nước, phục vụ một số vấn
đề vĩ mô của đất nước. Tuy nhiên, những chính sách này còn quá nhiều những hạn
chế về việc thực thi nó trong thời gian qua.
Tóm lại các chính sách như trên không kìm hãm sự phát triển của các doanh nghiệp
chuyên kinh doanh XNK, hạn chế sự phát triển một số mặt hàng, làm tăng giá cả
trên thị trường, giảm tính cạnh tranh của thị trường.
III. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt
nam hiện nay
1. Yếu tố kinh tế, chính trị trong nước, quốc tế và các chính sách thương mại của
quốc gia

1.1 Kinh tế, chính trị trong nước và quốc tế
Tình hình kinh tế, chính trị trong nước và quốc tế ở một thời kì nhất định là yếu
tố có ảnh hưởng quyết định đến nội dung chính sách thuế xuất nhập khẩu và nội
dung pháp luật thực định về thuế xuất nhập khẩu trong giai đoạn đó. Điều này hoàn
toàn dễ hiểu bởi lẽ suy cho cùng chính sách và pháp luật về thuế xuất nhập khẩu chỉ
là tấm gương phản chiếu thực trạng tình hình kinh tế và xã hội trong nước và quốc
tế.
1.2 Chính sách thương mại quốc gia
Việt Nam đã đạt được những bước cắt giảm thuế quan rất quan trọng kể từ năm
1996 khi tiến hành gia nhập AFTA. Trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực, Việt
Nam đã cam kết cắt giảm thuế quan đối với 5.505 sản phẩm, trong đó có 80% sản
phẩm cắt giảm ở mức thuế 0-5% và 20% sản phẩm ở mức thuế trên 5%. Khi hiệp
định thương mại Việt - Mỹ chính thức có hiệu lực, Việt Nam đã cam kết giảm thuế
nhập khẩu đối với 244 mặt hàng trong vòng 3 - 6 năm với mức thuế giảm bình quân
từ 35% xuống còn 26% (trong đó có 80% là sản phẩm nông nghiệp). Cũng theo cam
kết này, Việt Nam đang tiến hành bãi bỏ ưu đãi về thuế nhập khẩu theo tỷ lệ nội địa
hoá và dần dần tháo bỏ việc áp dụng chế độ thu phí và lệ phí liên quan đến hàng hoá
nhập khẩu.


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MÔN: LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

Chính phủ đã sử dụng một loạt các biện pháp phi thuế quan để kiểm soát và điều
tiết nhập khẩu. Hệ thống cấp giấy phép nhập khẩu và côta thực sự được nới lỏng khi
hệ thống danh mục hàng nhập khẩu chịu thuế được đưa vào áp dụng năm 1992 theo
nghị định 114 - HĐBT. Theo Nghị định này, số lượng mặt hàng nhập khẩu phải chịu
quản lý bằng hạn ngạch đã giảm đáng kể, và mọi hàng hoá đều được tự do xuất nhập
khẩu và chịu điều tiết bằng thuế xuất nhập, trừ danh mục hàng cấm nhập khẩu, cấm

xuất khẩu, danh mục hàng xuất nhập được quản lý bằng hạn ngạch. Hiện tại, Việt
Nam đang cố gắng loại bỏ hạn ngạch, côta theo đúng tiến trình thực hiện hiệp định
thương mại Việt - Mỹ, hạn chế các khoản phụ phí nhập khẩu, ban hành những quy
định mới về giá trị tính thuế hải quan, và mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập đối
với các hình thức doanh nghiệp khác ngoài thành phần kinh tế Nhà nước.
Nhưng trong thực tế, mô hình thương mại của Việt Nam trong thời gian qua có
xu hướng nghiêng về thay thế nhập khẩu. Nhà nước đã khuyến khích đầu tư phát
triển các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu và đa số các dự án FDI được phê
duyệt là giành để sản xuất các sản phẩm phục vụ thị trường nội địa. Trong xu thế giá
cả thế giới ngày càng giảm sút, xuất khẩu hàng hoá của Việt nam có nguy cơ càng
sản xuất nhiều càng thua lỗ nặng. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp nhà nước còn
chiếm tỷ lệ khá lớn cũng là một nguyên nhân ảnh hưởng đến mô hình thương mại
của Việt nam trong thời gian qua. Xu hướng bảo hộ mậu dịch đi ngược với định
hướng chiến lược trong thời gian qua có nguy cơ đẩy Việt Nam đi vào thua thiệt khi
tiến hành tự do hoá thương mại theo quy định của WTO.
2.Yếu tố áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu
Trong những năm gần đây, bằng quyết tâm và nỗ lực của mình, Việt nam đã tiến
hành ký kết nhiều hiệp định thương mại song phương với một số nước, vùng lãnh
thổ và đã tham gia vào một số điều ước quốc tế có liên quan đến vấn đề tự do hoá
thương mại quốc tế. Hiện nay Việt nam đã ký kết hiệp 80 hiệp ước thương mại song
phương và điều ước đa phương với các nước. Trong đó thì có ba hiệp ước quan
trọng như là: Cam kết của Việt nam về thuế nhập khẩu trong khuôn khổ hiệp định
thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT); Cam kết của Việt nam về thuế nhập
khẩu trong khuôn khổ hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ; Cam kết của Việt
nam về thuế nhập khẩu WTO. Và những thay đổi này đều được thể chế hóa thành
các quy định của pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, nhằm đảm bảo tính
khả thi và tính hiện thực cho các chính sách đó trong thực tiễn. Nhưng khi áp dụng
thì không phải bất kỳ chủ thể là người thu thuế hay nộp thuế cũng áp dụng đúng theo
những quy định của pháp luật hiện hành.
Bởi đã nhiều năm kể từ khi cải cách thuế Việt Nam được tiến hành, bên cạnh những

thành tựu đạt được thì các hạn chế vẫn còn tồn tại khá nhiều. Đối với hệ thống thuế
nói chung và nói riêng với thuế nhập khẩu, một điều đáng chú ý là hệ thống cơ quan
hành thu còn quá cồng kềnh, số lượng cán bộ thuế nhiều mà tỷ lệ thanh tra thuế lại
không đáng kể….Các khâu hành thu còn phức tạp, một số trường hợp còn xảy ra
hiện tượng chồng chéo. Khi áp dụng cơ chế hành thu tự khai, tự nộp do các điều


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MÔN: LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

kiện cần thiết chưa xuất hiện một cách đồng bộ nên vẫn xảy ra hiện tượng trốn lậu
thất thoát thuế.
Công tác quản lí mặc dù đã được nhiều thành tựu trong thời kỳ mới nhưng vẫn còn
nhiều bất cập trên tất cả các lĩnh vực từ thể chế đến cách thức quản lí. Quản lí thuế
hầu hết dựa trên kinh nghiệm, chưa khoa học, hợp lí. Bộ máy tổ chức ngành thuế
cũng chưa hoàn thiện: Hiện nay bộ máy quản lí thuế của nước ta được tổ chức theo
ngành dọc từ Trung ương tới cấp huyện. Hệ thống này được phân chia vừa theo sắc
thuế vừa theo đối tượng nộp thuế. Một cán bộ thuế phải đảm nhiệm nhiều chức năng
từ thông báo thuế, thu thuế, kiểm tra thuế do đó không có điều kiện chuyên sâu vào
một nghiệp vụ nhất định. Khi chuyển sang áp dụng thuế nhập khẩu, qui trình quản lí
thuế phải thay đổi, cơ quan thuế phải tổ chức thu thuế, khấu trừ thuế, hoàn thuế,
….trình độ của một số cán bộ còn thấp do đó không đáp ứng được nhu cầu của công
việc. Sự thống nhất hoạt động giữa các cơ quan chức năng còn chưa cao, một số còn
chưa nhiệt tình trong việc cung cấp các thông tin để cơ quan thuế tổng hợp nhằm
đưa ra những giải pháp bổ sung kịp thời cho các sắc thuế.
3. Yếu tố ý thức của người nộp thuế nhập khẩu
Đây là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc thực thi Luật thuế nhập khẩu.
Hiện nay có những gian lận chủ yếu sau trong việc nộp thuế của các chủ thể nộp
thuế. Người nộp thuế có hành vi khai báo không trung thực giá tính thuế nhập khẩu.

Hiện tại thì các chủ thể nộp thuế thường không khai báo chính xác mà khai giá nhập
khẩu thấp hơn. Ví dụ công ty Đông Nam, giám đốc Nguyễn Gia Thiều đã móc nối
với công ty Đông Nam Hồng Kông mua hơn 40000 chiếc điện thoại di dộng khai giá
thấp hơn so với giá thực tế thanh toán từ 75 đến 375 USD trốn thuế nhập khẩu trên
100 tỉ.
Khai thấp về chất lượng hàng những chủ thể nộp thuế thường khai chất lượng hàng
thấp hơn so với thực tế nhằm trốn thuế nhập khẩu.
Khai báo hàng không thanh toán, hàng hỗ trợ tiếp thị quảng cáo.
Đánh đồng tên hàng nhưng chất lượng và phẩm cấp cao hơn.
Ngoài ra, từ sự ảnh của giá tính thuế nhập khẩu sẽ dẫn đến việc kê khai không
trung thực thuế nhập khẩu, mặt hàng nhập khẩu, số lượng hàng nhập, trị giá hải quan
ảnh hưởng đến công tác kiểm tra của hải quan. Do năng lực cán bộ hải quan còn yếu
kém nên không kiểm soát được hết hàng buôn lậu. Có hành vi gian lận giấy chứng
nhận xuất xứ hàng hóa, khai sai nguồn gốc xuất xứ hàng hóa nhằm hưởng lợi từ việc
ưu đãi về thuế đối với các nước mà Việt Nam cam kết giảm thuế. Khai báo gian dối
về tên hàng hóa nhập khẩu để được áp mã và hưởng thuế suất thấp hơn.
4. Yếu tố chính sách ưu đãi và miễn giảm thuế
Thứ nhất, để khuyến khích hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, nhà nước đã
có những chính sách ưu đãi và miễn giảm thuế xuất nhập khẩu. Nhưng chính các ưu
đãi này đã tạo kẽ hở cho doanh nghiệp lách luật và gây một số điểm bất bình đẳng.
Một ví dụ là chính sách ân hạn thuế trong Luật thuế XNK có phần hơi “thông
thoáng”. Cụ thể, thời hạn nộp thuế nhập khẩu đối với hàng xuất khẩu là 15 ngày, với
nguyên phụ liệu nhập khẩu để làm hàng xuất khẩu là 275 ngày kể từ ngày ra thông


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MÔN: LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

báo nộp thuế. Đây là kẽ hở cho doanh nghiệp cho những doanh nghiệp nhập khẩu

nguyên phụ liệu. Họ có thể bán hết số nguyên phụ liệu đã nhập về cho thị trường
trong nước khi chưa hết hạn nộp thuế. Sau đó họ giải tán doanh nghiệp để trốn cả
thuế tiêu thụ nội địa lẫn thuế nhập khẩu.
Thứ hai, việc áp dụng nhiều mức thuế khác nhau với các nhãn sản phẩm khác
nhau cũng tạo điều kiện cho việc thừa cơ chuộc lợi của nhiều công ty. Việc áp thuế
cho xe 6 – 9 chỗ ngồi thấp hơn xe từ 6 chỗ trở xuống làm doanh nghiệp hạn chế
nhập xe con vì sợ chịu thuế cao. Hay đơn cử việc áp dụng Bảng giá tối thiểu tính
thuế nhập khẩu cũng dẫn đến doanh nghiệp nhập hàng giá cao không có trong danh
sách bảng giá này để hưởng lợi nhuận. Minh chứng cho điều này là trường hợp của
công ty Đông Nam. Theo Quyết định 177 của Tổng cục Hải quan thì Bảng giá tối
thiểu tính thuế chỉ quy định các loại Nokia 3210, 5110, 5510 (90 USD/chiếc), 6110,
6150, 8210 (120 USD/chiếc), 8810, 8850 (190 USD/chiếc), 9910 (400 USD/chiếc);
còn các loại khác (chưa quy định) chỉ chịu thuế 80 USD/chiếc. Doanh nghiệp Đông
Nam đã lợi dụng kẽ hở này, cho nhập ồ ạt các nhãn điện thoại Nokia như 8250,
8855, 8310,8910 là những sản phẩm giá cao nhưng chỉ chịu thuế 80 USD/chiếc. Như
vậy áp dụng bảng giá tính thuế còn nhiều bất cập vì các sản phẩm thường ra các
dòng mới liên lục và thường đắt hơn những loạt trước đấy. Trong khi đó, bảng giá
chậm cập nhập nên những mặt hàng mới này lại chỉ chịu thuế thấp.(1)
Một sơ hở nữa là vấn đề thanh toán. Tại các công văn số 1482/TC/TCT ngày 11-42000, số 5957/TC/TCT ngày 9-6-2003, số 8282/TC/TCT ngày 12-6-2003, Bộ Tài
chính có đưa ra ưu đãi thuế GTGT với hàng xuất nhập khẩu: Nếu được thanh toán
qua ngân hàng thì chỉ chịu mức thuế suất 0%. Nhiều hợp đồng kinh doanh có giao
dịch bằng giấy tờ có giá nhưng làm hợp đồng danh nghĩa là thanh toán qua ngân
hàng để không phải chịu thuế. Ví dụ: Tại Nghệ An, khi kiểm tra sau thông quan 6
doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá qua cửa khẩu Móng Cái, ô 20 đều ghi thanh toán
qua ngân hàng nhưng khi cán bộ hải quan đến ngân hàng thương mại Móng Cái để
xác minh thì đã phát hiện một số doanh nghiệp không thanh toán qua ngân hàng.
Thứ ba, bởi theo lộ trình ra nhập cam kết về thuế, chẳng hạn như với AFTA,
thuế nhập khẩu máy tính nhập nguyên chiếc về từ các nước ASEAN sẽ được hưởng
mức thuế suất ưu đãi là 0%, nhưng mức thuế suất mặt hàng linh kiện điện tử Việt
Nam (dùng để lắp giáp máy vi tính trong nước) phải chịu 2% thuế nhập khẩu. Với

công nghệ hiện nay thì Việt nam chỉ sản xuất được một số linh kiện chứ chưa thể sản
xuất để lắp giáp đủ một chiếc máy vi tính, như vậy sản phẩm máy vi tính trong nước
sẽ cao hơn giá máy tính nhập khẩu. Thậm chí với chính sách ưu đãi thuế suất 0%
qua đường nhập khẩu từ các nước ASEAN thì với các mặt hàng từ Châu âu các nhà
doanh nghiệp bằng cách luồn, lách luôn khoản thuế lẽ ra họ phải đóng khi nhập khẩu
trực tiếp mặt hàng đó từ Châu âu vào Việt nam. Ngoài ra còn một số doanh nghiệp
Trung Quốc cũng với thuế suất 0% như vậy sẽ dẫn đến một hệ quả là các doanh
nghiệp sản xuất máy tính trong nước không thể cạnh tranh hoặc trụ vững khi nền
kinh tế thế giới đang có những rung chuyển nhất định.


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MÔN: LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

Không chỉ đối với hàng hoá là máy tính mà toàn ngành điện tử Việt nam chịu áp lực
chung như thế, vô hình chúng ta chỉ là cái nôi để đặt trụ sở các nhà máy để tiêu thụ
cho những doanh nghiệp nhập khẩu nguyên chiếc máy tính của họ ở một quốc gia
khác và có nhập khẩu qua các nước ASEAN cho vào Việt nam. Dẫn đến tình trạng
chỉ có tiêu thụ chứ không có sản xuất, cho nên nếu không có chính sách hoạch định
vấn đề trên sớm thì tình trạng nhập siêu sẽ tăng cao và lỗi lo về mất cân bằng cán
cân thương mại là điều không thể tránh khỏi và ngày càng hiện rõ. Ví dụ điển hình
như tính đến cuối tháng 8/2007 kim ngạch nhập khẩu đạt 37.632 tỷ USD, tăng
29,9% so với cùng kỳ năm 2006. Kim ngạch nhập khẩu 8 tháng đầu năm đã đạt 72%
kế hoạch cả năm. Giá trị nhập siêu là 6.414 tỷ USD. Bằng 20% tổng kim ngạch xuất
khẩu cả nước. Với tốc độ trên thì nhập siêu sẽ đạt 9 tỷ USD trong năm 2007, và đây
là một con số cao đáng kể so với mức trung bình nhập siêu những năm gần đây.
5. Yếu tố thuộc khâu quản lí và khai báo thu thuế
Khâu quản lý khai báo và thu thuế còn chưa hiệu quả, thủ tục khai báo và thu
nộp thuế tại Hải quan còn khá rườm rà. Việc càng nhiều khâu, nhiều quy trình đồng

nghĩa với càng nhiều khe hở để xảy ra hiện tượng gian lận và trốn thuế. Tại hầu hết
các khâu, các lĩnh vực trong quá trình làm thủ tục Hải quan đều xảy ra hiện tượng
gian lận thương mại, cụ thể như: Khai báo không đúng tên hàng, khai báo nhiều
chủng loại hàng hoá với một tên hàng để áp mã có mức thuế suất thấp; làm giả C/O
để được hưởng thuế suất ưu đãi đặc biệt; Khai báo không đúng giá trị thực thanh
toán để gian lận trị giá; bán nguyên phụ liệu, thành phẩm ra thị trường nội địa đối
với loại hình nhập khẩu đầu tư gia công sản xuất - xuất khẩu để trốn thuế với số
lượng lớn…
Ngoài ra, sự thiếu nhất quán trong quản lý cũng gây khó khăn cho việc nộp thuế của
các doanh nghiệp, khiến cho nguy cơ gian lận thuế càng tăng. Đơn cử như trường
hợp Bảng giá tính thuế tối thiểu nói trên, Tổng cục Hải quan cho phép: ''Đối với mặt
hàng nhập khẩu không có hợp đồng, mặt hàng nhập khẩu có hợp đồng có trị giá tính
thuế ước tính dưới 20 triệu đồng, thì Cục trưởng uỷ quyền cho Chi cục trưởng ra
quyết định xây dựng, sau đó báo cáo Cục Hải quan tổng hợp ban hành áp dụng
thống nhất trong Cục và báo cáo Tổng cục Hải quan''. Các doanh nghiệp ái ngại
không chỉ vì mỗi chi cục tính giá mỗi khác, mà ngay khi Cục Hải quan tổng hợp từ
các chi cục để ban hành bảng giá áp dụng thống nhất thì cũng không áp dụng hồi tố,
các doanh nghiệp đã đóng thuế rồi thì không được áp mức giá thống nhất ấy. Việc
xây dựng giá cũng tạo kẻ hở cho tiêu cực.
Thêm nữa, nhiều cán bộ hải quan còn thiếu sự nhạy bén và hiểu biết tường tận về
Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Điều này dẫn đến không phát hiện được hành vi
gian lận thuế.
6. Yếu tố thuế suất thuế nhập khẩu
Thứ nhất, mức thuế còn khá cao so với nhiều nước trong ASEAN và trên thế
giới. Để bảo vệ sức mạnh của hàng hoá trong nước, nhà nước đã áp dụng mức thuế
cao. Nhưng điều này gây khó khăn cho nhiều mặt hàng nhập khẩu có nhu cầu lớn.
Có thể xem xét mặt hàng sữa nhập khẩu tại Việt Nam là một ví dụ. Theo đánh giá


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ


MÔN: LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

của Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, giá sữa bán lẻ
ở Việt Nam đứng ở mức cao nhất thế giới. Tính bình quân cho các nước Bắc Mỹ,
châu Đại Dương, Trung Quốc, Israel và EU là 0,8 USD/kg; các nước thuộc khu vực
Đông Âu, Nam Mỹ có mức giá trung bình thấp nhất là 0,4 USD/kg. Trong khi đó,
giá sữa bán lẻ Việt Nam lại lên đến 0,82 USD/kg. (2). Hơn nữa, cách tính trị giá nhập
khẩu chưa hợp lý sẽ làm mất đi sự công bằng của luật thuế
Thứ hai, việc giảm thuế suất nhiều mặt hàng gây ảnh hưởng lớn tới nguồn thu
của chính phủ từ thuế như đã trình bày ở tiểu mục II.4 của bài. Và kể từ khi làm đơn
gia nhập WTO, Chính phủ Việt Nam đã bắt đầu chuyển đổi chính sách thuế quan
trong thương mại hàng hoá, trong đó có hàng hoá công nghiệp để đáp ứng các yêu
cầu của WTO. Là thành viên chính thức WTO, Việt Nam sẽ phải tiến hành giảm
thuế quan và ràng buộc tất cả các dòng thuế (mức trung bình của các nước đang phát
triển là 12,3%). Đồng thời phải dỡ bỏ các hàng rào phi thuế (hạn ngạch, giấy phép,
các thủ tục hải quan, trợ cấp, đầu mối, tiêu chuẩn kỹ thuật...) trong một thời hạn nhất
định, tuỳ thuộc vào từng mặt hàng cụ thể theo cam kết.
Thứ ba, việc cắt giảm mức thuế quan sẽ làm cho lượng hàng hoá nhập khẩu tràn
vào Việt Nam. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam không chuẩn bị trước tinh thần này,
không nâng cao được sức cạnh tranh của doanh nghiệp, của sản phẩm thì doanh
nghiệp Việt Nam ngay cả trong ngành có lợi thế trước đây cũng có thể thất bại ngay
trên chính sân nhà.
IV. Một số kiến nghị và giải pháp cho những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi
pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt nam hiện nay
1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế nhập khẩu hiện hành
. Hiện nay thì chính phủ đã ban hành Nghị định 87/2010/NĐ – CP của chính phủ về
việc hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế xuất nhập khẩu năm 2005 nó đã
quy định khá chi tiết nhưng vẫn còn một số bất cập không phù hợp với thực tiễn
như:

Thứ nhất, về căn cứ tính thuế nhập khẩu thì theo Điều 8 luật thuế xuất khẩu,
nhập khẩu năm 2005 và Điều 6 Nghị định 87/2010/NĐ – CP của chính phủ về việc
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế xuất nhập khẩu năm 2005 thì: “1. Đối
với mặt hàng áp dụng thuế suất theo tỷ lệ phần trăm (%), căn cứ tính thuế là:
a. Số lượng từng mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong Tờ khai hải quan;
b. Giá tính thuế từng mặt hàng;
c. Thuế suất từng mặt hàng.
2. Đối với mặt hàng áp dụng thuế tuyệt đối, căn cứ tính thuế là:
a. Số lượng từng mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong Tờ khai hải quan;
b. Mức thuế tuyệt đối tính trên một đơn vị hàng hóa”.
Nhưng tại Nghị định 40/2007 quy định chi tiết về việc xác định trị giá hải quan đối
với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu được quy định là: “Nghị định này quy định việc
xác định trị giá hải quan nhằm mục đích tính thuế”. Việc chính phủ đã ban hành 1
Nghị định riêng cho việc xác định trị giá hải quan cho việc tính thuế, phải chăng căn
cứ tính thuế được quy định tại Điều 8 Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu là thừa hay là


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MÔN: LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

sự chồng chéo văn bản của cơ quan có thẩm quyền ban hành thì thực tế cho ta thấy
trong nhiều năm qua có rất nhiều các quy định không thống nhất với nhau của hai
hay nhiều loại văn bản. Tình trạng này muốn khắc phục được thì cần có sự rà soát lại
những nội dung chưa thống nhất của các văn bản ban hành.
Thứ hai, xét về góc độ lí luận cũng như thực tiễn thì đội ngũ quản lí cũng như
ban hành các sắc lệnh pháp luật thuế còn yếu kém trong khâu nghề nghiệp chuyên
môn hay do cố tình không hiểu hoặc hiểu sai vấn đề của một số bộ phận cán bộ thuế
nhất định?. Vấn đề này em xin không đề cập do những nguyên nhân mà các bộ, ban,
ngành cố tình đổi lỗi cho nhau mỗi khi có hành vi phát hiện vi phạm của cán bộ thuế

xảy ra. Nhưng thiết nghĩ việc hoàn thiện hệ thống pháp luật xuất nhập khẩu hiện
hành thì cần phải hoàn thiện đội ngũ cán bộ có trình độ và đạo đức nghề nghiệp thì
mới đáp ứng được việc ban hành cũng như hội nhập và thực thi khi một văn bản
pháp luật thuế nhập khẩu mới được ban hành nói riêng và hệ thống pháp luật thuế
nói chung. Làm tốt khâu này thì các khâu như chính sách ưu đãi mà miễn giảm thuế,
ý thức pháp luật của người nộp thuế, việc áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu, khâu
quản lí và khai báo thu thuế…sẽ hoàn thiện tốt được các chức năng chuyên môn của
mình.
2. Các kiến nghị và giải pháp khác
Thứ nhất, cần cải cách mạnh mẽ công tác thanh tra, kiểm tra thuế. Kiểm tra,
thanh tra thuế là một trong những chức năng quan trọng của cơ quan thuế và luôn
được quy định trong các văn bản về thuế. Trong công tác thanh kiểm tra thuế giá trị
gia tăng cần tránh tình trạng chồng chéo, cần phân biệt giới hạn thanh tra, kiểm tra
thuế với những tác nghiệp trong nghiệp vụ thuế, tránh gây phiền hà cho các cơ sở
sản xuất kinh doanh. Mặt khác, cần củng cố bộ máy, đội ngũ kiểm tra thuế cũng như
phân bổ nguồn lực cho công tác này. Để đạt được hiệu quả trong công tác thanh
kiểm tra thuế còn cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý chức năng
như Bộ tài chính, Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ tư pháp, Bộ công an, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, Tòa án,… trong việc quản lý thuế.
Thứ hai, cần đẩy mạnh dịch vụ tư vấn thuế (dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế).
Tư vấn thuế là hoạt động trong đó các chuyên gia về pháp luật thuế cung cấp các
thông tin, kiến thức, giải pháp về lĩnh vực thuế cho đối tượng nộp thuế có nhu cầu để
họ thực hiện nghĩ vụ thuế phù hợp với các quy định của nhà nước. Xét về mặt xã
hội, tư vấn thuế là kênh thông tin hai chiều giữa khách thể quản lý và chủ thể quản
lý. Vì vậy, những bất hợp lí của pháp luật thuế sẽ dễ dàng được phát hiện góp phần
cho công tác pháp điển hóa pháp luật thuế được tiến hành kịp thời.
Cuối cùng, thì việc thực hiện tốt công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật về
thuế nhập khẩu nói riêng và pháp luật thuế nói chung cần được đẩy mạnh và nâng
cao vì do một số bộ phận thuộc đối tượng nộp thuế có ý trốn thuế, khai báo không
trung thực…nên cần hướng dẫn và giải thích cụ thể chi tiết cho họ việc kê khai thuế,

nộp thuế, hoàn thuế, miễn thuế. Phối hợp mạnh mẽ với bộ ban ngành như văn hoá
truyền thông trong công tác tuyên truyền chính sách pháp luật tới đại bộ phận đông


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MÔN: LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

đảo người dân. Phổ biến cũng như răn đe nghiêm khắc đối với các hành vi quản lí
thuế, trốn thuế… bằng cách trực tiếp cũng như “lách” luật.

C.KẾT LUẬN
Thuế xuất nhập khẩu không chỉ đơn thuần được sử dụng như một công cụ để
làm tăng nguồn thu ngân sách nhà nước mà còn được sử dụng như một công cụ để
bảo hộ sản xuất trong nước. Thuế nhập khẩu là một trong những yếu tố quan trọng
ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế Việt Nam. Chính từ vai trò quan trọng của thuế
nhập khẩu mà dẫn tới các đòi hỏi Nhà nước cần có những giải pháp kịp thời khắc
phục mặt hạn chế. Đồng thời tiếp tục tiến hành sửa đổi luật thuế, điều chỉnh bài toán
xuất nhập khẩu hợp lí, tăng tính cạnh tranh cho thị trường Việt Nam.

D.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Trường đại học Luật Hà nội, Giáo trình Luật thuế Việt nam, Nxb Tứ pháp 2007
2.Học viện tài chính, giáo trình luật tài chính Việt nam, Nxb chính trị quốc gia 2008.
3.Vũ Văn Cương, “thông tin về người nộp thuế trong pháp luật quản lí thuế ở Việt
nam”, tạp chí Luật học số 5/2009.
4.Luật thuế Xuất khẩu, nhập khẩu 2005.


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ


MÔN: LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

5.Nghị định 87/2010/NĐ – CP của chính phủ về việc hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật thuế xuất nhập khẩu năm 2005
6. />7. />


×