Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

những nội dung pháp lý cơ bản về đấu giá hàng hóa ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.63 KB, 16 trang )

Trường Đại Học Luật Hà Nội

MSSV: KT33B005

MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, đấu giá hàng hóa đã ngày càng khẳng định
vai trò là một bộ phận quan trọng trong các hoạt động thương mại. Cùng với sự ra đời và phát
triển của các hoạt động của hoạt động đấu giá hàng hóa, pháp luật về đấu giá hàng hóa cũng
từng bước được xây dựng và hoàn thiện. Việc ban hành Bộ luật Dân sự (2005), Luật Thương
mại (2005) đã đánh dấu bước phát triển mới của pháp luật về đấu giá hàng hóa, góp phần tạo
cơ sở pháp lý cho hoạt động đấu giá hàng hóa ở Việt Nam. Bài viết xin phân tích rõ về những
nội dung pháp lý cơ bản về đấu giá hàng hóa ở Việt Nam.
NỘI DUNG
I. Khái quát về đấu giá hàng hóa
1. Khái niệm đấu giá hàng hóa
Theo Điều 185 LTM 2005 thì: “ Đấu giá hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó
người bán hàng tự mình hoặc thuê người tổ chức đấu giá thực hiện việc bán hàng hóa công
khai để chọn người mua trả giá cao nhất”.
Có thể nói, đấu giá hàng hóa là phương thức để bên bán xác định (chọn) người mua
hàng. Căn cứ vào chủ thể và mục đích của đấu giá mà hoạt động đấu giá có thể được phân
chia thành: đấu giá tài sản trong dân sự và đấu giá hàng hóa (là hoạt động thương mại của
thương nhân). Đối tượng của đấu giá hàng hóa là hàng hóa thương mại được phép lưu thông
trên thị trường.
Đầu giá hàng hóa là một hình thức công khai, mà ở đó tất cả những người tham gia
đấu giá có quyền cạnh tranh bình đẳng để mua hàng hóa. Đấu giá hàng hóa có tính chất đặc
thù thể hiện ở chỗ chỉ có một người bán hàng hóa nhưng nhiều người tham gia mua hàng
hóa. Khi mà tất cả mọi người tham gia hàng hóa, họ đều muốn mua hàng hóa đó thì không
còn cách nào khác họ phải cạnh tranh với nhau về giá cả, ai là người trả giá cao nhất, người
đó sẽ được mua hàng hóa đó.
Việc bán đấu giá được tổ chức một cách công khai tại một nơi nhất định và vào một
thời điểm nhất định đã được thông báo trước và được tiến hành theo một trình tự do pháp luật


quy định. Để thực hiện hoạt động bán đấu giá hiện nay người bán đấu giá tuân thủ một loạt các
bước như: niêm yết thông báo công khai bán hàng hóa, các giấy tờ có lien quan, trưng bày
hàng hóa và tất cả các thủ tục cần thiết khác trước và sau khi cuộc bán đấu giá kết thúc.
2. Đặc điểm của đấu giá hàng hóa
Đầu giá hàng hóa có những đặc điểm, đặc thù so với các hoạt động thương mại khác,
được thể hiện ở các điểm sau:
Thứ nhất, đấu giá hàng hóa là một phương thức bán hàng đặc biệt. Trong quan hệ đấu
giá hàng hóa, người có hàng hóa có thể tự mình tổ chức bán đấu giá hoặc thuê thương nhân
kinh doanh dịch vụ đấu giá tổ chức việc đấu giá hàng hóa. Bên bán là chủ sở hữu hàng hóa
hoặc được người chủ sở hữu ủy quyền, hoặc người có trách nhiệm, lợi ích liên quan đến đấu
giá hàng hóa. Bên mua tài sản là những tổ chức cá nhân có nhu cầu mua hàng hóa và đáp
Bài Tập Lớn Học Kỳ

1

Môn: Luật Thương Mại


Trường Đại Học Luật Hà Nội

MSSV: KT33B005

ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật để tham gia trả giá. Người làm dịch vụ bán
đấu giá là những tổ chức được người bán hàng hóa ủy quyền tiến hành việc bán đấu giá. Vì
vậy, quan hệ bán đấu giá có thể diễn ra giữa các chủ thể sau:
- Người có hàng hóa (chủ sở hữu của hàng hóa) và người mua.
- Người có hàng hóa và người bán hàng hóa (được chủ sở hữu hàng hóa ủy quyền
bán hàng hóa hoặc có quyền bán theo quy định của pháp luật).
- Người có hàng hóa, người bán đấu giá (thương nhân kinh doanh dịch vụ đấu giá
hàng hóa) và người mua hàng hóa (người tham gia đấu giá).

Thứ hai, đối tượng của bán đấu giá hàng hóa là những hàng hóa được phép lưu thông
trong thương mại. Thông thường, những hàng hóa có đặc thù về việc xác định giá thị trường
(thường khó xác định giá trị) cũng như giá trị sử dụng sẽ được người bán cân nhắc để bán
theo phương thức đấu giá. Bằng phương thức đấu giá, người bán chỉ đưa ra một mức giá cơ
sở để người mua tham khảo (giá khởi điểm), còn giá mua bán thực tế sẽ do những người
tham dự cuộc bán đấu giá xác định trên cơ sở cạnh tranh.
Thứ ba, hình thức pháp lý của quan hệ bán đấu giá có thể được thiết lập dưới một
dạng đặc biệt là hợp đồng ủy quyền bán đấu giá và hợp đồng bán đấu giá hàng hóa. Hợp
đồng ủy quyền bán đấu giá hàng hóa được xác lập giữa người bán hàng và người làm dịch
vụ bán đấu giá. Nó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ ủy quyền bán
đấu giá hàng hóa. Còn hợp đồng đấu giá hàng hóa thực chất là hợp đồng mua bán hàng hóa
được xác lập trong quan hệ giữa người bán hàng hóa - người mua hàng và tổ chức bán đấu
giá. Văn bản này là cơ sở pháp lý để xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ
mua bán hàng hóa, đồng thời là căn cứ để xác lập quyền sở hữu của người mua hàng đối với
hàng hóa bán đấu giá.
Bán đấu giá hàng hóa là hoạt động dịch vụ nếu tổ chức bán đấu giá là tổ chức kinh
doanh chuyên nghiệp dịch vụ bán đấu giá. Qua đó chúng ta có thể hiểu bán đấu giá là một
hành vi thương mại, hàng hóa bán đấu giá được bán thường là do ý chí của chủ sở hữu.
3. Chủ thể tham gia vào quan hệ đấu giá hàng hóa
3.1. Người bán hàng hóa
Người bán hàng hóa là chủ sở hữu hàng hóa, người được chủ sở hữu hàng hóa ủy
quyền bán hoặc người có quyền bán hàng hóa của người khác theo quy định của pháp luật
(khoản 2 Điều 186 LTM 2005).
Như vậy, người bán hàng ở đây được phân biệt với người tổ chức đấu giá hàng hóa.
Người bán hàng có thể chính là chủ sở hữu hàng hóa đứng ra ký hợp đồng dịch vụ tổ chức bán
đấu giá hàng hóa với người tổ chức bán đấu giá hàng hóa hoặc người bán hàng có thể là một
trung gian, làm công việc cầu nối giữa người có hàng hóa (chủ sở hữu của hàng hóa) và người
tổ chức bán đấu giá hàng hóa. Trong trường hợp là một bên trung gian, người bán hàng hóa có
thể đóng vai trò thay mặt người có hàng hóa thiết lập các quan hệ với người tổ chức đấu giá
hàng hóa, vì quyền lợi của người có hàng, theo sự ủy quyền của người có hàng hóa. Mặt khác,

Bài Tập Lớn Học Kỳ

2

Môn: Luật Thương Mại


Trường Đại Học Luật Hà Nội

MSSV: KT33B005

người bán hàng hóa cũng có thể là người không có quan hệ trực tiếp, không nhận được sự
đồng thuận của người có hàng hóa nhưng lại có quyền bán hàng hóa. Quyền này có thể phát
sinh từ những quan hệ pháp lý, những thỏa thuận trước đó giữa người có quyền bán hàng hóa
và chủ sở hữu hàng hóa hoặc có thể phát sinh theo quy định của pháp luật.
Trong quan hệ đấu giá tài sản, người bán hàng hóa với tư cách độc lập với người tổ
chức bán đấu giá, có các quyền sau đây (Điều 191 LTM)
- Nhận tiền hàng đã bán đấu giá và khoản chênh lệch thu được trong trường hợp quy
định tại khoản 3 Điều 204 của Luật này hoặc nhận lại hàng hoá trong trường hợp đấu giá
không thành;
- Giám sát việc tổ chức bán đấu giá hàng hoá.
Nghĩa vụ của người bán hàng không phải là người tổ chức đấu giá (Điều 192 LTM
- Giao hàng hoá cho người tổ chức đấu giá, tạo điều kiện để người tổ chức đấu giá,
người tham gia đấu giá xem xét hàng hoá và cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời các thông
tin cần thiết liên quan đến hàng hoá đấu giá;
- Trả thù lao dịch vụ tổ chức đấu giá theo quy định tại Điều 211 của Luật này.
Về nguyên tắc, người bán hàng hóa và người tổ chức bán đấu giá phải thỏa thuận về
thù lao dịch vụ đấu giá hàng hóa. Tuy nhiên nếu không có thỏa thuận thì:
Thứ nhất, trong trường hợp cuộc đấu giá thành công, thù lao dịch vụ đấu giá được
xác định theo giá của loại dịch vụ đó trong các điều kiện tương tự về phương thực cung ứng,

thời điểm cung ứng, thị trường địa lý, phương thức thanh toán và các điều kiện khác có ảnh
hưởng đến giá dịch vụ.
Thứ hai, trong trường hợp bán đấu giá tài sản không thành thì người có tài sản bán
đấu giá tài sản thanh toán cho tổ chức bán đấu giá tài sản các chi phí thực tế, hợp lý.
Ngoài ra, trong trường hợp giữa người bán hàng hóa và người tổ chức bán đấu giá
hàng hóa không có thỏa thuận về chi phí liên quan đến cuộc bán đấu giá thì người bán
hàng phải chịu chi phí vận chuyển hàng hóa đến địa điểm đã thỏa thuận và chi phí bảo
quản hàng hóa trong trường hợp không giao hàng hóa cho người tổ chức đấu giá bảo quản
(khoản 1 Điều 212 LTM 2005).
3.2. Người tổ chức bán đấu giá hàng hóa và người điều hành bán đấu giá
Theo khoản 1 Điều 186 LTM 2005: “Người tổ chức đấu giá là thương nhân có đăng
ký kinh doanh dịch vụ đấu giá hoặc là người bán hàng của mình trong trường hợp người
bán hàng tự tổ chức đấu giá”.
Xét về bản chất, người tổ chức bán đấu giá là người tiến hành các công việc cụ thể
của một cuộc bán đấu giá hàng hóa. Trong trường hợp người bán hàng không tự mình tổ
chức bán đấu giá hàng hóa mà thuê một tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp tiến hành bán
đấu giá thì giữa hai người này phải hình thành một hợp đồng dịch vụ tổ chức bán đấu giá
trước khi các công việc liên quan đến bán đấu giá hàng hóa được hình thành.

Bài Tập Lớn Học Kỳ

3

Môn: Luật Thương Mại


Trường Đại Học Luật Hà Nội

MSSV: KT33B005


Người tổ chức bán đấu giá hàng hóa trong trường hợp không phải là người bán hàng
hóa có những quyền sau đây:(Điều 189 LTM)
- Yêu cầu người bán hàng cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời các thông tin cần thiết
liên quan đến hàng hoá đấu giá, tạo điều kiện cho người tổ chức đấu giá hoặc người tham gia
đấu giá kiểm tra hàng hoá đấu giá và giao hàng hoá được bán đấu giá cho người mua hàng
trong trường hợp người tổ chức đấu giá không phải là người bán hàng đấu giá;
- Xác định giá khởi điểm trong trường hợp người tổ chức đấu giá là người bán hàng
đấu giá hoặc được người bán hàng uỷ quyền;
- Tổ chức cuộc đấu giá;
- Yêu cầu người mua hàng thực hiện việc thanh toán;
- Nhận thù lao dịch vụ đấu giá do người bán hàng trả theo quy định tại Điều 211 của
Luật này.
Nghĩa vụ của người tổ chức đấu giá (Điều 190 LTM)
- Tổ chức đấu giá hàng hoá theo đúng nguyên tắc, thủ tục do pháp luật quy định và
theo phương thức đấu giá thoả thuận với người bán hàng.
- Thông báo, niêm yết công khai, đầy đủ, chính xác các thông tin cần thiết có liên
quan đến hàng hoá đấu giá.
- Bảo quản hàng hoá đấu giá khi được người bán hàng giao giữ.
- Trưng bày hàng hoá, mẫu hàng hóa hoặc tài liệu giới thiệu về hàng hóa cho người
tham gia đấu giá xem xét.
- Lập văn bản bán đấu giá hàng hoá và gửi đến người bán hàng, người mua hàng và
các bên có liên quan quy định tại Điều 203 của Luật này.
- Giao hàng hóa đấu giá cho người mua phù hợp với hợp đồng tổ chức dịch vụ đấu
giá hàng hoá.
- Làm thủ tục chuyển quyền sở hữu đối với hàng hoá bán đấu giá phải đăng ký quyền
sở hữu theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với người bán hàng.
- Thanh toán cho người bán hàng tiền hàng đã bán, kể cả khoản tiền chênh lệch thu
được từ người rút lại giá đã trả quy định tại khoản 3 Điều 204 của Luật này hoặc trả lại hàng
hoá không bán được cho người bán hàng theo thoả thuận. Trường hợp không có thoả thuận
thì phải thanh toán tiền cho người bán hàng chậm nhất là ba ngày làm việc sau khi nhận

được tiền của người mua hàng hoặc phải trả lại ngay hàng hoá trong thời hạn hợp lý sau cuộc
đấu giá.
Ngoài ra, trong trường hợp giữa người bán hàng hóa và người tổ chức bán đấu giá
hàng hóa không có thỏa thuận về chi phí liên quan đến cuộc đấu giá thì người tổ chức đấu
giá chịu chi phí bảo quản hàng hóa được giao, chi phí niêm yết, thông báo, tổ chức bán đấu
giá và các chi phí có liên quan khác (khoản 2 Điều 212 LTM 2005).
“Người điều hành đấu giá là người tổ chức đấu giá hoặc người được người tổ chức
đấu giá uỷ quyền điều hành bán đấu giá”. (khoản 2 Điều 187 LTM 2005)
Bài Tập Lớn Học Kỳ

4

Môn: Luật Thương Mại


Trường Đại Học Luật Hà Nội

MSSV: KT33B005

Người điều hành chính là người xuất hiện chủ yếu và điều khiển các phiên bán đấu
giá theo một trình tự được pháp luật quy định với những điều kiện bán hàng do người bán
hàng đưa ra.
Người điều hành đấu giá có các quyền và nghĩa vụ theo (hoặc là) quy định của người
tổ chức bán đấu giá hàng hóa trong trường hợp người điều hành là người của tổ chức bán
đấu giá hàng hóa; hoặc là theo thỏa thuận giữa người điều hành và người tổ chức bán đấu giá
hàng hóa trong các trường hợp khác.
3.3. Người mua hàng hóa
Theo khoản 1 Điều 187 LTM 2005: “Người tham gia đấu giá hàng hoá là tổ chức,
cá nhân đăng ký tham gia cuộc đấu giá”.
Về đối tượng đăng ký mua hàng hóa, trên nguyên tắc nhà nước khuyến khích sự cạnh

tranh rộng rãi có lợi cho người bán hàng trong hoạt động bán đấu giá. Tuy nhiên, để bảo vệ
tính trung thực và hợp pháp của cuộc bán đấu giá, pháp luật vẫn cầm một số trường hợp sau
không được quyền tham gia đấu giá tài sản:
- Người không có năng lực hành vi dân sự, người bị mất hoặc bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự hoặc người tại thời điểm đấu giá không nhận thức, làm chủ được hành vi của
mình.
- Người làm việc trong tổ chức bán đấu giá tài sản, nơi thực hiện việc bán đấu giá tài
sản đó, cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột của người đó; người trực tiếp giám định,
định giá tài sản, cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột của người đó.
- Người được chủ sở hữu ủy quyền bán tài sản; người ra quyết định tịch thu tài sản là
tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; người có thẩm quyền quyết định bán tài sản nhà
nước; người ký hợp đồng thuê tổ chức bán đấu giá tài sản để bán đấu giá tài sản nhà nước; cá
nhân, tổ chức có quyền bán tài sản của người khác theo quy định của pháp luật.
- Người không có quyền mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật, bao
gồm: Người không được tham gia mua tài sản để thi hành án theo quy định của pháp luật về
thi hành án dân sự; Người không đủ điều kiện tham gia mua tài sản đối với một số loại tài
sản theo quy định của pháp luật về loại tài sản đó.
- Người không được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất; người không thuộc
trường hợp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất theo quy định của
pháp luật về đất đai.
Người mua hàng hóa có quyền theo quy định của pháp luật nhưng chủ yếu tập trung
vào một số vấn đề chính như:
+ Tham gia trả giá.
+ Được quyền mua hàng hóa nếu đạt được điều kiện trong cuộc bán đấu giá.
+ Được quyền trả lại hàng hóa trong trường hợp hàng hóa không đúng với niêm yết,
thông báo.
+ Được quyền nhận lại tiền đặt cọc trong trường hợp không mua được hàng hóa.
Bài Tập Lớn Học Kỳ

5


Môn: Luật Thương Mại


Trường Đại Học Luật Hà Nội

MSSV: KT33B005

+ Được quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với những sai sót về thông tin về hàng
hóa của người tổ chức bán đấu giá.
Nghĩa vụ của người mua hàng hóa
+ Đặt cọc để đăng ký mua hàng theo yêu cầu của người tổ chức bán đấu giá.
+ Tham gia trả giá.
+ Chịu mọi chi phí liên quan đến cuộc bán đấu giá nếu đã được chọn là người mua
hàng mà lại từ chối mua hàng dẫn đến cuộc bán đấu giá không thành.
4. Các nguyên tắc của bán đấu giá hàng hóa
Nguyên tắc đấu giá hàng hóa là những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt quá trình thực
hiện đấu giá hàng hóa. Các nguyên tắc này được thể hiện trong các quy định của pháp luật về
đấu giá hàng hóa. Theo điều 188 LTM 2005: “Việc bán đấu giá hàng hóa trong thương mại
được thực hiện theo nguyên tắc công khai, trung thực, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của
các bên tham gia”.
4.1. Nguyên tắc công khai
Nguyên tắc công khai là nguyên tắc đảm bảo cho phiên đấu giá được diễn ra trôi
chảy, đảm bảo tính trung thực khách quan, từ đó bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia quan
hệ.
Đấu giá hàng hóa là hình thức công khai lựa chọn người mua hàng hóa nên mọi vấn
đề có liên quan đến cuộc bán đấu giá và những thông tin về hàng hóa bán đấu giá phải được
công khai cho tất cả những ai muốn biết dưới các hình thức như niêm yết, thông báo, trưng
bày, giới thiệu về tài sản…
Bán đấu giá một cách công khai thì người mua mới biết đến để xem hàng hóa, đánh

giá được chất lượng hàng hóa, biết được thông tin về hàng hóa. Và một điều quan trọng hơn:
công khai để hạn chế và giảm bớt những hành vi tiêu cực trong đấu giá hàng hóa. Tại phiên
đấu giá, người điều hành bán đấu giá phải công khai các mức giá được trả và họ tên người
mua trả giá cao nhất của mỗi lần trả giá… Pháp luật có quy định như vậy để tránh tình trạng
móc ngoặc giữa khách hàng mua hàng hóa bán đấu giá và người điều hành cuộc bán đấu giá.
4.2. Nguyên tắc trung thực
Đây là một nguyên tắc đặc thù quan trọng, cơ bản nhất trong bán đấu giá hàng hóa.
Nếu nguyên tắc trung thực không được đưa vào để thực hiện trong đấu giá hàng hóa thì sẽ
xảy ra tình trạng lừa đảo, mọc ngoặc hoặc thiên vị, quấy phá làm ảnh hưởng, phương hại đến
lợi ích của các chủ thể có liên quan.
Các thông báo về cuộc bán đấu giá và thông tin về hàng hóa, các giấy tờ có liên quan
đến hàng hóa đấu giá, những đặc điểm khuyết tật không nhìn thấy của hàng hóa (nhất là khi
hàng hóa là những tài sản có giá trị về lịch sử, nghệ thuật), các giấy tờ xác định tư cách người
tham gia đấu giá phải thật rõ ràng, chính xác và đầy đủ để không tạo ra sự nhầm lẫn hay lừa
dối đối với các bên mà sự lừa dối đó sẽ làm cho cuộc đấu giá bị vô hiệu. Người bán cần phải
trung thực khi xác định giá khởi điểm của hàng hóa. Không nên đưa ra mức giá khởi điểm
Bài Tập Lớn Học Kỳ

6

Môn: Luật Thương Mại


Trường Đại Học Luật Hà Nội

MSSV: KT33B005

quá cao so với giá trị thực tế của hàng hóa sẽ làm cho người mua bị thiệt. Người mua có
quyền trả lại hàng hóa cho tổ chức bán đấu giá và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu chất
lượng của hàng hóa không đúng như thông báo. Quy định tính trung thực cho mỗi cuộc bán

đấu giá cũng chính là nhằm bảo vệ quyền lợi cho các bên tham gia bán đấu giá, nhất là trong
các cuộc bán đấu giá hàng hóa lớn thì tính trung thực đóng vai trò thiết yếu.
Yêu cầu về tính trung thực còn thể hiện ở việc pháp luật quy định những người có
thân phận pháp lý hay hoàn cảnh đặc biệt mà sự tham dự của họ có ảnh hưởng đến sự trung
thực của cuộc bán đấu giá thì không được tham gia trả giá.
4.3. Nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia
Nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia được thể hiện khá
rõ qua việc pháp luật đưa ra những quy định về chủ thể ký kết hợp đồng ủy quyền bán đấu
giá hàng hóa. Quyền lợi của các bên tham gia quan hệ bán đấu giá hàng hóa còn được đảm
bảo thông qua việc pháp luật quy định cụ thể về tất cả các vấn đề như thời gian, địa điểm,
quyền hạn của các bên tham gia quan hệ đấu giá hàng hóa. Như vậy pháp luật về bán đấu giá
hàng hóa ở Việt Nam đã thể hiện rất rõ nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ thể tham gia quan hệ đấu giá hàng hóa.
Quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ đấu giá hàng hóa đều phải được
coi trọng và đảm bảo đầy đủ. Người bán hàng có quyền xác định giá khởi điểm của hàng
hóa, có quyền yêu cầu tổ chức bán đấu giá thanh toán đầy đủ tiền bán hàng ngay sau khi
cuộc đấu giá kết thúc, được bồi thường thiệt hại nếu tổ chức bán đấu giá hoặc bên mua hàng
hóa có hành vi xâm hại đến lợi ích của mình. Người mua hàng hóa có quyền xem xét hàng
hóa, yêu cầu cung cấp đầy đủ thông tin về hàng hóa, được tự đặt giá, được xác lập quyền sở
hữu đối với đối với hàng hóa sau khi hoàn thành văn bản đấu giá và họ đã thực hiện xong
nghĩa vụ thanh toán. Tổ chức bán đấu giá được thu của người bán hàng lệ phí và các khoản
chi phí cần thiết khác cho việc tổ chức bán đấu giá theo quy định của pháp luật.
II. Pháp luật về thủ tục đấu giá hàng hóa
Bán đấu giá đã có mặt ở Việt Nam từ khá lâu nhưng bán đấu giá hàng hóa với tính
chất là hành vi thương mại của thương nhân thì mới được ghi nhận trong pháp luật những
năm gần đây. Vì vậy, hoạt động bán đấu giá hàng hóa còn khá yếu ớt và các quy định pháp
luật điều chỉnh hoạt động này cũng còn sơ lược. Các văn bản pháp luật quy định về bán đấu
giá hiện nay bao gồm:
- Bộ luật dân sự 2005;
- Luật thương mại 2005;

- Nghị định số 17/2010/NĐ-CP của chính phủ ngày 4/3/2010 về bán đấu giá tài sản.
Bán đấu giá hàng hóa cũng được tiến hành theo trình tự thủ tục giống như bán tài sản
nói chung. Theo quy định của LTM 2005, thủ tục đó gồm các bước:
- Lập hợp đồng tổ chức đấu giá hàng hóa.
- Xác định giá khởi điểm.
Bài Tập Lớn Học Kỳ

7

Môn: Luật Thương Mại


Trường Đại Học Luật Hà Nội

MSSV: KT33B005

- Chuẩn bị bán đấu giá hàng hóa (thông báo về việc bán đấu giá, đăng ký tham gia
đấu giá, trưng bày hàng hóa đấu giá).
- Tiến hành đấu giá.
- Hoàn thành văn bản đấu giá.
- Đăng ký quyền sở hữu đối với hàng hóa đấu giá.
1. Lập hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hóa
Đấu giá hàng hóa có thể được thực hiện bởi chính chủ sở hữu hàng hóa hoặc thông
qua một người bán (không phải là tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp). Trong những trường
hợp này, các chủ thể tự tiến hành đấu giá hàng hóa và tự chịu trách nhiệm về công việc này.
Tuy nhiên, do tính chất khá phức tạp của việc tổ chức một cuộc bán đấu giá, hơn nữa, do tính
đặc thù của hàng hóa mà sự thành công hay thất bại của một cuộc bán đấu giá hàng hóa phụ
thuộc rất nhiều vào cách thức tổ chức bán đấu giá. Chính vì vậy, hầu hết các chủ sở hữu hàng
hóa, một khi đã lựa chọn đấu giá hàng hóa bằng phương thức đấu giá thì cũng lựa chọn cho
mình một người trung gian, thương nhân bán đấu giá chuyên nghiệp để tiến hành đấu giá.

Khi đó, việc lập hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hóa là thủ tục đầu tiên trong
trình tự bán đấu giá hàng hóa. Người bán đấu giá chỉ được quyền tiến hành bán đấu giá sau
khi có sự ủy quyền của người bán hàng hóa bằng một hợp đồng có hiệu lực pháp luật. Hợp
đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hóa được ký kết giữa người bán hàng và người bán đấu
giá, hợp đồng này phải được ký dưới hình thức văn bản (hoặc các hình thức khác có giá trị
pháp lý tương đương). Trong Điều 193 LTM 2005 quy định:
+ Trường hợp hàng hoá được đấu giá là đối tượng cầm cố, thế chấp thì hợp đồng dịch
vụ tổ chức đấu giá phải được sự đồng ý của bên nhận cầm cố, thế chấp và bên bán phải
thông báo cho các bên tham gia đấu giá về hàng hóa đang bị cầm cố, thế chấp.
+ Trường hợp trong hợp đồng cầm cố, thế chấp có thoả thuận về việc bán đấu giá mà
người cầm cố, thế chấp vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc từ chối giao kết hợp đồng
dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hoá thì hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá được giao kết giữa
người nhận cầm cố, thế chấp với người tổ chức đấu giá.
Nội dung của hợp đồng ủy quyền bán đấu giá hàng hóa như sau:
- Họ, tên, địa chỉ của người có tài sản bán đấu giá; tên, địa chỉ của người bán đấu giá
tài sản;
- Thời hạn, địa điểm bán đấu giá tài sản;
- Liệt kê, mô tả tài sản bán đấu giá;
- Giá khởi điểm của tài sản bán đấu giá;
- Thời hạn, địa điểm, phương thức giao tài sản để bán đấu giá;
- Việc thanh toán tiền bán tài sản trong trường hợp bán đấu giá thành;
- Các chi phí thực tế, hợp lý cho việc bán đấu giá tài sản;
- Quyền, nghĩa vụ của các bên;
Bài Tập Lớn Học Kỳ

8

Môn: Luật Thương Mại



Trường Đại Học Luật Hà Nội

MSSV: KT33B005

- Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
- Các thoả thuận khác.
Như vậy, việc lập hợp đồng ủy quyền đấu giá hàng hóa là bước đầu tiên trong thủ tục
bán đấu giá hàng hóa. Nhưng không phải ở trường hợp nào thì cũng nhất thiết có hợp đồng
ủy quyền bán đấu giá. Vì trong nhiều trường hợp người bán hàng không cần đến tổ chức bán
đấu giá mà các chủ thể này tự mình tiến hành bán đấu giá hàng hóa.
2. Xác định giá khởi điểm
Giá khởi điểm của tài sản bán đấu giá được xác định trước khi ký kết hợp đồng bán
đấu giá tài sản hoặc trước khi chuyển giao tài sản để bán đấu giá, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác.
Giá khởi điểm của hàng hóa do người bán xác định. Trong trường hợp người tổ chức
đấu giá được uỷ quyền xác định giá khởi điểm thì phải thông báo cho người bán hàng trước
khi niêm yết việc bán đấu giá.
Điều 194 LTM 2005 quy định:
“Trường hợp hàng hoá đấu giá là đối tượng cầm cố, thế chấp thì người nhận cầm
cố, thế chấp phải thoả thuận với người cầm cố, thế chấp xác định giá khởi điểm.
Trường hợp trong hợp đồng cầm cố, thế chấp có thoả thuận về việc bán đấu giá mà
người cầm cố, thế chấp vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc từ chối giao kết hợp đồng
dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hoá thì giá khởi điểm do người nhận cầm cố, thế chấp xác
định”.
Khoản 2 Điều 23 Nghị định 17/2010 quy định: Việc xác định giá khởi điểm của tài
sản bán đấu giá được thực hiện như sau:
- Đối với tài sản bán đấu giá để thi hành án, thì giá khởi điểm được xác định theo quy
định của pháp luật về thi hành án dân sự;
- Đối với tài sản bán đấu giá là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, thì giá khởi
điểm được xác định theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; trong trường

hợp không xác định được giá tài sản theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính thì thành lập hội đồng để xác định giá tài sản;
- Đối với tài sản là tang chứng, vật chứng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định bán đấu giá, thì giá khởi điểm được xác định theo quy định của pháp luật về hình
sự, tố tụng hình sự và pháp luật khác có liên quan;
- Đối với tài sản bán đấu giá là tài sản nhà nước, thì giá khởi điểm được xác định theo
quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước;
- Đối với tài sản là quyền sử dụng đất được bán đấu giá để giao đất có thu tiền sử
dụng đất hoặc cho thuê đất, thì giá khởi điểm được xác định theo quy định của pháp luật về
đất đai;

Bài Tập Lớn Học Kỳ

9

Môn: Luật Thương Mại


Trường Đại Học Luật Hà Nội

MSSV: KT33B005

- Đối với tài sản thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức có yêu cầu bán đấu giá, thì giá khởi
điểm do tổ chức, cá nhân tự xác định hoặc ủy quyền cho tổ chức, cá nhân khác.
Có thể nói, việc quy đinh mức giá khởi điểm là một bước rất quan trọng. Người bán
hàng hay tổ chức bán đấu giá phải xác định mức giá phù hợp với hiện trạng, giá trị thực tế
của hàng hóa bán đấu giá.
3. Chuẩn bị bán đấu giá hàng hóa
Sau khi hợp đồng dịch vụ tổ chức bán đấu giá hàng hóa được xác lập, các bên đã xác
định được giá khởi điểm, người bán hàng hóa hoặc tổ chức bán đấu giá hàng hóa phải tiến

hành mọi công việc chuẩn bị cần thiết để tổ chức cuộc bán đấu giá như:
* Niêm yết, thông báo công khai việc bán đấu giá.
Tổ chức bán đấu giá tài sản phải niêm yết việc bán đấu giá tài sản là động sản tại nơi
bán đấu giá, nơi trưng bày tài sản và nơi đặt trụ sở của tổ chức bán đấu giá tài sản chậm nhất
là bảy ngày trước khi tiến hành bán đấu giá, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Đối với bất động sản, tổ chức bán đấu giá tài sản phải niêm yết việc bán đấu giá tài
sản tại nơi bán đấu giá, nơi có bất động sản bán đấu giá và Ủy ban nhân dân xã, phường, thị
trấn nơi có bất động sản bán đấu giá chậm nhất là ba mươi ngày trước ngày mở cuộc bán đấu
giá, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Đối với tài sản thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức, thời hạn niêm yết việc bán đấu giá
tài sản có thể được rút ngắn theo thoả thuận của các bên.
Niêm yết, thông báo công khai về việc bán đấu giá tài sản có nội dung chủ yếu sau:
- Tên, địa chỉ của tổ chức bán đấu giá tài sản;
- Thời gian, địa điểm bán đấu giá tài sản;
- Danh mục tài sản, số lượng, chất lượng của tài sản bán đấu giá;
- Giá khởi điểm của tài sản bán đấu giá;
- Địa điểm, thời hạn trưng bày tài sản bán đấu giá;
- Địa điểm, thời hạn tham khảo hồ sơ tài sản bán đấu giá;
- Địa điểm, thời hạn đăng ký mua tài sản bán đấu giá;
- Những thông tin cần thiết khác liên quan đến tài sản bán đấu giá, gồm cả những
thông tin mà người có tài sản bán đấu giá yêu cầu thông báo công khai.
Niêm yết, thông báo công khai về cuộc đấu giá là một bước quan trọng và cần thiết
trong thủ tục bán đấu giá hàng hóa. Hình thức này giúp cho các thông tin về cuộc bán đấu
giá được phổ biến một cách nhanh chóng.
* Đăng ký mua đấu giá và đặt cọc.
Việc đăng ký mua là rất cần thiết để tổ chức bán đấu giá có thể nắm được số lượng
cũng như tư cách của những người sẽ tham gia đấu giá. Người tham gia đấu giá tài sản có
thể uỷ quyền bằng văn bản cho người khác thay mặt mình tham gia đấu giá.
Người tham gia đấu giá tài sản phải nộp phí tham gia đấu giá và khoản tiền đặt trước.
Phí tham gia đấu giá được thực hiện theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí.

Bài Tập Lớn Học Kỳ

10

Môn: Luật Thương Mại


Trường Đại Học Luật Hà Nội

MSSV: KT33B005

Khoản tiền đặt trước do tổ chức bán đấu giá tài sản và người có tài sản bán đấu giá
thỏa thuận quy định nhưng tối thiểu là 1% và tối đa không quá 15% giá khởi điểm của tài
sản bán đấu giá. Khoản tiền đặt trước được nộp cho tổ chức bán đấu giá tài sản.
Trong trường hợp người tham gia đấu giá tài sản đã nộp khoản tiền đặt trước mua
được tài sản bán đấu giá thì khoản tiền đặt trước được trừ vào giá mua; nếu không mua được
tài sản, thì khoản tiền đặt trước được trả lại cho người tham gia đấu giá tài sản sau khi cuộc
bán đấu giá kết thúc, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Trong trường hợp người
đăng ký tham gia đấu giá tài sản đã nộp khoản tiền đặt trước nhưng không tham gia cuộc bán
đấu giá mà không thuộc trường hợp bất khả kháng thì khoản tiền đặt trước đó thuộc về tổ
chức bán đấu giá tài sản, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
* Trưng bày, xem hàng hóa bán đấu giá.
Việc trưng bày, xem hàng hóa nhằm tạo điều kiện để người mua đấu giá có dịp tận
mắt xem hàng hóa và giúp họ yên tâm về chất lượng, mẫu mã của hàng hóa.
Pháp luật quy định về việc trưng bày, xem tài sản bán đấu giá như sau:
- Đối với tài sản bán đấu giá là bất động sản thì người tham gia đấu giá tài sản được
trực tiếp xem tài sản từ khi niêm yết và thông báo công khai cho đến trước ngày mở cuộc
bán đấu giá tài sản hai ngày.
- Đối với tài sản bán đấu giá là động sản thì ít nhất hai ngày trước ngày mở cuộc bán
đấu giá tài sản, người bán đấu giá tài sản phải tạo điều kiện cho người tham gia đấu giá được

xem tài sản bán đấu giá. Trên tài sản hoặc mẫu tài sản phải ghi rõ tên của người có tài sản
bán đấu giá và thông tin về tài sản đó.
- Người mua có quyền yêu cầu giám định hàng hóa nếu thấy vần thiết để biết rõ về
chất lượng hàng hóa. Trong trường hợp giám định theo yêu cầu thì người yêu cầu giám định
phải thanh toán chi phí giám định, nếu các bên không có thoả thuận khác. Trong trường hợp
giám định theo quy định của pháp luật, thì người có tài sản bán đấu giá phải thanh toán chi
phí giám định, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
* Tiến hành bán đấu giá
Cuộc bán đấu giá hàng hóa có thể tổ chức công khai tại trụ sở của tổ chức bán đấu giá
hoặc tại nơi có tài sản bán đấu giá sản hoặc tại một địa điểm khác theo thỏa thuận của tổ
chức bán đấu giá tài sản và người có tài sản bán đấu giá để người muốn mua đến tham dự và
trả giá. Địa điểm và thời gian tổ chức cuộc bán đấu giá phải được công bố rộng rãi, hoặc ít
nhất phải được thông báo đến những người đã đăng ký. Cuộc bán đấu giá chỉ được tiến hành
khi có số người tham gia trả giá tối thiểu đủ đảm bảo sự cạnh tranh về giá.
Cuộc bán đấu giá tài sản phải được tiến hành liên tục theo trình tự sau đây:
- Mở đầu cuộc bán đấu giá tài sản, đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu giá giới thiệu
bản thân, người giúp việc; thông báo nội quy của cuộc bán đấu giá tài sản; công bố danh
sách người đăng ký mua tài sản bán đấu giá và điểm danh để xác định người tham gia đấu
giá tài sản; giới thiệu từng tài sản bán đấu giá; nhắc lại giá khởi điểm; thông báo bước giá và
Bài Tập Lớn Học Kỳ

11

Môn: Luật Thương Mại


Trường Đại Học Luật Hà Nội

MSSV: KT33B005


khoảng thời gian tối đa giữa các lần trả giá (nếu có); trả lời các câu hỏi của người tham gia
đấu giá;
- Đấu giá viên yêu cầu người tham gia đấu giá tài sản trả giá. Sau mỗi lần người tham
gia đấu giá tài sản trả giá, đấu giá viên thông báo công khai về giá đã trả cho những người
tham gia đấu giá tài sản;
- Nếu sau ba lần đấu giá viên nhắc lại giá cao nhất đã trả mà không có người trả giá
cao hơn thì đấu giá viên công bố người mua được tài sản bán đấu giá. Sau khi đấu giá viên
công bố, người mua được tài sản bán đấu giá được coi là đã chấp nhận giao kết hợp đồng
mua bán tài sản bán đấu giá.
Trong trường hợp giá trả cao nhất được công bố thấp hơn so với giá khởi điểm thì
cuộc bán đấu giá tài sản coi như không thành.
Trường hợp đấu giá bằng bỏ phiếu, nếu có từ hai người trở lên cùng trả giá cao nhất,
thì đấu giá viên tổ chức đấu giá tiếp giữa những người cùng trả giá cao nhất để chọn ra người
mua được tài sản bán đấu giá. Nếu không có người trả giá cao hơn thì đấu giá viên tổ chức
bốc thăm để chọn ra người mua được tài sản bán đấu giá.
Diễn biến của cuộc bán đấu giá tài sản phải được ghi vào biên bản bán đấu giá tài sản.
Biên bản bán đấu giá tài sản phải có chữ ký của đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu giá tài
sản, người ghi biên bản, một người tham gia đấu giá và một người tham dự cuộc bán đấu giá
(nếu có).
Kết quả cuộc bán đấu giá tài sản được ghi vào Sổ đăng ký bán đấu giá tài sản. Trong
trường hợp bán đấu giá tài sản thành thì đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu giá tài sản lập
hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá.
Việc trả giá xem như là hành vi chấp nhận hợp đồng. Vì vậy, sau khi đã trả giá cao
nhất mà người mua rút lại mức giá đó thì coi như vi phạm hợp đồng và sẽ phải chịu những
hậu quả pháp lý phát sinh. Người rút lại giá đã trả bị truất quyền tham gia trả giá tiếp và
không được hoàn trả khoản tiền đặt trước. Khoản tiền đặt trước của người rút lại giá đã trả
thuộc về tổ chức bán đấu giá tài sản.
Tại cuộc bán đấu giá, khi đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu giá tài sản đã công bố
người mua được tài sản bán đấu giá mà người này từ chối mua thì tài sản được bán cho
người trả giá liền kề nếu giá liền kề đó cộng với khoản tiền đặt trước ít nhất bằng giá đã trả

của người từ chối mua.
Đối với cuộc đấu giá bằng hình thức bỏ phiếu, trong trường hợp từ chối mua nêu trên
mà có từ hai người trở lên cùng trả giá liền kề, nếu giá liền kề đó cộng với khoản tiền đặt
trước ít nhất bằng giá đã trả của người từ chối mua thì tài sản được bán cho một trong hai
người trả giá liền kề đó, sau khi đấu giá viên tổ chức bốc thăm để chọn ra người mua được
tài sản bán đấu giá. Trong trường hợp giá liền kề cộng với khoản tiền đặt trước nhỏ hơn giá
đã trả của người từ chối mua thì cuộc bán đấu giá coi như không thành. Nếu người trả giá
liền kề không đồng ý mua thì cuộc bán đấu giá coi như không thành.
Bài Tập Lớn Học Kỳ

12

Môn: Luật Thương Mại


Trường Đại Học Luật Hà Nội

MSSV: KT33B005

Trên đây là những trình tự thủ tục thiết yếu của một cuộc bán đấu giá, quyền lợi của
các bên tham gia đấu giá luôn luôn được bảo vệ và đảm bảo lợi ích của họ.
4. Hoàn thành hợp đồng mua bán tài sản đấu giá
Hợp đồng đấu giá hàng hóa là căn cứ xác nhận việc mua bán, có thể coi văn bản này
là hợp đồng mua bán hàng hóa giữa người bán hàng hóa, tổ chức bán đấu giá và người mua
hàng hóa bán đấu giá. Hợp đồng bán đấu giá không chỉ có giá trị xác nhận quan hệ mua bán
hàng hóa thông qua đấu giá mà còn là căn cứ pháp lý để chuyển quyền sở hữu đối với hàng
hóa bán đấu giá mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu.
Hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá được ký kết giữa tổ chức bán đấu giá tài sản và
người mua được tài sản bán đấu giá. Đối với những tài sản mà pháp luật quy định hợp đồng
mua bán phải có công chứng hoặc phải được đăng ký, thì hợp đồng mua bán tài sản bán đấu

giá phải phù hợp với quy định đó.
Hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá có các nội dung chính sau đây:
- Tên, địa chỉ của tổ chức bán đấu giá tài sản;
- Họ, tên của đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu giá tài sản;
- Họ, tên, địa chỉ của người có tài sản bán đấu giá;
- Họ tên, địa chỉ, số chứng minh nhân dân của người mua được tài sản bán đấu giá;
- Thời gian, địa điểm bán đấu giá tài sản;
- Tài sản bán đấu giá;
- Giá khởi điểm của tài sản bán đấu giá;
- Giá bán tài sản;
- Thời hạn, phương thức, địa điểm thanh toán tiền mua tài sản đã bán đấu giá;
- Thời hạn, địa điểm giao tài sản đã bán đấu giá cho người mua được tài sản bán đấu
giá phù hợp với hợp đồng bán đấu giá tài sản, trừ khi các bên liên quan có thỏa thuận khác;
- Trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ của các bên.
Hợp đồng đấu giá hàng hóa phải được gửi đến người bán hàng, người mua hàng và
các bên có liên quan.
Về thời hạn, địa điểm, phương thức thanh toán tiền mua hàng hóa, về nguyên tắc là
do tổ chức bán đấu giá và người mua hàng hóa thỏa thuận. Nếu không có thỏa thuận thì
người mua phải thanh toán đủ một lần toàn bộ số tiền mua hàng tại trụ sở kinh doanh của tổ
chức bán đấu giá ngay sau khi lập hợp đồng đấu giá (đối với những hàng hóa không phải
đăng ký quyền sở hữu) hoặc sau khi hoàn thành thủ tục chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho
người mua (đối với những hàng hóa phải đăng ký quyền sở hữu). Địa điểm giao hàng hóa
bán đấu giá là nơi có hàng hóa (đối với những hàng hóa gắn liền với đất đai) hoặc nơi bán
hàng hóa nếu hàng hóa là động sản. Để bảo vệ quyền lợi giữa các bên, pháp luật đã quy định
rất chặt chẽ về trách nhiệm khi vi phạm nghĩa vụ, có như vậy mới không tạo ra lỗ hổng để
mọi người vi phạm.

Bài Tập Lớn Học Kỳ

13


Môn: Luật Thương Mại


Trường Đại Học Luật Hà Nội

MSSV: KT33B005

Người bán hàng hóa, tổ chức bán đấu giá không chịu trách nhiệm về giá trị, chất
lượng của hàng hóa bán đấu giá, trừ khi những thông tin cần thiết liên quan đến hàng hóa
bán đấu giá đã không được thông báo và cung cấp đầy đủ cho người mua hoặc những thông
tin đó sai sự thật. Người mua có quyền trả lại hàng hóa cho tổ chức bán đấu giá và yêu cầu
bồi thường thiệt hại nếu chất lượng của hàng hóa không đúng như đã thông báo. Người bán
đấu giá (trong trường hợp không phải là người bán hàng hóa) có quyền trả lại hàng hóa cho
người bán hàng hóa và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu hàng hóa không phù hợp về nội
dung đã thông báo, niêm yết liên quan đến cuộc bán đấu giá không phải do lỗi của người bán
đấu giá (Điều 213 LTM 2005).
Việc quy định nôi dung hình thức chặt chẽ khi lập hợp đồng bán đấu giá hàng hóa có
vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi ích của các chủ thể tham gia đấu giá mà đặc
biệt là người mua hàng hóa. Và khi đã mua được hàng hóa, việc chuyển gia không phải lúc
nào cũng dễ dàng thuận lợi, nhất là với những hàng hóa là bất động sản, hàng hóa phải đăng
ký quyền sở hữu.
III. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đấu giá
hàng hóa
Việc Nghị định 17/2010 ra đời đã bước đầu được đánh giá là có nhiều điểm mới,
hoàn thiện hơn và trước mắt sẽ đáp ứng được nhu cầu của hoạt động bán đấu giá tài sản.
Về nâng cao tiêu chuẩn trở thành đấu giá viên: Nghị định 05/2005/NĐ-CP quy định
điều kiện được cấp thẻ đấu giá viên tương đối đơn giản. Nhằm nâng cao chất lượng và tính
chuyên nghiệp của đội ngũ đấu giá viên, Nghị định mới quy định chặt chẽ hơn về tiêu chuẩn
trở thành đấu giá viên (Điều 5). Theo đó, đấu giá viên phải là người đã tốt nghiệp đại học

ngành luật hoặc ngành kinh tế và đã qua khóa đào tạo nghề đấu giá theo quy định. So với
Nghị định 05, Nghị định mới còn bổ sung quy định về những trường hợp cấp hoặc không
được cấp chứng chỉ hành nghề đấu giá, cấp lại, thu hồi Chứng chỉ hành nghề đấu giá nhằm
quản lý chặt chẽ hơn hoạt động của đội ngũ đấu giá viên.
Về tổ chức bán đấu giá tài sản: Nghị định xác định rõ hơn các tổ chức bán đấu giá tài
sản chuyên nghiệp gồm có: Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản và doanh nghiệp bán đấu
giá tài sản. Ngoài các tổ chức bán đấu giá tài sản chuyên nghiệp, còn có 2 loại Hội đồng đó
là: Hội đồng bán đấu giá tài sản cấp huyện được thành lập để thực hiện bán tài sản là tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu và Hội đồng bán đấu giá tài sản trong trường hợp
đặc biệt được thành lập để bán đấu giá tài sản nhà nước, tài sản là quyền sử dụng đất có giá trị
lớn, phức tạp hoặc trong trường hợp không thuê được tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp thực
hiện việc bán đấu giá (Điều 14). Với quy định rõ ràng như trên sẽ góp phần khắc phục tình
trạng thành lập Hội đồng bán đấu giá tài sản một cách tràn lan ở các địa phương.
Về quy định tăng mức tiền đặt trước: Nghị định quy định, người tham gia đấu giá tài
sản phải nộp phí tham gia đấu giá và khoản tiền đặt trước. Theo quy định cũ, khoản tiền đặt
trước do tổ chức bán đấu giá và người có tài sản bán đấu giá thỏa thuận tối đa không quá 5%
Bài Tập Lớn Học Kỳ

14

Môn: Luật Thương Mại


Trường Đại Học Luật Hà Nội

MSSV: KT33B005

giá khởi điểm là quá thấp, nhiều trường hợp tiền đặt cọc quá nhỏ dẫn đến khách hàng trúng
đấu giá bỏ cuộc. Vì vậy, Nghị định mới đã nâng mức tiền đặt trước cao hơn: tối thiểu là 1%
và tối đa không quá 15% (Khoản 1 Điều 29) nhằm khắc phục tình trạng những người tham

gia đấu giá liên kết với nhau để dìm giá hoặc họ sẵn sàng chịu mất số tiền đặt trước trong
trường hợp từ chối mua tài sản với mục đích gây khó khăn cho người có quyền và lợi ích
liên quan hoặc vì mục đích vụ lợi.
Về hạn chế thông đồng trong đấu giá tài sản: Nghị định 05 quy định trong trường
hợp người điều hành cuộc bán đấu giá đã công bố người mua được tài sản bán đấu giá mà
người này từ chối mua thì tài sản được bán cho người trả giá liền kề nếu giá liền kề ít nhất
bằng giá khởi điểm. Nếu người liền kề không đồng ý mua hoặc giá liền kề thấp hơn giá khởi
điểm thì cuộc bán đấu giá không thành và khoản tiền đặt trước của người từ chối mua thuộc
về người có tài sản bán đấu giá. Tuy nhiên, quy định này đã bị lợi dụng trên thực tế, có tình
trạng khách hàng cố tình trả giá rất cao, khi được tuyên bố là người mua được tài sản rồi thì
lại từ chối mua để người liền kề mua được tài sản và hai bên chia nhau số tiền chênh lệch đó.
Ngoài ra, khả năng cuộc bán đấu giá không thành là rất cao vì người trả giá liền kề có thể
không đồng ý mua. Do đó, Nghị định mới đã sửa đổi theo hướng quy định chế tài nghiêm
khắc hơn đối với người từ chối mua và hạn chế sự thông đồng giữa một số người tham gia
đấu giá. Cụ thể, người từ chối mua tài sản không được hoàn trả khoản tiền đặt trước, khoản
tiền này thuộc về người có tài sản bán đấu giá. Đồng thời, tài sản chỉ được bán cho người trả
giá liền kề nếu giá liền kề đó cộng với khoản tiền đặt trước ít nhất bằng giá đã trả của người
từ chối mua (Điều 39). Quy định như trên sẽ góp phần bảo đảm quyền lợi của người có tài
sản, không làm giảm giá trị của tài sản bán đấu giá và bảo đảm cuộc bán đấu giá thành công.
Mặc dù vậy, hiện nay, hoạt động bán đấu giá hàng hóa ở nước ta cho thấy những khó
khăn, tắc trách, thường phát sinh những thiếu sót và những sơ hở trong hệ thống pháp luật.
Trong hoạt động bán đấu giá vẫn còn nhiều nhiều vấn đề quan trọng nhưng chưa được điều
chỉnh kịp thời. Chẳng hạn, pháp luật về đấu giá hàng hóa còn chưa có những chế tài nghiêm
khắc áp dụng đối với các cơ quan tổ chức, các nhân trong khi tham gia quan hệ đấu giá hàng
hóa vi phạm pháp luật.
Ở nước ta, phần lớn hàng hóa được đem bán đấu giá là hàng hóa phải xử lý để thi
hành án, hàng hóa là tài sản để cầm cố, thế chấp. Tỉ lệ hàng hóa do tổ chức, cá nhân tự đem
ra bán đấu giá rất ít. Sở dĩ như vậy là bởi trình tự thủ tục bán đấu giá hàng hóa ở nước ta còn
rất rờm rà, phức tạp, chưa thực sự đảm bảo quyền lợi cho người bán hàng cũng như người
mua hàng.

Trên cơ sở này, tôi xin đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của
pháp luật trong hoạt động bán đấu giá hàng hóa như sau:
Thứ nhất, về thủ tục bán đấu giá hàng hóa cần có những sửa đổi bổ sung về thủ tục ký
hợp đồng ủy quyền đấu giá hang hóa để việc ký kết thuận lợi nhằm đảm bảo lợi ích của
người có quyền.
Bài Tập Lớn Học Kỳ

15

Môn: Luật Thương Mại


Trường Đại Học Luật Hà Nội

MSSV: KT33B005

Thứ hai, cần quy đinh cụ thể hơn về cách tính các loại thời hạn trong đấu giá hang
hóa để khắc phục những vướng mắc có lien quan trong thực tế.
Thứ ba, pháp luật về bán đấu giá hàng hóa cần được sửa đổi, hoàn thiện trên nguyên
tắc bán đấu giá phải được quy định chặt chẽ hơn để thực sự đảm bảo cho hoạt động bán đấu
giá hàng hóa được thực hiện một cách có hiệu quả. Cần quy định thêm nguyên tắc trực tiếp
để đảm bảo cho cuộc đấu giá được diễn ra nhanh chóng, khách quan nhằm tạo sự cạnh tranh
trực tiếp trong việc trả giá mua hàng hóa tước sự chứng kiến của người bán hàng hóa và tất
cả những người muốn mua hàng hóa.
KẾT LUẬN
Trong thời gian qua, hoạt động bán đấu giá và pháp luật về bán đấu giá hàng hóa đã
có những đóng góp quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của nước ta. Để ngày càng
phát huy những vai trò tích cực, pháp luật về bán đấu giá tài sản đã không ngừng khẳng định
và hoàn thiện hơn. Thiết nghĩ, các cơ quan có thẩm quyền nên xem xét, khắc phục những bất
cập, vướng mắc trong công tác bán đấu giá tài sản nhằm thực hiện tốt hơn công tác bán đấu

giá tài sản và từng bước hoàn thiện cơ chế bán đấu giá tài sản trong thời gian tới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại Học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại (tập 2), Nguyễn Viết
Tý (chủ biên), Nxb,CAND, Hà Nội 2006.
2. Luật thương mại 2005.
3. Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/1/2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài
sản.
4. Nghị định số 17/2010/NĐ-CP của chính phủ ngày 4/3/2010 về bán đấu giá tài
sản.
5. Tìm hiểu pháp luật về đấu giá hàng hóa ở Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp –
Phạm Dương Minh Thu, 2006.
6.

/>
Bài Tập Lớn Học Kỳ

16

Môn: Luật Thương Mại



×