Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.22 KB, 24 trang )

A- MỞ ĐẦU
Trong tố tụng hình sự,hoạt động xét xử của Tòa án bao giờ cũng được
coi là giai đoạn trọng tâm, quan trọng nhất. Vì thế các bản án, quyết định của
Tòa án dù đã có hiệu lực hay chưa có hiệu lực pháp luật thì tính đúng pháp
luật, tính nghiêm minh và kịp thời vẫn là yếu tố quan trọng nhất bảo đảm hiệu
quả của cả quá trình tố tụng nói chung và của giai đoạn xét xử nói riêng.
Xét xử phúc thẩm trong vụ án hình sự là một thủ tục tố tụng do pháp luật
quy định nhằm kiểm tra tính hợp pháp của bản án hoặc quyết định sơ thẩm;
thông qua việc xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm sẽ kiểm tra tính hợp
pháp và tính có căn cứ của bản án,của quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo,kháng nghị và trong quá trình xét xử lại vụ án có khả
năng phát hiện những sai lầm, thiếu sót trong việc xét xử sơ thẩm và khắc
phục, sửa chữa những sai lầm, thiếu sót đó một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Nhận thức được tầm quan trọng đó của Tòa án trong quá trình xét xử phúc
thẩm,em xin chọn đề tài: “Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm”.

1


B-NỘI DUNG
I. Khái quát về xét xử phúc thẩm.
1. Tính chất của xét xử phúc thẩm.
Để làm rõ thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm, cần nhận thức đúng đắn
về tính chất của phúc thẩm bởi chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Điều
230 Bộ luật tố tụng hình sự quy định “ phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực
tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ
thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hay kháng
nghị”. Theo quy định này việc xét xử phúc thẩm phát sinh khi có kháng cáo
hoặc kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật. Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại những bản án hoặc quyết định sơ thẩm
bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do luật định và có thể xem xét lại một


phần hoặc toàn bộ bản án tùy theo kháng cáo kháng nghị đó. Đồng thời Tòa án

2


cấp phúc thẩm chỉ xem xét những gì Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét và quyết
định.
Tính chất của phúc thẩm còn thể hiện qua nhiệm vụ của Tòa án cấp này
là kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án sơ thẩm đồng thời xét lại
về nội dung vụ án. Thực hiện nhiệm vụ này thì chỉ có Tòa án cấp trên trực tiếp
của Tòa án đã xử sơ thẩm mới có quyền xét lại bản án, quyết định sơ thẩm.
Việc xét xử phúc thẩm không thể do Tòa án cùng cấp với Tòa án được xử sơ
thẩm thực hiện vì không có đủ khả năng phát hiện cũng như không thể tự phủ
nhận quyết định của chính mình và sửa chữa sai sót của bản án sơ thẩm, cũng
không thể do Tòa án cấp trên nhưng không trực tiếp của Tòa án đã xét xử sơ
thẩm xét lại vì xét xử phúc thẩm phải phù hợp với cách thức tổ chức Tòa án
theo địa giới hành chính, lãnh thổ Nhà nước ta.
2. Thẩm quyền của tòa án cấp phúc thẩm.
Tòa án có quyền quyết định các vấn đề cụ thể của vụ án sau khi đã xem
xét toàn bộ vụ án. Theo những phân tích ở trên, thẩm quyền của tòa án cấp

3


phúc thẩm là toàn bộ các quyền hạn mà pháp luật dành cho tòa án cấp phúc
thẩm trong việc xem xét và quyết định các vấn đề cụ thể về các vụ án hình sự
đã được các tòa án cấp dưới trực tiếp xét xử sơ thẩm, nhưng bản án, quyết định
sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật do bị kháng cáo, kháng nghị. Trong đó,
thẩm quyền về hình thức của tòa án cấp phúc thẩm được thể hiện ở thẩm quyền
xét xử phúc thẩm và phạm vi xét xử phúc thẩm. Còn thẩm quyền về nội dung

của tòa án cấp phúc thẩm được thể hiện ở quyền quyết định của tòa án cấp
phúc thẩm.
Như vậy thẩm quyền của tòa án cấp phúc thẩm gồm thẩm quyền xét xử
phúc thẩm, phạm vi xét xử phúc thẩm và thẩm quyền quyết định của tòa án cấp
phúc thẩm.
II. Thẩm quyền của Toàn án cấp phúc thẩm.
1. Thẩm quyền và phạm vi xét xử phúc thẩm của Tòa án.
a) Về thẩm quyền xét xử:

4


Về thẩm quyền xét xử phúc thẩm, theo Điều 20, Điều 28 Luật tổ chức tòa
án nhân dân năm 2002, Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự năm 2002, Bộ luật Tố
tụng Hình sự năm 2003 thì thẩm quyền xét xử phúc thẩm được quy định cho
những tòa án sau:
+ Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền
xét xử phúc thẩm các vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật của tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh bị
kháng cáo, kháng nghị. Về hình sự, thẩm quyền xét xử phúc thẩm được giao
cho tòa chuyên trách hình sự của tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương.
+ Tòa án cấp quân khu có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các vụ án mà
bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của tòa án quân sự khu
vực bị kháng cáo, kháng nghị.
+ Các tòa phúc thẩm TANDTC có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các vụ
án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của tòa án nhân

5



dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bị kháng cáo, kháng nghị. Hiện nay,
ở nước ta có ba tòa phúc thẩm thuộc tòa án nhân dân tối cáo đặt trụ sở tại Hà
Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh.
+ Tòa án quân sự trung ương có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các vụ án,
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của tòa án quân sự cấp quân khu
bị kháng cáo, kháng nghị.
b) Về phạm vi xét xử cấp phúc thẩm.
Có thể hiểu đây là giới hạn mà pháp luật cho phép Tòa án cấp phúc thẩm
được xem xét và quyết định khi xử phúc thẩm.Theo thông tư số 19/TATC ngày
2/10/1974 của TANDTC cho phép Tòa án xem xét trong nội dung kháng cáo,
kháng nghị.Tuy nhiên trong trường hợp có đồng phạm nếu như khi giảm nhẹ
hình phạt cho các bị cáo có kháng cáo, hoặc bị kháng nghị mà thấy có thể giảm
nhẹ hình phạt cho các đối tượng không nằm trong diện kháng cáo, kháng nghị
thì Tòa án cấp phúc thẩm vẫn xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo đó. Kế thừa và
phát triển các quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm, điều 241BLTTHS quy

6


định “Tòa án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng nghị,kháng cáo.Nếu xét
thấy cần thiết thì Tòa cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần không bị kháng
cáo, kháng nghị của bản án”.
Việc xem xét này được hiểu là quyền và nghĩa vụ của Tòa án cấp phúc
thẩm. Còn các phần khác của bản án không bị kháng cáo,kháng nghị Tòa án
cấp phúc thẩm có thể xem xét khi thấy cần thiết. Đây là quyền chủ quan của
Tòa án cấp phúc thẩm. Vì cơ sở pháp lý làm phát sinh việc xét xử phúc thẩm
không phải là nội dung của kháng cáo, kháng nghị mà là việc kháng cáo, kháng
nghị hợp lệ của các chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị, nên quyền hạn
của Tòa án cấp phúc thẩm không bị hạn chế bởi nội dung của kháng cáo, kháng

nghị mà có quyền xem xét toàn bộ bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị.
Khi xem xét nội dung của kháng cáo, kháng nghị Tòa án cấp phúc thẩm có
quyền chấp nhận như nội dung của kháng cáo, kháng nghị và cũng có thể xử
trái ngược với nội dung của kháng cáo, kháng nghị. Đó là trường hợp Viện
kiểm soát kháng nghị, người bị hại kháng cáo yêu cầu theo hướng tăng nặng

7


nhưng có căn cứ thì Tòa án cấp phúc thẩm vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng
điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn và giảm mức bồi thường thiệt hại.
Đối với các phần khác của bản án không bị kháng cáo, kháng nghị thì Tòa án
cấp phúc thẩm chỉ xem xét khi không làm xấu tình trạng của bị cáo và không
gây bất lợi cho những người tham gia tố tụng.
Với nhiệm vụ kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án sơ thẩm,
Tòa án cấp phúc thẩm phát hiện và khắc phục những sai sót của Tòa án cấp
dưới. Đó là những sai sót trong trường hợp sau:
1. Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
2. Điều tra không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được.
3. Áp dụng không đúng Bộ luật Hình sự.
4. Xử lý vật chứng, quyết định bồi thường thiệt hại, tính án phí không đúng.
2. Thẩm quyền quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm.
Thẩm quyền quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm thể hiện ở việc khi xét
lại bản án hoặc quyết định sơ thẩm, Tòa án có quyền quyết định các vấn đề cụ

8


thể của vụ án sau khi đã xem xét toàn bộ vụ án. Thẩm quyền quyết định của
Tòa án cấp phúc thẩm được quy định tại khoản 2 điều 248 Bộ luật TTHS 2003,

theo đó, tòa án cấp phúc thẩm có quyền quyết định:
“a) Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
b) Sửa bản án sơ thẩm.
c) Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra hoặc xét xử lại.
d) Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.”
a. Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án
sơ thẩm.
BLTTHS năm 2003 hiện nay không quy định cụ thể trường hợp nào thì
Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhân kháng cáo, kháng nghị, giữ nguyên bản
án sơ thẩm. Trên thực tế, các trường hợp tòa án cấp phúc thẩm không chấp
nhận kháng cáo, kháng nghị cũng không được xác định lý do cụ thể. Tuy nhiên,
theo những quy định của bộ luật tố tụng hình sự hiện nay, việc tòa án cấp phúc

9


thẩm không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị được chia làm hai trường hợp
chính đó là không chấp nhận về hình thức và không chấp nhận về nội dung.
Thứ nhất, kháng cáo, kháng nghị không được chấp nhận về mặt hình
thức thường là kháng cáo, kháng nghị không đúng thẩm quyền, thủ tục, thời
hạn do luật quy định. Trong thực tế, trường hợp này thường xảy ra đối với
kháng cáo, vì Viện kiểm sát kháng nghị sai thẩm quyền hoặc quá thời hạn là rất
ít xảy ra.
Thứ hai, kháng cáo, kháng nghị không được chấp nhận về mặt nội dung
khi các yêu cầu trong kháng cáo, kháng nghị không có căn cứ pháp luật. Tòa án
cấp sơ thẩm đã xét xử chính xác, khách quan không có lý do gì để làm thay đổi
bản án hoặc quyết định của tòa án.
Theo nguyên tắc thì tòa án cấp phúc thẩm khi đã không chấp nhận kháng
cáo, kháng nghị thì phải giữ nguyên bản án. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có
trường hợp tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị

nhưng không ra quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm vì có lý do sửa hay hủy

10


bản án này. Ví dụ, trong một vụ án đồng phạm, hội đồng xét xử bác kháng nghị
tăng nặng hình phạt đối với bị cáo A (tức là A vẫn được giữ nguyên hình phạt
như trong bản án của tòa sơ thẩm) nhưng lại giảm hình phạt đối với bị cáo B
không có kháng cáo. Theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 248 thì tòa án
cấp phúc thẩm khi không chấp nhận kháng cáo kháng nghị thì phải quyết định
giữ nguyên bản án, nhưng theo quy định về phạm vi xét xử của tòa án cấp phúc
thẩm tại Điều 241 – BLTTHS thì tòa án cấp phúc thẩm có thể được xem xét
các phần khác không được kháng cáo kháng nghị của bản án. Vì thế, theo em,
Tòa án cấp phúc thẩm vẫn có quyền không chấp nhận kháng nghị, kháng cáo
đồng thời vẫn có thể quyết định sửa bản án, hủy bản án để điều tra lại hoặc hủy
bản án và đình chỉ vụ án đối với những phần khác của bản án không bị kháng
nghị, kháng cáo nếu có căn cứ pháp luật.
b. Sửa bản án sơ thẩm.
Sửa bản án sơ thẩm là việc tòa án cấp phúc thẩm làm thay đổi nội dung của bản
án sơ thẩm trong những trường hợp luật định. Theo quy định tại Điều 249 –

11


BLTTHS năm 2003 thì tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm theo
hướng có lợi hoặc không có lợi cho bị cáo.
-Sửa bản án có lợi cho bị cáo
Theo Khoản 1, 2 của Điều 249 BLTTHS năm 2003 thì khi sửa bản án theo
hướng có lợi cho bị cáo, tòa án cấp phúc thẩm không bị phụ thuộc vào nội
dung của kháng nghị, kháng cáo. Tòa án có quyền sửa bản án theo hướng có lợi

cho bị cáo ngay cả khi kháng cáo, kháng nghị có yêu cầu tăng nặng hình phạt
đối với bị cáo nhưng có căn cứ giảm hình phạt, thậm chí có thể miễn hình phạt
theo căn cứ tại điều 25 BLHS năm 1999. Đối với bị cáo không kháng cáo hoặc
không bị kháng cáo, kháng nghị, nếu có căn cứ, tòa án cấp phúc thẩm vẫn có
thể sửa bản án theo hướng giảm nhẹ hình phạt hoặc mức bồi thường thiệt hại
cho bị cáo.
Tuy nhiên, khi tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án theo hướng có lợi cho bị
cáo thì không được làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của những
người tham gia tố tụng khác như người bị hại, nguyên đơn dân sự.

12


-Sửa bản án theo hướng không có lợi cho bị cáo.
Tại khoản 3 Điều 249 – BLTTHS quy định: “Trong trường hợp VKS
kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm có thể
tăng hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật Hình sự về tội nặng hơn, tăng mức
bồi thường thiệt hại…Tòa án vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều khoản
Bộ luật Hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ
hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức bồi thường
thiệt hại”. Theo đó, tòa án cấp phúc thẩm có quyền tăng hình phạt, áp dụng
hình phạt tội nặng hơn đối với bị cáo khi có kháng cáo của người bị hại, kháng
nghị của VKS yêu cầu.
Theo thông tư liên tịch số 01-TANDTC-VKSNDTC/TTLT, Tòa án cấp
phúc thẩm chỉ được sửa bản án theo hướng không có lợi cho bị cáo khi có
kháng cáo của người bị hại, kháng nghị của Viện kiểm sát yêu cầu tăng nặng
hình phạt; có mặt bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm; có căn cứ để tăng nặng; tại
phiên tòa sơ thẩm không vi phạm thẩm quyền. Nếu chỉ có kháng cáo, kháng

13



nghị theo hướng có lợi cho bị cáo, thì tòa án cấp phúc thẩm chỉ có thể y án sơ
thẩm hoặc sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo. Việc tòa án cấp
phúc thẩm sửa bản án theo hướng không có lợi cho bị cáo chỉ áp dụng với
những bị cáo bị kháng nghị, kháng cáo mà không áp dụng đối với bị cáo không
bị kháng cáo, kháng nghị. BLTTHS quy định như trên để đảm bảo hiệu lực của
chế định kháng cáo, kháng nghị, bảo đảm tính ổn định của bản án sơ thẩm
không bị kháng cáo, kháng nghị cũng như quyền và lợi ích của bị cáo và thực
hiện đúng nguyên tắc của Luật tố tụng hình sự là “không làm xấu hơn tình
trạng của bị cáo”.
c. Hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại
Hủy bản án sơ thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm quyết định phủ nhận
hoàn toàn kết quả xét xử ở cấp sơ thẩm với các lý do khác nhau và vì những
mục đích khác nhau. Trong quy định tại Điều 250 – BLTTHS thì việc hủy bản
án sơ thẩm để điều tra lại có những lý do sau đây:

14


Thứ nhất, tòa án cấp phúc thẩm sẽ hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại nếu
“nhận thấy việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không
thể bổ sung được”. Theo đó, tòa án cấp phúc thẩm có quyền hủy bản án sơ
thẩm để điều tra lại khi hội tụ đủ hai điều kiện là: Việc điều tra ở cấp phúc
thẩm không đầy đủ và cấp phúc thẩm không thể bổ sung được. Song, các văn
bản hướng dẫn hiện nay không giải thích rõ thế nào là điều tra không đầy đủ.
Nên qua thực tiễn thi hành, ta có thể hiểu, điều tra không đầy đủ mà tòa án cấp
phúc thẩm không thể tự bổ sung là hồ sơ vụ án thiếu những yếu tố thuộc đối
tượng chứng minh bắt buộc của vụ án như các chứng cứ có tình tiết định tội, gỡ
tội, xác định các tình tiết ảnh hưởng đến hình phạt. Hiện nay, nếu phát hiện

những trường hợp cơ quan điều tra vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong
quá trình điều tra thì Tòa án phúc thẩm chỉ hủy án sơ thẩm để xét xử lại, để
trong quá trình chuẩn bị xét xử Tòa án cấp sơ thẩm ra quyết định trả hồ sơ để
điều tra bổ sung.

15


Thứ hai, tòa án cấp phúc thẩm sẽ hủy bản án của tòa án cấp sơ thẩm nếu
như thành phần xét xử sơ thẩm không đúng luật quy định hay có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng (Khoản 2 Điều 250 – BLTTHS năm 2003). Theo
đó, tòa án cấp phúc thẩm có quyền hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại trong hai
trường hợp
+ Thành phần Hội đồng xét xử không đúng luật. Đây là trường hợp luật
quy định thành phần HĐXX phải có hai thẩm phán và ba Hội thẩm khi xét xử
bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình nhưng HĐXX lại
không đủ như thế. Hoặc trường hợp xét xử bị cáo là người chưa thành niên thì
thành phần HĐXX bắt buộc phải có một Hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc
cán bộ Đoàn mà HĐXX không thỏa mãn điều kiện đó thì cũng bị coi là không
đúng luật và sẽ bị tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án.
+ Có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng, theo quy định tại
mục 4.4 Chương I của Nghị quyết 04/2004/NQ – HĐTP của Hội đồng thẩm
phán hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần “Xét xử sơ thẩm” của

16


BLTTHS thì: “Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là trường hợp BLTTHS
quy định bắt buộc phải tiến hành hoặc tiến hành theo thủ tục tố tụng đó, nhưng
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng bỏ qua hoặc thực hiện

không đúng xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của bị can, bị cáo, người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án hoặc làm cho việc giải quyết vụ án thiếu khách quan toàn diện .”.
Trên thực tế, những trường hợp tòa án cấp phúc thẩm cho là tòa án cấp sơ
thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng có thể là: Xét xử sai thẩm quyền,
không có người bào chữa trong những trường hợp luật quy định bắt buộc phải
có, xét xử vắng mặt bị cáo không đúng các trường hợp luật định…
d. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
Điều 251 – BLTTHS quy định: “Khi có một trong những căn cứ quy
định tại điểm 1 và điểm 2 Điều 107 của Bộ luật này thì Tòa án cấp phúc thẩm
hủy bản án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án; nếu có

17


một trong những căn cứ quy định tại điểm 3, 4, 5, 6 và 7 của Điều 107 của Bộ
luật này thì hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án”.
Theo đó, tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án khi
có một trong những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự quy định tại Điều
107 – BLTTHS. Đó là những căn cứ: Không có sự việc phạm tội; hành vi phạm
tội không cấu thành tội phạm; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; người mà hành vi phạm tội của họ đã
có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; đã hết thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự; tội phạm đã được đại xá; người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác.
Trong những căn cứ trên, chỉ có căn cứ “không có sự việc phạm tội ” hoặc
“hành vi không cấu thành tội phạm” thì tòa án cấp phúc thẩm mới hủy bản án
sơ thẩm tuyên bố bị cáo vô tội và đình chỉ vụ án. Vì đối với hai căn cứ này, bị
cáo đã bị kết tội oan vì không có sự việc phạm tội xảy ra hoặc tội có thực hiện
nhưng hành vi đó không cấu thành tội phạm mà vẫn bị tòa án cấp sơ thẩm kết


18


tội, nên cùng với việc hủy bản án sơ thẩm, tòa án cấp phúc thẩm phải tuyên bố
bị cáo không có tội để minh oan cho họ. Còn các căn cứ còn lại, tòa án cấp
phúc thẩm không tuyên bố bị cáo không có tội mà chỉ hủy bản án và đình chỉ
vụ án, vì thực chất bị cáo đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, tòa án
cấp sơ thẩm kết tội họ là không oan, nhưng do hết thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự, tội phạm đã được đại xá… nên không cần thiết phải truy cứu
trách nhiệm hình sự ra bản án kết tội họ nữa.
Ngoài ra Tòa án cấp phúc thẩm có quyền hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ
vụ án nếu bị cáo đã chết. Đồng thời trên thực tế, khi thực hiện quyền hủy bản án
sơ thẩm và đình chỉ vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm cũng đồng thời giải quyết các
hậu quả pháp lý của việc đình chỉ vụ án. Ví dụ như, tòa án cấp phúc thẩm phải
giải quyết việc khôi phục quyền lợi, danh dự, nhân phẩm cho người được tuyên
bố vô tội.
III. Hạn chế trong thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện thẩm quyền của
Tòa án cấp phúc thẩm.
1. Những hạn chế trong thực tiễn áp dụng.
Tình trạng tồn đọng án tại tòa án cấp phúc thẩm hàng năm vẫn còn tương
đối cao. Theo số liệu thống kê hàng năm cho thấy tốc độ giải quyết, xét xử ở
tòa án cấp phúc thẩm vẫn còn chậm, tình trạng tồn đọng án vẫn còn nhiều.
19


+ Vẫn còn nhiều vụ án đã xét xử phúc thẩm nhưng bản án bị tòa giám đốc thẩm
hủy để điều tra lại. Nguyên nhân chủ yếu tòa giám đốc thẩm hủy bản án phúc
thẩm để điều tra lại là:
-Có sai lầm trong việc định tội danh: Dù qua rất nhiều giai đoạn tố tụng, cho

đến giai đoạn xét xử phúc thẩm mà tình trạng định tội danh sai không phải là
hiếm. Lỗi này của tòa án cấp phúc thẩm là do những người tiến hành tố tụng
không nắm chắc yếu tố cấu thành tội phạm.
-Áp dụng hình phạt quá nhẹ.
-Áp dụng quy định về án treo không đúng những căn cứ của pháp luật.
-Vi phạm thủ tục tố tụng hình sự.
Hàng năm lượng đơn từ, khiếu nại đề xuất việc kháng nghị giám đốc thẩm, tái
thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật gửi tới các cơ quan có thẩm
quyền vẫn còn nhiều và xu hướng là năm sau cao hơn năm trước và thực tế là số
đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định phúc thẩm
chiếm đa số và được gửi tới tòa án nhân dân tối cao để xem xét giải quyết. Điều
đó cho thấy chất lượng xét xử phúc thẩm vẫn còn chưa thực sự đảm bảo trong
nhiều trường hợp.
2. Hoàn thiện quy định về tính chất của phúc thẩm.

20


Theo điều 230 Bộ luật tố tụng hình sự thì tính chất của phúc thẩm là việc
Tòa án cấp trên xem xét lại những bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật kháng cáo hoặc kháng nghị. Nhưng không phải cứ kháng cáo,
kháng nghị thì cho toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật. Điều 237 Bộ luật tố tụng hình sự( hậu quả của việc kháng cáo, kháng
nghị) thì chỉ những phần của bản án bị kháng cáo, kháng nghị mới chưa được
đưa ra thi hành. Sở dĩ phần này chưa được đưa ra thi hành là do bị kháng cáo,
kháng nghị trong thời gian này chưa có hiệu lực pháp luật. Đối với các phần
khác nhau của bản án không bị kháng cáo, kháng nghị sẽ có hiệu lực pháp luật
và được thi hành. Quy định như Điều 230 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành dễ
dẫn đến sự hiểu sai về tính chất của phúc thẩm là khi có kháng cáo, kháng nghị
dù chỉ một phần của bản án sơ thẩm thì toàn bộ bản án đó cũng chưa có hiệu lực

pháp luật và Tòa án cấp phúc thẩm được xét xử lại toàn bộ vụ án. Vì vậy, cần
phải sửa đổi quy định này, chỉ rõ tính chất của phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên
trực tiếp xét xử lại những phần bản án bị kháng cáo hoặc kháng nghị trong thời
hạn pháp luật quy định.
Điều 230 Bộ luật tố tụng hình sự xác định tính chất của phúc thẩm là xét
lại bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật là chưa phù hợp với quy
định tại Điều 245( những người tham gia phiên tòa phúc thẩm), Điều 246( bổ
sung, xem xét chứng cứ tại Tòa án cấp phúc thẩm), Điều 247( thủ tục phiên tòa
phúc thẩm). Theo các điều luật trên và thực tiễn xét xử phúc thẩm cho thấy Tòa
án đều xét xử lại về nội dung vụ án. Thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm
cũng tiến hành như phiên tòa sơ thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm hoàn toàn có quyền
xem xét cả chứng cứ cũ và chứng cứ mới để giải quyết vụ án. Bản án phúc thẩm
có thể giữ nguyên bản án sơ thẩm, nhưng có thể sửa khác hẳn với bản án sơ
thẩm hoặc hủy bản án sơ thẩm. Vì thế không thể xác định phúc thẩm là “xét lại”
21


mà phải quy định rõ “là việc xét xử lại…” cho đúng với bản chất của xét xử
phúc thẩm. Có thể sửa lại Điều 230 như sau:
“ Phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại toàn bộ hay một
phần vụ án mà bản án hoặc quyết định sơ thẩm bị kháng cáo hoặc kháng nghị
trong thời hạn pháp luật quy định”
3. Hoàn thiện quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm.
Theo điều 241 Bộ luật tố tụng hình sự thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể
xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án nếu thấy cần
thiết. Nhưng “cần thiết” là trường hợp nào thì chưa được quy định trong
luật.Theo hướng dẫn tại Thông tư liên nghành số 01/TTLN ngày 08/12/1988 của
TANDTC, VKSNDTC thì trường hợp cần thiết là trường hợp cần giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự cho bị cáo còn các khoản bồi thường dân sự không được
xem là cần thiết. Hướng dẫn này đã bỏ sót nhiều trường hợp mà Tòa án cấp phúc

thẩm cần phải xem xét để giải quyết vụ án toàn diện.
Về mặt hình sự, nếu chỉ cho phép Tòa án được giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự cho những bị cáo không kháng cáo và không bị kháng nghị. Kháng cáo thì
những trường hợp cần xác định bị cáo vô tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn
hình phạt…cho bị cáo sẽ không được giải quyết.
Về mặt dân sự tuy không có kháng cáo, kháng nghị nhưng có nhiều vấn
đề phải được xem xét và giải quyết thỏa đáng thì bản án mới có sức thuyết phục
và được nhân dân đồng tình
Mặt khác trong điều 241 có cụm từ “nếu xét thấy cần thiết” thiết nghĩ là
chưa chặt chẽ, gây khó khăn cho việc áp dụng. Nó cần được sửa đổi theo hướng
ghi rõ những trường hợp nào thì Toàn án cấp phúc thẩm được quyền xét xử các
phần không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án.Có như vậy, việc áp dụng luật

22


mới thống nhất và phát huy được hiệu quả của xét xử phúc thẩm. Điều 241 Bộ
luật tố tụng hình sự có thể được quy định lại như sau:
“1. Tòa án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị.
2. Đối với những phần bản án không bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án
cấp phúc thẩm phải xem xét khi có căn cứ để sửa hoặc hủy bản án theo hướng có
lợi về mặt hình sự cho bị cáo có liên quan đến quyết định của phần bản án bị
kháng cáo, kháng nghị; xem xét quyết định xử lý vật chứng, án phí nếu trái pháp
luật”.
4. Hoàn thiện các quy định về thẩm quyền hủy bản án sơ thẩm.
Có thể nhận thấy rằng việc những cơ quan tố tụng không làm hoặc làm
không đúng với quy định của pháp luật ảnh hưởng đến việc xác định sự thật của
vụ án hoặc xâm phạm đến quyền tố tụng, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố
tụng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. BLTTHS chỉ cần quy định các tiêu
chí đê xem xét một vi phạm thủ tục tố tụng có phải là nghiêm trọng hay không

mà không cần liệt kê tất cả các vi phạm thủ tục được coi là nghiêm trọng vì
không thể lường hết các vi phạm thủ tục trong thực tế.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 250 BLTTHS thì Tòa án cấp phúc thẩm
hủy bản án sơ thẩm để tiến hành tố tụng lại tố tụng từ giai đoạn điều tra khi nhận
thấy việc điều tra ở cấp cơ sở không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ
sung được. Đối với những trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
trong giai đoạn hiện điều tra làm cho kết quả các hoạt động không chính xác
chưa được BLTTHS quy định là căn cứ hủy bản án để điều tra lại. Đây là thiếu
sót khi làm luật. Có thể sửa đổi điều luật này như sau:
“1. Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để tiến hành lại tố tụng từ
giai đoạn điều tra khi thấy việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp
phúc thẩm không thể bổ sung được hoặc việc điều tra ở cấp sơ thẩm có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng”.
C- KẾT LUẬN

23


Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm có ý nghĩa rất lớn trong quá trình
xét xử.Tòa án cấp phúc phải ra bản án hoặc quyết định phúc thẩm đúng pháp
luật, việc sửa bản án sơ thẩm,hủy bản án hoặc y án sơ thẩm phải rất chính
xác.Tuy nhiên, hiện nay quy định của pháp luật về thẩm quyền của Tòa án vẫn
còn nhiều vướng mắc và cần được thống nhất.Tin rằng trong tương lai không xa,
pháp luật sẽ có những sửa đổi,để thẩm quyền của Tòa án ngày càng được mở
rộng và hoàn thiện hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Tố tụng hình sự - Đại học Luật Hà Nội – Nxb Tư pháp
2.Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
3. Võ Khánh Vinh, Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003,
Nxb. CAND, Hà Nội, 2004.

4. Luật tổ chức toà án nhân dân năm 2002.
5. Thông tư liên tịch 01-TANDTC-VKSNDTC/TTLT năm 1988 hướng dẫn bộ
luật tố tụng hình sự do Tòa án nhân dân tối cao - Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao ban hành
6. Vũ Văn Huyên – thẩm quyền của các cấp tòa án trong Tố tụng Hình sự - Luận án
tiến sĩ – năm 2003.
7. Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam-Bộ tư pháp-XNB Chính trị
quốc gia

24



×