Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Phạm vi xét xử vụ án dân sự của tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật liên quan đến vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.01 KB, 11 trang )

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ
Môn: LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

Đề bài số 13:
Phạm vi xét xử vụ án dân sự của tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật liên quan đến vấn đề này.

1


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Khái quát xét xử và phạm vi xét xử sơ thẩm, phúc thẩm của TA.......................3
Các quy định của PLTTDS có liên quan đến phạm vi xét xử sơ thẩm và phúc
thẩm của TA.............................................................................................................6
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

2


ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc tòa án xét xử theo hai cấp có ý nghĩa quan trọng, vừa đảm bảo cho tòa án xét xử đúng
vụ án dân sự vừa đảm bảo cho đương sự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của họ trước tòa
án. Vì thế, thực hiện chế độ xét xử theo hai cấp được pháp luật quy định là một nguyên tắc của
luật tố tụng dân sự.
Nội dung của nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử xác định việc xét xử vụ án dân sự
được thực hiện ở hai cấp xét xử: sơ thẩm và phúc thẩm; bản án, quyết định sơ thẩm có thể bị
kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Vậy trong khoa học pháp lý và thực tiễn xét xử
vụ án dân sự, phạm vi xét xử của tòa án cấp sơ thẩm và tòa án cấp phúc thẩm có sự khác nhau


như thế nào? Để làm rõ điều này, em xin chọn đề tài: “Phạm vi xét xử vụ án dân sự của tòa
án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật liên quan đến vấn đề
này”.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Khái quát xét xử và phạm vi xét xử sơ thẩm, phúc thẩm của TA.
1.

Xét xử sơ thẩm và phạm vi xét xử sơ thẩm .
a.

Xét xử sơ thẩm
Cấp sơ thẩm là cấp tiến hành trình tự, thủ tục giải quyết vụ án lần thứ nhất. Tất cả các vụ
án nếu đưa ra xét xử thì đều phải tiến hành qua cấp sơ thẩm. Đây là cấp xét xử không thể thiếu
và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Nếu cấp sơ thẩm xét xử chính
xác, nghiêm túc thì bản án sẽ ít bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, vụ án sẽ
không bị kéo dài. Do đó, xét xử sơ thẩm dân sự là quá trình giải quyết lần đầu VADS của TA và
được bắt đầu bằng việc khởi kiện của người khởi kiện. Nếu việc khởi kiện tuân thủ đúng và đủ
các điều kiện về nội dung và hình thức khởi kiện sẽ làm phát sinh nghĩa vụ thụ lý của TA,
chuẩn bị xét xử, hòa giải và mở phiên tòa sơ thẩm.

3


b.

Phạm vi xét xử sơ thẩm
Trong BLTTDS cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành BLTTDS chưa có một quy định
giải thích chính thức thế nào là phạm vi xét xử sơ thẩm. Theo từ điển tiếng việt: “Phạm vi được
hiểu là khoảng được giới hạn của một hoạt động hay của một vấn đề hay một cái gì” 1. Khi
đương sự thực hiện quyền khởi kiện, họ có quyền quyết định về việc tự tham gia hay ủy quyền

cho người khác, tự quyết định về phạm vi, nội dung, mức độ yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích của
họ. Trong quá trình tố tụng, họ có quyền đưa ra yêu cầu, thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu 2. Trách
nhiệm của TA chỉ giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự, trừ một số trường hợp ngoại
lệ. Vì vậy, TA không tự mình xác định phạm vi xét xử tại phiên tòa sơ thẩm mà dựa trên yêu
cầu được đưa ra tại đơn khởi kiện của đương sự, điều này phụ thuộc vào quyền tự định đoạt của
các đương sự.

2.

Xét xử phúc thẩm và phạm vi xét xử phúc thẩm
a.

Xét xử phúc thẩm.
Khi xét xử sơ thẩm VADS TA cấp sơ thẩm phải ra bản án, hoặc các quyết định tố tụng.
Nhưng không phải trong mọi trường hợp các bản án, quyết định đó đều được thực hiện ngay,
ngược lại chúng có thể bị đương sự kháng cáo, viện kiểm sát kháng nghị để xét xử theo thủ tục
phúc thẩm. Xét xử phúc thẩm là chế định hết sức quan trọng, là giai đoạn tố tụng tiếp theo
không thể tách rời của quá trình giải quyết VADS. “Xét xử phúc thẩm là việc TA cấp trên trực
tiếp xét lại vụ án mà bản án, quyết định của TA cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật mà bị
kháng cáo, kháng nghị”3. Điều này có nghĩa là “khi có kháng cáo, kháng nghị theo trình tự thủ
tục do pháp luật quy định thì vụ án đó phải được xét xử phúc thẩm để đảm bảo thực hiện đúng
chế độ hai cấp xét xử của TA”. Qua khái niệm nêu trên, chúng ta có thể hiểu: xét xử phúc thẩm
là việc TA cấp phúc thẩm kiểm tra lại tính đúng đắn, tính hợp lý của những nội dung bản án,
quyết định tố tụng và những thủ tục tố tụng đã được TA cấp sơ thẩm áp dụng để phát hiện ra
những sai lầm, thiếu sót đó một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Vậy thì trong bản án hoặc quyết
định của mình, TA cấp phúc thẩm sẽ được quyết định những vấn đề gì và được quyết định đến
đâu để không phải bỏ qua các yêu cầu của người kháng cáo, kháng nghị của Viện kiểm sát?
1

Trung tâm từ điển học (2005)/ Từ điển Tiếng Việt/NXB Đà Nẵng

Điều 217 BLTTDS năm 2004
3
Học viện tư pháp (2007)/ giáo trình luật tố tụng dân sự/NXB công an nhân dân.
2

4


b.

Phạm vi xét xử phúc thẩm
Đối tượng của xét xử phúc thẩm là các quyết định, bản án của TA sơ thẩm chưa có hiệu
lực bị kháng cáo, kháng nghị. Do đó, phạm vi xét xử phúc thẩm là những bản án, quyết định sơ
thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng
nghị. Điều này được hiểu là: TA cấp phúc thẩm khi xét xử phúc thẩm phải xem xét trong phạm
kháng cáo, kháng nghị. Ngoài ra, nếu cần thiết cho quá trình giải quyết, TA phúc thẩm có thể
xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án, quyết định.

3.

So sánh phạm vi xét xử sơ thẩm và phạm vi xét xử phúc thẩm.



Giống nhau
Dựa trên nguyên tắc hai cấp xét xử để giải quyết.
Đều là các giới hạn mà tòa án cần xem xét và giải quyết.
Đểu xem xét dựa trên các yêu cầu của các chủ thể có thẩm quyền.
Đều xuất phát từ cơ sở chung đó là tranh chấp giữa các bên trong TTDS
Khác nhau

Thứ nhất, về căn cứ pháp lý: phạm vi xét xử sơ thẩm không được quy định trong một
điều luật cụ thể. Còn phạm vi xét xử phúc thẩm được quy định tại điều 263 BLTTDS năm
2004.
Thứ hai, về cơ sở phát sinh: phạm vi xét xử sơ thẩm có cơ sở là đơn khởi kiện được tòa
án thụ lý. Còn phạm vi xét xử phúc thẩm có cơ sở là đơn kháng cáo và quyết định kháng nghị
của viện kiểm sát.
Thứ ba, chủ thể có thẩm quyền: phạm vi xét xử sơ thẩm do TA có thẩm quyền theo quy
định BLTTDS năm 2004. Còn phạm vi xét xử phúc thẩm do TA cấp trên trực tiếp của TA có
thẩm quyền xét xử ở cấp sơ thẩm.
Thứ tư, việc rút đơn khởi kiện: trong phạm vi xét xử sơ thẩm việc rút đơn khởi kiện
không cần có sự đồng ý của bị đơn. Còn phạm vi xét xử phúc thẩm phụ thuộc rất nhiều vào ý
chí của bị đơn,
Thứ năm, người tham gia: phạm vi xét xử sơ thẩm gồm đương sự, đại diện (nếu có),
người bảo vệ quền và lợi ích hợp pháp, người làm chứng, người phiên dịch (nếu có). Còn phạm
vi xét xử phúc thẩm gồm người kháng cáo, đương sự, cá nhân, tổ chức có liên quan đến việc
kháng cáo,khán nghị, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp, một số người tham gia tố tụng khác
nếu cần thiết.

5


Thứ sáu, về mức độ phạm vi xét xử: phạm vi xét xử sơ thẩm rất rộng. Còn phạm vi xét
xử phúc thẩm hẹp hơn rất nhiều, rộng nhất bằng phạm vi xét xử sơ thẩm nếu đượng sự kháng
cáo và viện kiểm sát kháng nghị toàn bộ bản án, quyết định ở cấp sơ thẩm.
Thứ bảy, yêu cầu mới: trong phạm vi xét xử sơ thẩm được phép đưa ra yêu cầu mới.
Còn phạm vi xét xử phúc thẩm không được đưa ra yêu cầu mới
Các quy định của PLTTDS có liên quan đến phạm vi xét xử sơ thẩm và phúc thẩm của TA.
4.

Quy định PLTTDS liên quan đến phạm vi xét xử sơ thẩm

Theo như quy định của pháp luật TTDS thì để được TA thụ lý và giải quyết tranh chấp:
cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện
vụ án tới TA có thẩm quyền4. Ngoài ra, theo điều 162 BLTTDS thì: cơ quan về dân số, gia đình
trẻ em; hội liên hiệp phụ nữ; công đoàn cấp trên; cũng có quyền khởi kiện vụ án hôn nhân gia
đình, vụ án lao động, và các cơ quan, tổ chức khác có quyền khởi kiện để yêu cầu TA bảo vệ
lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách. Để được TA thụ lý thì
người khởi kiện phải làm đơn khởi kiện. Theo quy định tại điểm g khoản 2 điểu 164 BLTTDS
thì đơn khởi kiện phải có nội dung chính sau: “Những vấn đề cụ thể thể yêu cầu TA giải quyết
đối với bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan”. Qua quy định này chúng ta có thể hiểu
rằng phạm vi xét xử của TA cấp sơ thẩm phải dựa trên những yêu cầu của người khởi kiện nêu
trong đơn khởi kiện, TA chỉ có quyền xét xử theo những yêu cầu đó. Theo điều 217 khi tiến
hành xét xử tại phiên tòa sơ thẩm thì chủ tọa phiên tòa hỏi đương sự về các vấn đề sau : “1. hỏi
nguyên đơn có thay đổi, bổ xung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện hay không; 2.
hỏi bị đơn có thay đổi, bổ xung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu phản tố hay không; 3. hỏi
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có thay đổi, bổ xung, rút một phần
hoặc toàn bộ yêu cầu độc lập hay không”. Nếu có sự thay đổi thì hội đồng xét xử xem xét việc
thay đổi, bổ xung, rút yêu cầu của đương sự, lúc này hội đông xét xử lại phải giải quyết vụ án
theo sự thay đổi yêu cầu của đương sự (phạm vi xét xử sẽ thay đổi theo yêu cầu của đương sự).
Nếu bị đơn thực hiện quyền yêu cầu phản tố theo điều 176. Đây là trường hợp bị đơn kiện
ngược trở lại đối với nguyên đơn thì TA có thể xem xét và giải quyết trong cùng một vụ án.
Ngoài ra, theo Điều 177 nếu người có quyền và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, TA sẽ
xem xét, giải quyết yêu cầu độc lập nhằm đảm bảo cho VADS được giải quyết nhanh chóng và
4

Điều 161 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004

6


triệt để, tránh được việc TA phải mở phiên tòa riêng để giải quyết yêu cầu đó trong một vụ án

khác.
5.

Quy định PLTTDS liên quan đến phạm vi xét xử phúc thẩm
Theo quy định tại điều 263 BLTTDS thì: “TA cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của
bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội
dung kháng cáo, kháng nghị”. Như vậy, phạm vi xét xử phúc thẩm được giới hạn bởi hai vấn
đề sau:
+ TA cấp phúc thẩm chỉ xem xét những vấn đề mà tại phiên tòa sơ thẩm đã được giải
quyết. Chủ thể không có quyền kháng cáo, kháng nghị không được phép kháng cáo, kháng nghị
về những vấn đề mới, chưa được xem xét ở cấp sơ thẩm. Thông thường, TA cấp phúc thẩm
cũng không có thẩm quyền thụ lý và giải quyết những yêu cầu ngoài phạm vi đã xét xử sơ
thẩm.
+ TA phúc thẩm chỉ xem xét trong nội dung kháng cáo, kháng nghị và những vấn đề có
liên quan đến việc xem xét nội dung có kháng cáo, kháng nghị. Theo mục III. 1 nghị quyết số
05/2006/NQ-HĐTP thì: “Có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị là
trường hợp việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị đối với phần này của bản án, quyết định sơ
thẩm đòi hỏi phải xem xét, giải quyết đồng thời phần khác của bản án, quyết định sơ thẩm đó
mặc dù phần này không bị kháng cáo, kháng nghị” 5.
Theo khoản 2 điều 268 BLTTDS thì: “Chủ tọa phiên tòa hỏi về các vấn đề sau đây: a,
hỏi nguyên đơn có rút đơn khởi kiện hay không; b, hỏi người kháng cáo, viện kiểm sát có thay
đổi, bổ xung, rút kháng cáo, kháng nghị hay không”. Nếu như trước khi mở phiên tòa hoặc tại
phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn rút đơn khởi kiển, nếu bị đơn đồng ý, thì hội đồng xét xử ra
quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Nếu bị đơn không chấp nhận và
nếu không có kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn, thì bản án sơ thẩm có hiệu lực kể từ ngày
hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
III. Thực trạng quy định của BLTTDS về phạm vi xét xử vụ án dân sự và kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật liên quan đến vấn đề này.
1. Thực trạng
 Thứ nhất: Có sự mâu thuẫn giữa BLTTDS và Luật thi hành án dân sự (LTHADS).


5

Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP ngày 04-8-2006 của hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dân thi
hành một số quy định trong phần thứ ba: “thủ tục giải quyết vụ án tại tòa án cấp phúc thẩm” của BLTTDS

7


LTTDS quy định phạm vi xét xử cấp sơ thẩm của Tòa án là yêu cầu của đương sự, biểu
hiện ở đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự. Theo Luật Thi hành án dân sự (LTHADS),
trong việc cưỡng chế liên quan tài sản chung, nếu chủ sở hữu chung không khởi kiện xác định
phần sở hữu của họ thì người được thi hành án (THA) hoặc chấp hành viên có quyền yêu cầu
tòa án xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để đảm bảo
thi hành án. Như vậy, vấn đề ở đây là để thi hành án trong việc chia tài sản chung thì phải có
đơn yêu cùa đương sự, như vậy, việc cưỡng chế thi hành án của sẽ gặp nhiều khó khăn nếu
đương sự là người thi hành án không hợp tác trong việc chia tài sản chung để đảm bảo thi
hành án. Như vậy, chính lỗ hổng này, làm cho công tác cưỡng chế thi hành án gặp nhiều khó
khăn. Cụ thể như vụ của ông Nguyễn Văn H ở quận Bình Thạnh (TP.HCM). Năm 2007, ông
yêu cầu ông T. phải thi hành bản án trả nợ. Sau đó, ông phát hiện ông T. có một căn nhà ở
quận 10 nên yêu cầu THA cưỡng chế, phát mại. Trớ trêu thay căn nhà trên là tài sản chung
của ông T. với người chị. Cơ quan THA đã mời các bên liên quan đến để thỏa thuận phân chia
tài sản nhưng chị ông T. không đến. Hai chủ sở hữu chung này cũng không thèm khởi kiện ra
tòa để xác định phần tài sản riêng của mình.
Thấy bên kia không hợp tác, căn theo LTHADS, ông H. đã khởi kiện ra tòa yêu cầu xác định
phần nhà riêng của ông T. Tuy nhiên, tòa án đã trả lại đơn vì cho rằng ông Ông H hay cơ quan
THA khởi kiện là không được vì không phải đương sự trong vụ án mà chỉ là người ngoài.
 Thứ hai: Chưa có quy định rõ ràng về thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm.
Điều này xuất phát từ những nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên, ở một góc độ nào đó
việc pháp luật tố tụng không quy định thẩm quyền của hội đồng xét xử sơ thẩm dường như đã

tạo ra một khoảng trống, một sự không chặt chẽ, một tâm lý không yên tâm. Điều này, không
chỉ ảnh hưởng đến tâm lý của đương sự mà còn ảnh hưởng đến việc thực hiện phạm vi xét xử
của tòa án ở cấp sơ thẩm. Điều này, có nghĩa là khi LTTDS không quy định về thẩm quyền
của Hội đồng xét xử trong việc xem xét yêu cầu của đương sự thì Hội đồng xét xử sơ thẩm
hoàn toàn bị động trước những yêu cầu của đương sự
 Thứ ba: Một số vấn đề xung quanh quy định bổ sung, thay đổi yêu cầu của các đương
sự
+ BLTTDS quy định khá chi tiết về nội dung bổ sung, thay đổi, giới hạn của vấn đề
này. Tại nghị quyết số 02 ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
(HĐTPTANDTC) cũng đã có hướng dẫn về “yêu cầu ban đầu ” và “ vượt quá yêu cầu ban
đầu ”. Tuy nhiên, nếu giải quyết như hướng dẫn của Nghị quyết số 02, quyền tự định đoạt của
các đương sự sẽ bị hạn chế. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, các hoạt động cung cấp, thu thập
chứng cứ của các chủ thể nhằm mục đích cho việc giải quyết các yêu cầu đó. Khi Toà án ra
quyết định đưa ra xét xử tại phiên toà, trong giai đoạn chuẩn bị cho việc mở phiên toà thực
8


chất là việc Toà án nghiên cứu kỹ lại các yêu cầu, các chứng cứ, tài liệu chứng minh cho yêu
cầu đó. Nếu chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu trong giai đoạn này, Toà án sẽ phải
thông báo cho đương sự phía bên kia, thu thập chứng cứ… tức là lại phải có thời gian để
chuẩn bị việc xét xử cho yêu cầu mới được thay đổi, bổ sung. Điều đó sẽ làm kéo dài quá
trình tố tụng và không hợp lý
+ Về “không vượt quá” yêu cầu ban đầu.
Nghị quyết số 02 ngày 12/5/2006 của HĐTPTANDTC hướng dẫn, “không được vượt quá yêu
cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập ban đầu là không vượt quá phạm vi yêu cầu
ban đầu”. Có thể thấy, hướng dẫn trên chưa làm rõ được cụm từ “phạm vi” là phạm vi quan
hệ pháp luật tranh chấp hay phạm vi về giá trị yêu cầu. Việc hướng dẫn không rõ ràng này có
thể dẫn đến cách hiểu “ không được vượt quá yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc
lập ban đầu” là không được đưa thêm yêu cầu mới đồng thời không được tăng giá trị yêu cầu,
có nghĩa không được gây bất lợi cho các đương sự khác”. Theo quy định của PLTTDS hiện

hành, trong suốt quá trình giải quyết vụ án các đương sự đều có quyền cung cấp chứng cứ, tài
liệu mới và thực tế đã chứng minh nhiều trường hợp những chứng cứ quan trọng thường được
các đương sự giữ kín đến phiên toà sơ thẩm hoặc phúc thẩm mới xuất trình. Những chứng cứ
mới đó có thể làm tăng giá trị yêu cầu hoặc giảm nghĩa vụ phải thực hiện của đương sự. Vì
vậy, chỉ khi nào những chứng cứ mới làm phát sinh một quan hệ pháp luật mới mới gây sự bất
lợi cho đương sự phía đối lập và cần phải được tách riêng để giải quyết bằng một vụ việc
khác. Còn nếu chỉ là sự gia tăng về giá trị yêu cầu nhưng không làm phát sinh thêm quan hệ
pháp luật mới cần giải quyết thì vẫn được chấp nhận.
2. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật có liên quan đến vấn đề phạm vi xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm
Thứ nhất: Để hạn chế việc vượt quá phạm vi, giới hạn xét xử, đòi hỏi đầu tiên là tòa
phải cẩn trọng xem xét cáo trạng truy tố, yêu cầu khởi kiện hoặc nội dung kháng cáo, kháng
nghị. Cạnh đó, tòa cũng cần cân nhắc thật kỹ những nội dung, yêu cầu mới phát sinh để tránh
việc xem xét cả những vấn đề vượt quá thẩm quyền, nằm ngoài phạm vi xét xử. Cần xét xử tới
đâu thì tòa chỉ nên xét xử tới đó, như dân gian thường nói vui là “tố tới đâu thì tụng tới đó”.
Để khắc phục tình trạng tòa “dài tay” , khi cảm thấy có nhiều vấn đề trong vụ án còn lấn cấn,
tòa nên thực hiện các thủ tục theo luật định như trả hồ sơ điều tra bổ sung, yêu cầu các bên
làm rõ, kiến nghị tòa cấp trên khắc phục…
Thứ hai: Mặc dù LTHADS quy định rõ việc khởi kiện của người được THA, chấp hành
viên về vấn đề tài sản chung nhưng tòa từ chối thụ lý cũng có lý của tòa. Tòa thì theo quy định
của BLTTDS để làm và tòa làm đúng. Nhưng căn theo LTHADS thì cơ quan THA có
9


quyền… thắc mắc. Để tránh tình trạng mâu thuẫn này, thiết nghĩ cũng phải có hướng dẫn. Các
cơ quan chức năng cần bàn bạc để thống nhất với nhau, tránh đưa ra quy định trái ngược nhau.
Thứ ba: Cần quy định về thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm
Cấp sơ thẩm là cấp xét xử thứ nhất nên đối tượng xét xử của nó không thể là bản án, quyết
định mà là các yêu cầu về dân sự rất phong phú của các đương sự. Theo Điều 25 của Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS), thì có tới 8 loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của

Tòa án, trong mỗi loại việc lại có rất nhiều các yêu cầu cụ thể khác nhau. Vì phạm vi xét xử
của cấp sơ thẩm quá rộng lớn nên không thể ấn định trước về thẩm quyền của hội đồng xét xử
sơ thẩm. Tuy nhiên, sẽ không phải là thừa nếu pháp luật tố tụng có điều luật quy định thẩm
quyền của hội đồng xét xử sơ thẩm. Tất nhiên, không thể quy định cụ thể cho mọi trường hợp,
nhưng nếu nhà làm luật quan tâm tới vấn đề này thì đó là điều hợp lý. Theo em, cần quy định
thẩm quyền của hội đồng xét xử sơ thẩm là: chấp nhận toàn bộ yêu cầu của đương sự; chấp
nhận một phần yêu cầu của đương sự; không chấp nhận yêu cầu của đương sự.
Thứ tư: Cần sửa Khoản 1 Điều 218
Như phân tích ở trên thì mặc dù có hướng dẫn, giải thích về vấn đề “ yêu cầu ban đầu ” và
“vượt quá yêu cầu ban đầu”. Tuy nhiên, trên thực tế thì vẫn còn gây nhầm lẫn và khó hiểu.
Chỉ khi nào, PLTTDS Việt Nam có quy định về thời hạn cung cấp, giao nộp chứng cứ của các
đương sự thì yêu cầu về tăng giá trị mới có thể không được chấp nhận. Từ thực trạng trên thiết
nghĩ rằng: trước mắt, nếu giữ nguyên quy định về việc đương sự có quyền cung cấp chứng cứ
trong suốt quá trình tố tụng thì cần sửa khoản 1 Điều 218 BLTTDS theo hướng: “Tại phiên
toà sơ thẩm, đương sự có quyền thay đổi, bổ sung nếu không làm xuất hiện thêm đương sự
mới, không làm phát sinh thêm quan hệ pháp luật mới cần giải quyết”.

KẾT LUẬN
Việc hiểu rõ được phạm vi xét xử của toàn án cấp sơ thẩm và tòa án cấp phúc thẩm sẽ
giúp cho các vụ án tố tụng dân sự được thực hiện đúng thẩm quyền và quy trình tố tụng. Vì
vậy, trong thời gian tới, hi vọng các nhà lập pháp có thể đề ra các giải pháp để thực hiện tốt
nguyên tắc hai cấp xét xử trên thực tế. Do thời gian có hạn và sự hiểu biết còn nhiều hạn chế
nên bài viết của em còn nhiều thiếu xót, mong các thầy cô bổ sung để bài viết thêm hoàn
thiện.
Em xin chân thành cảm ơn!

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
10



1.

Bộ luật tố tụng dân sự 2004;

2.

Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb,
Tư pháp, Hà Nội 2005;

3.

Ths. Ls Phạm Thị Thanh Nga, Hỏi đáp về thủ tục giải quyết và thi hành án
dân sự ( tập 1), Nxb Lao động – xã hội, Hà Nội 2005;

4.

Lg: Nguyễn Thị Minh Huệ, 266 câu hỏi và trả lời về Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2004, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội 2004;

5.

Ts. Nguyễn Quang Hiển, Thực hiện chế độ hai cấp xét xử - cơ chế bảo vệ
quyền con người trong tố tụng dân sự, Tạp chí nghiên cứu lập pháp điện tử;

6.

/>
7.

/>

8.

/>
11



×