A.Đặt vấn đề
Quyền nhân thân giữa vợ và chồng là một quyền tương đối quan trọng. Quan
hệ nhân thân giữa vợ và chồng chỉ được phát sinh khi có sự kiện pháp lí là kết hôn.
Cách thức xử sự giữa vợ và chồng trong pháp luật trong xã hội phong kiến chưa
được chú trọng bởi bản chất của chế độ hôn nhân thời đó là chế độ gia trưởng. Mọi
vấn đề phát sinh trong gia đình đều phải tôn trọng ý chí của người chồng – người
chủ gia đình và nguyên tắc đạo đức truyền thống. Tuy nhiên, khi xã hội phát triển,
giờ đây đã phát sinh nhiều vấn đề, có nhiều bất cập xảy ra như: chồng hoặc vợ
không chung thủy; chồng ngược đãi, đánh đập, hành hạ người vợ, có những hành
vi bạo lực về thể chất, tinh thần… Do đó, nhà nước ta đã nâng các quy tắc đạo đức
giữa vợ và chồng lên thành pháp luật để điều chỉnh nhằm mục đích đảm bảo cho
mối quan hệ đó được bền vững, vợ và chồng có thể cùng nhau xây dựng gia đình
no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc…
Để làm rõ hơn vấn đề về quyền nhân thân giữa vợ và chồng, nhóm em xin
chọn đề tài: “Thực hiện và bảo vệ quyền nhân của vợ chồng trong thực tế ”.
1
Mục lục
Trang
A.Đặt vấn đề
B.Giải quyết vấn đề
I.Khái niệm và đặc điểm quyền nhân thân giữa vợ và chồng
1.Khái niệm quyền nhân thân giữ vợ và chồng………………………................1
2.Đặc điểm quyền nhân thân giữa vợ và chồng………………………….….……1
II.Những nội dung cơ bản về quyền nhân thân giữa vợ và chồng theo Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000
1.
2.
Quyền thể hiện mối quan hệ tình cảm giữa vợ và chồng……………………..2
Quyền thể hiện quyền bình đẳng tự do, dân chủ của vợ chồng.
2.1. Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng về mọi mặt trong gia đình……..……3
2.2. Quyền lựa chọn nơi cư trú………………………………………………….…..4
2.3. Quyền lựa chọn nghề nghiệp, học tập, tham gia các hoạt động kinh tế,
2.4.
2.5.
chính trị, văn hóa, xã hội………………………………………….…….………5
Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của vợ, chồng………………..4
Đại diện cho nhau giữa vợ và chồng……………………………………..…..5
III.Thực hiện quyền nhân thân giữa vợ và chồng trong thực tiễn
1.Những thành tựu trong việc thực hiện quyền nhân thân giữa vợ và chồng trong
thực tiễn…………………………………………………………….……………...6
2.Những hạn chế trong việc thực hiện quyền nhân thân giữa vợ và chồng trong
thực tiễn…………………………………………………………………………….8
IV.Bảo vệ quyền nhân thân của vợ chồng trong thực tiễn
2
1.Bảo vệ quyền nhân thân giữa vợ chồng trong thực tiễn thi hành Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000
a.
b.
Cơ sở pháp lý về bảo vệ quyền nhân thân của vợ, chồng…………..10
Thực tiễn bảo về quyền nhân thân giữa vợ và chồng……………….12
2.Một số giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả quyền nhân thân của vợ
và chồng
c.
d.
e.
Đối với việc kiến nghị hoàn thiện pháp luật…………………………14
Đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ chung thủy……………………….15
Đối với công tác phòng chống bạo lực gia đình…………………….15
C.Kết thúc vấn đề
Danh mục tài liệu tham khảo
Hình ảnh minh họa
3
B.Giải quyết vấn đề
I.Khái niệm và đặc điểm quyền nhân thân giữa vợ và chồng
1.Khái niệm quyền nhân thân giữa vợ và chồng
Quyền nhân thân giữa vợ và chồng có thể được hiểu là quyền gắn liền với
quan hệ vợ chồng phát sinh trên cơ sở kết hôn hợp pháp, liên quan đến lợi ích tinh
thần của vợ chồng, không có kinh tế, không định giá được thành tiền và không thể
chuyển giao cho người khác.
2.Đặc điểm quyền nhân thân giữa vợ và chồng
Quyền nhân thân giữa vợ và chồng mang những đặc điểm cơ bản sau:
-Quyền nhân thân giữa vợ và chồng là quyền nhân thân đặc biệt.
Bởi đây là mối quan hệ giữa 2 người khác giới trên cơ sở sự kiện kết hôn hợp
pháp. Chỉ khi được công nhận là vợ chồng hợp pháp thì giữa hai bên nam – nữ
phát sinh những quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng đối với nhau. Quan hệ
nhân thân đặc biệt giữa vợ và chồng nhằm thực hiện những thiên chức tự nhiên, cơ
bản của con người như chắc năng sinh đẻ, giáo dục, nuôi dưỡng… Từ đó, quan hệ
vợ chồng mới gắn bó hơn về mọi mặt, đảm bảo cuộc sống gia đình hạnh phúc, ấm
no và bền vững.
-Quyền nhân thân giữa vợ và chồng luôn có tình cảm hai chiều, có sự tác
động qua lại lẫn nhau giữa vợ và chồng. Quyền đồng thời à nghĩa vụ và nghĩa vụ
bao hàm cả quyền. Ví dụ hành vi chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống vợ
chồng vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau.
-
Quyền nhân thân giữa vợ và chồng là tình yêu thương, quý trọng, chăm sóc, giúp
đỡ lẫn nhau. Trong quan hệ vợ chồng không chỉ phát sinh tình cảm thông thường
như yêu thương, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau mà còn phụ thuộc vào cả về
mặt tính giao. Đây là một quyền đặc thù, riêng tư và thiêng liêng trong quan hệ vợ
chồng, là yếu tố đảm bảo sự hạnh phúc, bền vững của gia đình. Từ đó, quyền nhân
4
-
thân gắn bó với vợ, chồng một cách sâu sắc, có tính ổn định, bền vững và lâu dài
trong suốt thời lỳ hôn nhân.
Quyền nhân thân giữa vợ và chồng chi phối đến quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa
vợ và chồng. Đây là một quyền nhân thân đặc trưng của vợ, chồng. Ví dụ như
quyền đại diện cho nhau giữa vợ và chồng hay trách nhiệm liên đới của vợ chồng
đối với một giao dịch do một bên thực hiện. Các quyền nhân thân này sẽ làm phát
sinh hay liên quan đến các quyền và nghĩa vụ khác về tài sản giữa vợ và chồng.
Vợ, chồng sẽ phải thực hiện một giao dịch liên quan đến lợi ích chung của cả vợ và
chồng, có thể là lợi ích về vật chất. Vì thế, các giao dịch đó thường có tính chất là
tài sản chung của vợ chồng.
II.Những nội dung cơ bản về quyền nhân thân giữa vợ và chồng theo Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000.
1. Quyền nhân thân thể hiện mối quan hệ tình cảm giữa vợ và chồng.
Điều này đã được quy định rất cụ thể tại Điều 18 của Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000: “Vợ chồng chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ
nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền
vững.”
Gia đình là nơi hình thành và là môi trường quan trọng nuôi dưỡng nhân cách
của mỗi con người. Để gia đình thực sự là tổ ấm, Điều 18 Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000 quy định vợ chồng có nghĩa vụ chung thủy, yêu thương, chăm sóc,
giúp đỡ lẫn nhau. Chung thủy trong quan hệ vợ chồng là “ là tình cảm trước sau
như một, không thay đổi”, thương yêu “ là tình cảm gắn bó tha thiết, hết lòng quan
tâm chăm sóc”, quý trọng “ là sự tôn trọng, đánh giá cao vai trò”. Cơ sở để xác lập
hôn nhân là tình yêu và bản chất của tình yêu là không thể sẻ chia nên quyền được
yêu thương giữa vợ và chồng không chỉ là những đòi hỏi về pháp luật mà nó còn là
những yêu cầu về đạo đức. Đây là những yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định
hạnh phúc và sự bền vững của gia đình.
Đồng thời, quy định này cũng góp phần tạo nền tảng cho việc xây dựng gia
đình, và nó còn bác bỏ những quan niệm phong kiến trước đây về gia đình như:
5
Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng. Việc xây dựng gia đình no
ấm, hạnh phúc là trách nhiệm chung của cả hai người, là quyền và nghĩa vụ mà vợ
và chồng cần chung sức, sẻ chia.
Vì vậy, cuộc sống vợ chồng tự nhiên và cần thiết phải được xây đắp, duy trì
trên cơ sở sự gắn kết giữa tình yêu và trách nhiệm. Trách nhiệm trong quan hệ vợ
chồng được thể hiện ở sự “ chăm sóc, giúp đỡ nhau”, là sự quan tâm, chia sẻ,
tương trợ trong đời sống đời sống vật chất và tinh thần để cũng nhau đạt được mục
đích thực sự của hôn nhân là “ xây dựng một gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc và bền vững”, ngăn chặn mọi hành vi đánh đập, xâm phạm thân thể
nhân phẩm của nhau….
2. Quyền nhân thân thể hiện quyền bình đẳng tự do, dân chủ của vợ và
chồng
2.1. Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng về mọi mặt trong gia đình.
Vấn đề này đã được Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đề cập đến ở điều
19: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt
trong gia đình”.
Bình đẳng là một trong những quyền quan trọng có tính chất dân chủ, tiến bộ
được hầu hết các quốc gia trên thế giới ghi nhận. Quy định này cũng chính là sự kế
thừa Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986.
Nếu như trước đây người phụ nữ không có vai trò gì trong gia đình và hoàn
toàn phụ thuộc vào người cha, nguời chồng, hay con trai, thì ngày nay người phụ
nữ được xã hội nhìn nhận là có vai trò, địa vị bình đẳng như nam giới và được
pháp luật bảo vệ. Một lần nữa Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 khẳng định sự
bình đẳng, bình quyền về mọi mặt trong mối quan hệ vợ chồng “ Vợ chồng bình
đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình”. Khái
niệm bình đẳng ở đấy được hiểu theo hai khía cạnh. Thứ nhất, bình đẳng là sự
ngang nhau về các quyền và nghĩa vụ trong gia đình. Thứ hai, quyền bình đẳng còn
thể hiện ở việc hôn nhân không làm cho vợ chồng hòa nhập về tư cách pháp lý.
6
Mỗi người với tư cách là cá thể độc lập đều có năng lực hành vi riêng, được giữ lai
lịch pháp lý riêng của mình, không phụ thuộc hay triệt tiêu về quyền và nghĩa vụ
hay tên họ.
2.2. Quyền lựa chọn nơi cư trú
Trên cơ sở sự bình đẳng về mọi mặt trong quan hệ giữa vợ và chồng được quy
định ở Điều 19, 20 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã làm rõ hơn sự bình
đẳng vợ, chồng trong các quan hệ về nhân thân. Đó là sự tự do lựa chọn nơi cư trú
của vợ, chồng. Đây là quy định quan trọng thể hiện tư tưởng tiến bộ cũng như tư
tưởng thực hiện chủ trương giải phóng người phụ nữ của Đảng và Nhà nước ta.
Nơi cư trú phải do hai vợ chồng cùng thỏa thuận, lựa chọn. Sự lựa chọn này không
bị phụ thuộc vào phong tục tập quán của địa phương, địa giới hành chính hoặc sự
định đoạt của người chồng. Nơi cư trú là nơi diễn ra đời sống sinh hoạt của mõi ca
nhân, là nơi sinh ra lớn lên và là địa điểm chủ yếu để xác lập, thực hiện các quyền
và nghĩa vụ dân sự của mỗi người. Để đảm bảo sự bình đẳng, Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000 quy định việc lụa chọn nơi cư trú là quyền của vợ cũng như của
chồng, không có sự áp đặt việc lựa chọn của người chồng với người vợ.
2.3. Quyền lựa chọn nghề nghiệp, học tập, tham gia các hoạt động kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội
Trên nguyên tắc vợ chồng bình đẳng với nhau về mọi mặt (Điều 19 Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000) và nguyên tắc “công dân nữ và nam có quyền ngang
nhau về mọi mạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình”( Điều 63 HP
1992). Vợ chồng có thể cùng bàn bạc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau trong việc
chọn nghề nghiệp, học tập hoặc tham gia các hoạt động khác theo nguyện vọng và
khả năng của mỗi người và phù hợp với các quy định của pháp luật. Quy định vợ
chồng có quyền được lựa chọn nghề nghiệp, học tập, tham gia các hoạt động kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội vừa khẳng định quyền bình đẳng giữa vợ và chồng,
vừa đảm bảo khuyến khích vợ chồng phát huy khả năng của bản thân để cống hiến
cho sự nghiệp phát triển chung của đất nước.
7
2.4. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của vợ, chồng
Tín ngưỡng ở đây được hiểu là niềm tin nội tâm thể hiện qua một số tập tục
như thờ cúng tổ tiên. Quyền tự do tín ngưỡng được Đảng và Nhà nước ta rất quan
tâm và trở thành quyền công dân được các Hiến pháp của nước ta thừa nhận( Điều
36 HP 59, Điều 68 HP 1980, Điều 70 HP 1992) “Công dân có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo theo hoặc không theo một tôn giáo nào”. Quy định này chính là
sự đặc biệt của Nhà nước cho mỗi cá nhân được tự do ý chí trong công việc theo
hoặc không theo một tín ngưỡng hoặc tôn giáo. Trong gia đình, vợ cũng như chồng
không có quyền áp đặt, cưỡng chế nhau phải theo một tín ngưỡng, tôn giáo nào đó
trái với ý muốn của họ. Nhà nước thừa nận quyền tự do tín ngưỡng. Những người
theo tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau đều có địa vị pháp lí bình đẳng như nhau trước
pháp luật.
2.5. Đại diện cho nhau giữa vợ và chồng
Đại diện cho nhau giữa vợ và chồng là quy định mới trong Luật Hôn nhân và
gia đình mà trước đây Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 chưa đề cập. Khoản 1
Điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định quan hệ đại diện theo ủy
quyền giũa vợ và chồng. Quy định này thể hiện mối quan hệ bình đẳng giữa vợ và
chồng trong các giao dịch mà pháp luật quy định phải có sự đồng ý của cả hai vợ,
chồng. Địa vị pháp lí của vợ và chồng là hoàn toàn bình đẳng.
Vấn đề đại diện theo pháp luật giữa vợ và chồng cũng được đặt ra tại khoản 2
Điều 24. Việc quy định vợ, chồng có thể đại diện cho nhau cho thấy một lần nữa
pháp luật khẳng định vai trò, vị trí như nhau của người chồng và người vợ trong
gia đình cũng như trong xã hội. Quy định này hoàn toàn đúng đắn và phù hợp vì
trong gia đình, quan hệ vợ, chồng được xác lập trên cơ sở tình yêu, sự tự nguyện
và bình đẳng giữa hai bên. Do vậy, họ có thể là chỗ dựa tin cậy cho nhau khi người
kia không đủ năng lực hành vi dân sự để thực hiện giao dịch.
8
III. Thực hiện quyền nhân thân giữa vợ và chồng trong thực tiễn
1.Những thành tựu trong việc thực hiện quyền nhân thân giữa vợ và chồng
trong thực tiễn
Luật HN & GĐ Việt Nam năm 2000, với việc cụ thể hóa các vấn đề về quyền
nhân thân, quyền tài sản giữa vợ và chồng, là cơ sở pháp lí quan trọng để chúng ta
bảo vệ quyền và lợi ích về nhân thân của vợ chồng trong hôn nhân nói chung, của
phụ nữ nói riêng. Kể từ ngày Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực pháp lý, các quy
định của luật này đã góp phần quan trọng vào việc giải quyết các vấn đề về quyền
nhân thân giữa vợ và chồng, đặc biệt là việc giải phóng người phụ nữ. Càng ngày
vị trí của người phụ nữ trong gia đình càng được khẳng định và nâng cao. Người
phụ nữ trong gia đình dần thoát khỏi tình trạng bị phân biệt đối xử. Người phụ nữ
được pháp luật bảo vệ, để tự do lựa chọn người bạn đời, quyền tự do kết hôn giữa
các bên nam nữ theo đó được đảm bảo trên thực tế. Một số dân tộc thiểu số cũng
bắt đầu quen dần với các quy định thể hiện sự tiến bộ trong quan hệ hôn nhân.
Trong các gia đình Việt Nam, người phụ nữ được đối xử bình đẳng: “Theo báo cáo
của nhiều địa phương cho thấy, đại đa số các gia đình ở Việt Nam hiện nay vợ
chồng đều bình đẳng, tôn trọng, thương yêu và giúp đỡ lẫn nhau, cùng thực hiện
việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con cái; vai trò quan trọng của người phụ nữ
trong gia đình và xã hội càng được đề cao. Đối với những vấn đề giải quyết, quyết
định những công việc quan trọng của gia đình đều có sự tham gia, bàn bạc, nhất
trí của cả vợ và chồng, nhất là các vấn đề liên quan đến quản lí, định đoạt tài sản,
trông nom nuôi dưỡng con cái”.
Trong cuộc sống gia đình, người đàn ông đã biết chia sẻ những công việc gia
đình với vợ, cùng vợ lo toan gánh vác công việc chung, nuôi dạy con cái, xây dựng
gia đình hạnh phúc. Người phụ nữ được chăm sóc sức khỏe sinh sản, đặc biệt được
bảo vệ để mang thai và làm mẹ an toàn. Bên cạnh đó, việc áp dụng tập quán về hôn
nhân và gia đình đã tạo ra một môi trường lành mạnh, xóa bỏ những định kiến về
giới để các quy phạm Luật Hôn nhân và gia đình phát huy tác dụng trong việc thực
hiện và bảo vệ quyền nhân thân của vợ chồng trong thực tế. Nhờ đó, vợ chồng
trong gia đình hiện nay đã được bình đẳng. Bình đẳng trong gia đình là một cánh
9
cửa được mở, đưa người phụ nữ hòa nhập với xã hội: Phụ nữ đã thực sự tham gia
vào đời sống chính trị, xã hội, được tham gia xây dựng các văn bản luật, chính sách
nhà nước, được tự do học tập, lựa chọn ngành nghề kinh doanh,…
Nhìn chung các quy định về quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ, chồng
được đảm bảo trên thực tế, người phụ nữ được bình đẳng với nam giới. Người phụ
nữ Việt Nam, khi xác lập quan hệ hôn nhân đều giữ nguyên họ tên của mình,
không phải mang họ chồng, có quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, chỗ ở, việc làm
mà không phụ thuộc ý chí của người chồng. Vợ chồng có sự giúp đỡ nhau trong
việc lựa chọn nghề nghiệp. Đây cũng là sự ghi nhận quyền bình đẳng của vợ chồng
trong quan hệ hôn nhân, mở lối cho người phụ nữ trong gia đình để họ có thể phát
huy tài năng, năng lực của bản thân. Trong gia đình Việt Nam ngày nay, nhất là các
gia đình ở thành phố, thị trấn, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng nhau, thương yêu và
giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con cái. Nhờ vậy mà
cuộc sống của người phụ nữ ngày càng được cải thiện.
Trong các gia đình ở nông thôn, việc chia sẻ công việc giữa vợ và chồng cũng
đã thể hiện rõ rệt: Theo điều tra của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam thì sự phân
công lao động trong các gia đình nông thôn, vùng dân tộc thiểu số những năm gần
đây tương đối hợp lý, quyền lợi của người phụ nữ được coi trọng. Những công việc
nặng nhọc do người đàn ông đảm nhận, người phụ nữ trong gia đình chỉ phải thực
hiện những công việc phù hợp với giới tính của họ.
Thực tiễn thi hành pháp luật Hôn nhân và gia đình trong thời gian qua cho
thấy về cơ bản phụ nữ có quyền bình đẳng với nam giới trong việc chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con cái, nhất là con chưa thành niên. Hầu hết các gia đình Việt
Nam, việc sinh con, quyết định khoảng cách giữa các lần sinh do vợ chồng thống
nhất bàn bạc. Người phụ nữ ngày càng giác ngộ, có nhận thức đầy đủ và đúng đắn
hơn về vấn đề này. Theo đó người phụ nữ đc đảm bảo về sức khỏe để làm mẹ an
toàn.
10
2.Những hạn chế trong việc thực hiện quyền nhân thân giữa vợ và chồng trong
thực tiễn
Bên cạnh những điểm tích cực nói trên, trong thực tiễn, việc thực hiện quyền
nhân thân giữa vợ và chồng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Đó là:
Thứ nhất, hiện tượng vi phạm nghĩa vụ không chung thủy giữa vợ và chồng
Trong tiếng Việt, chung thuỷ là vẫn một lòng trước sau như một, vẫn có tình
cảm gắn bó không thay đổi. Trong quan hệ vợ chồng thì chung thuỷ được hiểu là
vợ chồng phải luôn chung tình, gắn bó tình cảm yêu thương chỉ với nhau mà thôi.
Chung thủy là nền tảng để duy trì hạnh phúc gia đình, đó không đơn thuần là nghĩa
vụ mang tính pháp lí mà còn là đạo đức, nhân cách của con người. Điều 18 trong
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Vợ chồng chung thủy, thương
yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững”. Tuy nhiên, trên thực tế, điều luật này đã
không được thực hiện theo đúng như quy định.
Hiện nay có một số dạng vi phạm nghĩa vụ chung thủy hay còn gọi là ngoại
tình như sau:
-Vợ chồng có quan hệ tình cảm ngoài hôn nhân nhưng vẫn thực hiện đầy đủ
quyền và nghĩa vụ với gia đình. Dạng vi phạm này thường không gây ra hậu quả
nghiêm trọng về vật chất, bạo lực đối với gia đình. Tuy vậy có thể gây ra sự tổn
thất về mặt tinh thần khá nặng nề. Sự vi phạm này có thể kéo dài liên tục, có thể
công khai hoặc bí mật.
-Vợ hoặc chồng có quan hệ tình cảm ngoài hôn nhân và không thực hiện đầy
đủ quyền và nghĩa vụ với gia đình. Quan hệ này có thể công khai hoặc bí mật và có
thể kéo dài hoặc nhất thời. Trường hợp này rõ ràng là có thể có nguy cơ gây hậu
quả nghiêm trọng hơn đối với trường hợp trên, do đó nên áp dụng hình thức xử lí
thích hợp.
Một nghiên cứu được Viện nghiên cứu phát triển xã hội công bố vào năm
2010 cho thấy, tỷ lệ nam giới có vợ đã hoặc đang quan hệ tình dục ngoài hôn nhân
11
lên đến 43%. Gần 300 nam giới, từ 15 đến 60 tuổi, tại 4 tỉnh, thành là Hà Nội, Hà
Tây (cũ), TP HCM và Cần Thơ tham gia nghiên cứu.
Nguyên do là nhiều người trẻ hiện nay có thể lập gia đình muộn nhưng lại trải
qua giai đoạn tìm hiểu sơ sài, cộng với xu hướng tự do cá nhân (tự do theo nghĩa
không biết vì người khác), mải làm ăn, không coi “nửa kia” là quan trọng... Bên
cạnh đó, khả năng thích ứng, sức chịu đựng trong hôn nhân hiện nay của nhiều
người có vẻ kém hơn, khiến họ khi không cảm nhận được niềm vui gia đình thì
thay vì tìm cách chấp nhận, điều chỉnh, lại dễ dàng tìm vui ở chỗ khác.
Hậu quả của việc ngoại tình đó là mang lại sự ghen tuông mà kết cục là những
cái chết đắng cay oan uổng của người trong cuộc, người còn lại mang thân tù tội,
con trẻ trở nên bơ vơ mồ côi bố mẹ không người chăm sóc nuôi dưỡng.
Như vậy, thực hiện nghĩa vụ chung thủy là cơ sở để xây dựng gia đình dân
chủ, hòa thuận và hạnh phúc. Do đó, các văn bản hướng dẫn cần quy định chi tiết
về vấn đề này, xây dựng những cơ chế bảo vệ cần thiết cả về mặt xã hội và pháp lí
nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các thành viên trong gia đình, đặc biệt là phụ
nữ và trẻ em.
Thứ hai là nạn bạo hành gia đình
Nạn bạo hành gia đình hiện nay đang là một trong những vấn đề nhức nhối
của mỗi gia đình và toàn xã hội. Bạo hành gia đình là một trong những hành vi
xâm phạm trực tiếp đến các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng.
Nghiên cứu mới cho thấy tỷ lệ bạo lực gia đình ở Việt Nam ở mức cao. Theo
Nghiên cứu quốc gia về Bạo lực Gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam được Chính
phủ Việt Nam và Liên Hợp Quốc công bố ngày 25/11/2010, cứ ba phụ nữ có gia
đình hoặc đã từng có gia đình thì có một người (34 phần trăm) cho biết họ đã từng
bị chồng mình bạo hành thể xác hoặc tình dục. Số phụ nữ có hoặc từng có gia đình
hiện đang phải chịu một trong hai hình thức bạo hành này chiếm 9 phần trăm.
Các số liệu mới được đưa ra đã nêu bật một thực trạng là đa số phụ nữ Việt
Nam đều có nguy cơ tiềm tàng bị bạo lực gia đình ở một hay một vài thời điểm nào
12
đó trong cuộc sống của họ. Tại một số vùng ở Việt Nam, cứ mười phụ nữ thì có
bốn người nhận thấy gia đình không phải là nơi an toàn đối với họ. Ví dụ, ở vùng
Đông Nam Bộ, 42 phần trăm phụ nữ cho biết họ đã từng bị chồng mình bạo hành
thể xác hoặc tình dục. Tuy nhiên, mặc dù có sự khác biệt giữa các vùng miền, khu
vực, nhưng sự khác biệt lớn nhất có thể nhận thấy là giữa các dân tộc, trong đó tỷ
lệ phụ nữ cho biết họ đang hoặc đã từng là nạn nhân của bạo lực gia đình dao động
từ 8 phần trăm (người H’Mong) đến 36 phần trăm (người Kinh).
Rõ ràng là bạo lực gia đình đã gây nên những hậu quả nghiêm trọng đối với
sức khỏe thể chất và tinh thần của người phụ nữ. Ở Việt Nam, cứ bốn phụ nữ từng
bị chồng bạo hành thể chất hoặc tình dục thì có một người cho biết họ phải chịu
đựng những vết thương trên cơ thể và hơn một nửa trong số này cho biết họ đã bị
thương tích nhiều lần. So với những phụ nữ chưa từng bị bạo hành thì những người
đã từng bị chồng bạo hành có nhiều khả năng bị bệnh tật và sức khỏe kém hơn gần
hai lần và khả năng nghĩ đến việc tự tử nhiều hơn gấp ba lần.
Mặc dù bạo lực gia đình xảy ra phổ biến đối với phụ nữ nhưng trẻ em cũng là
nạn nhân của bạo lực gia đình. Cứ bốn phụ nữ có con dưới 15 tuổi thì có một
người cho biết con của họ đã từng bị chồng họ bạo hành thể xác. Nghiên cứu này
đã chỉ ra rằng bạo lực gia đình là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với cuộc sống
của trẻ em. Ví dụ, báo cáo nghiên cứu cho biết trẻ em sống trong những gia đình
mà mẹ bị cha bạo hành sẽ có nhiều khả năng có các vấn đề về hành vi hơn so với
những trẻ em khác.
IV. Bảo vệ quyền nhân thân của vợ và chồng trong thực tiễn
1. Bảo vệ quyền nhân thân của vợ và chồng trong thực tiễn thi hành Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000
1.1. Cơ sở pháp lý về bảo vệ quyền nhân thân của vợ, chồng
Trong quan hệ hôn nhân, quyền nhân thân giữa vợ và chồng rất quan trọng
được pháp luật bảo hộ và quy định khá cụ thể trong bộ luật hôn nhân và gia đình
13
2000 và những văn bản pháp luật khác có liên quan, đó chính là cơ sở pháp lý quan
trọng để bảo vệ quyền nhân thân giữa vợ, chồng trên thực tế.
Như trên ta thấy Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có 8 điều quy định khá
rõ ràng về quyền nhân thân giữa vợ, chồng từ Điều 18 đến Điều 26, đó là những
quy định về tình nghĩa vợ chồng; bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng;
tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ chồng; giúp đỡ, tạo điều kiện cho
nhau phát triển về mọi mặt; đại diện cho nhau giữa vợ, chồng; trách nhiệm liên đới
của vợ, chồng đối với giao dịch do một bên thực hiện và quan hệ hôn nhân do một
bên tuyên bố là đã chết mà trở về. Đó là cơ sở để vợ chồng thực hiện, Bảo vệ
quyền nhân thân của vợ, chồng trong thực tiễn. Ngoài ra, tại Điều 3 Luật hôn nhân
và gia đình năm 2000 cũng nêu rõ Trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với
hôn nhân và gia đình. Điều 4 quy định việc Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình.
Sau khi Luật Hôn nhân và gia đình ban hành, một số văn bản pháp luật khác
ra đã ra đời, cụ thể hóa những quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
như Nghị định 70/2001/NĐ-CP.
Đối với những trường hợp vi phạm quyền nhân thân giữa vợ, chồng nói riêng
và Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 nói chung, Chính phủ đã ban hành NĐ
87/2001/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia
đình, theo đó Điều 2 quy định những nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính:
Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình được
thực hiện theo quy định tại Điều 3 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Việc
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình chủ yếu nhằm
mục đích giáo dục để cá nhân, tổ chức vi phạm nhận thức được sai phạm, tự
nguyện sửa chữa, thực hiện nghĩa vụ mà pháp luật quy định hoặc chấm dứt hành vi
vi phạm pháp luật và để răn đe, phòng ngừa chung. Việc xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình đối với người vi phạm là người các dân
tộc thiểu số đang sinh sống ở vùng sâu, vùng xa có xem xét đến ảnh hưởng và tác
động của phong tục, tập quán để vận dụng cho phù hợp.
14
1.2.Thực tiễn bảo về quyền nhân thân giữa vợ và chồng
Xã hội phát triển, quyền nhân thân của con người nói chung và của vợ, chồng
nói riêng ngày càng được coi trọng, những quy định về quyền nhân thân của vợ
chồng trong bộ luật hôn nhân và gia đình 2000 và những văn bản pháp luật khác có
liên quan ngày càng được chú trọng, công tác phổ biến luật hôn nhân và gia đình
ngày càng được quan tâm đặc biệt trên các phương tiện thông tin đại chúng, công
tác của các tổ chức xã hội như hội phụ nữ, tổ dân phố, nhiều trung tâm tư vấn pháp
luật ra đời...giúp cho các cặp vợ chồng hiểu biết hơn về quyền nhân thân giữa vợ,
chồng, tự giác chấp hành những quy định mà pháp luật đưa ra xây dựng cuộc sống
gia đình hạnh phúc.
Cuộc sống hôn nhân và gia đình là một vấn đề khá nhạy cảm và phức tạp,
Mặc dù pháp luật quy định khá cụ thể, công tác xã hội về hôn nhân và gia đình
cũng ngày càng được quan tâm hơn nhưng hiện nay vẫn còn không ít những trường
hợp vi phạm quyền nhân thân giữa vợ, chồng mà nguyên nhân chủ yếu là do vợ
chồng thiếu sự chung thủy, mâu thuẫn vợ chồng, không tôn trọng sự bình đẳng
giữa vợ, chồng...mà pháp luật không thể điều chỉnh cũng như công tác xã hội
không thể giải quyết hết được, dẫn đến bước đường cùng đó là ly hôn gia đình tan
vỡ.
Nếu như trước kia thời kỳ phong kiến duy trì sự bất bình đẳng giữa vợ, chồng
“trọng nam khinh nữ” người chồng quyết định mọi việc trong gia đình và người vợ
hoàn toàn phải làm theo, thì hiện nay bước sang nền kinh tế thị trường tư tưởng
bảo thủ đó đã bị pháp luật xóa bỏ, và tư tưởng này đã dần bị đẩy lùi, người phụ nữ
ngày càng khẳng định được chỗ đứng trong xã hội nói chung và gia đình nói riêng.
Tuy nhiên một thực tế, tồn tại không ít ở những gia đình nông thôn, miền núi đó là
vẫn nặng tư tưởng “trọng nam khinh nữ” người vợ phải làm theo mọi sự áp đặt của
chồng để đúng “luân thường đạo lí”. nguyên nhân chủ yếu tồn tại vấn đề này là do
tư tưởng phong kiến, lạc hậu đã ăn sâu vào tâm lý của họ, người phụ nữ cam chịu
không dám đứng lên bảo về quyền bình đẳng của mình và do kinh tế khó khăn việc
đầu tư cho công tác xã hội vẫn còn hạn chế. mặt khác tại nhiều gia đình vấn đề
kinh tế chi phối quá lớn, người có khả năng tạo ra của cải nhiều hơn có quyền
15
quyết định trong gia đình. vấn đề này đặt ra cần phải đấy mạnh công tác xã hội hơn
nữa tạo ra sự bình đẳng giữ vợ, chồng.
Nam, nữ tiến tới hôn nhân nhằm xây dựng gia đình, chung sống với nhau lâu
dài, tình yêu thương, lòng chung thủy giữa vợ, chồng là yếu tố quan trọng để đảm
bảo sự tồn tại bền vững của hôn nhân, tuy nhiên hiện nay tình trạng vợ, chồng
thiếu chung thủy, ngoại tình tồn tại khá phổ biến không chỉ ở thành thị mà còn cả
các vùng nông thôn. Thực tế để bảo vệ quyền nhân thân giữa vợ, chồng không hề
đơn giản khi vấn đề không chung thủy giữa vợ, chồng đã làm cho cuộc sống gia
đình trở lên căng thẳng và vợ chồng đã không còn tiếng nói chung, bế tắc đã bị đẩy
lên đến đỉnh điểm, vợ chồng không biết kêu gọi cơ quan chức năng có thẩm quyền
can thiệp đã đẩy tình trạng hôn nhân đi vào bước đường cùng.
Bạo hành gia đình hiện nay đang là một vấn đề nhức nhối của mỗi gia đình và
toàn xã hội, bạo hành gia đình là một trong những hành vi xâm phạm trực tiếp đến
quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ, chồng. Hiện nay nạn bạo hành gia đình đang
là một trong những nguyên nhân lớn dẫn đến ly hôn của các cặp vợ chồng. Từ năm
2009 trở lại đây, theo thống kê của tòa án nhân dân tối cao, trung bình mỗi năm
trên cả nước có tới 8000 vụ ly hôn mà nguyên nhân chủ yếu là do bạo lực gia đình.
Xuất phát từ thực tế đó Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định: "
trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình, tào án phối hợp với các cơ quan, tổ
chức có liên quan thực hiện việc bảo về quyền lợi hợp pháp cảu nạn nhân bạo lực
gia đình, chủ động phòng ngừa, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lí các hành vi
vi phạm pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình".
Tìm hiểu về những bất cập tồn tại xung quanh đời sống hôn nhân và gia đình
có thể đưa ra một số nguyên nhân: công tác phổ biến luật hôn nhân và gia đình đã
chưa thực sự đến được với tất cả người dân, việc xử lí vi phạm trong lĩnh vực này
chưa được xem trọng đặc biệt là ở trên những vừng sâu vùng xa, nhận thức về bình
đẳng giới của người dân vẫn còn rất hạn chế, người phụ nữ vẫn còn thiếu sự thẳn
thắn, còn cam chịu...
16
2.Một số giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả quyền nhân thân của
vợ và chồng
2.1 Đối với việc kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Theo quy định tại bộ luật hôn nhân và gia đình 2000 thì trong bộ luật này cũng
có nhiều quy định mới điều chỉnh tất cả các lĩnh vực hôn nhân. Tuy nhiên sau một
thời gian áp dụng ta thấy có nhiều điểm bất cập cần các nhà làm luật cần phải sửa
đổi, bổ sung sao cho phù hợp hơn.
- Thứ nhất : theo quy định tại bộ Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì
khoản 3 Điều 2 quy định về “nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa
gia đình” nằm trong chương III quan hệ giữa vợ và chồng là chưa phù hợp. Bởi vì
theo quy định tại khoản 3 Điều 2 thì khoản này cũng quy định về quyền và nghĩa
vụ nhân thân giữa vợ và chồng. Tuy nhiên trong khoản 3 Điều 2 này lại chỉ đơn
thuần là quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng mà các nhà làm luật lại cho
rằng đó là một nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình. Quy định này
chưa thật sự hợp lí vì vậy chúng ta cần phải đưa khoản 2 Điều 3 vào chương III
“quan hệ vợ chồng”.
- Thứ hai: Luật Hôn nhân và gia đình mới chỉ quy định một số quyền và nghĩa
vụ nhân thân cơ bản nhất giữa vợ và chồng. Do đó, Luật Hôn nhân và gia đình cần
quy định cụ thể quyền của vợ chồng đối với họ tên, quốc tịch của mình sau khi kết
hôn, ly hôn. Việc thay đổi quốc tịch của vợ, chồng do kết hôn, li hôn phải do vợ,
chồng tự nguyện lựa chọn, quyết định không được cưỡng ép.
-Thứ ba, quy định của luật hôn nhân và gia đình năm 2000 như thế nào là
“nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình” (Điều 25) thì hiện nay chưa có một văn
bản pháp lí nào hướng dẫn cụ thể về vấn đề này làm cho việc áp dụng luật trong
thực tế còn có nhiều tranh cãi vì vậy cần phải có một văn bản pháp cụ thể nào đó
hướng dẫn thực hiện vấn đề này.
17
2.2.Đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ chung thủy
Người có thẩm quyền cần phải đẩy mạnh việc tuyên truyền giáo dục ý thức
cho người dân nhằm giúp đỡ các cặp vợ chồng có được sự nhận thức và hiểu biết
về pháp luật hôn nhân và gia đình.
Trường hợp một bên vi phạm nghĩa vụ chung thủy thì có thể xem đó là một lý
do chính đáng để bên kia có quyến yêu cầu chia tài sản chung giữa vợ chồng. Nếu
họ yêu cầu ly hôn thì trong một chừng mực nào đó có thể xem hành vi ngoại tình
của phía bên kia là một tình tiết có lỗi để khấu trừ một phần tài sản của người có
lỗi. Khi bị phát hiện các cơ quan có quyền nên xử lí nghiêm minh những hành vi
phạm nghĩa vụ chung thủy của vợ chồng theo đúng quy định của pháp luật.Việc xử
lí hành vi ngoại tình cần được thông báo cho cơ quan nơi làm việc của người có
hành vi ngoại tình để có biện pháp xử lí kỷ luật kịp thời đối với cán bộ, công chức,
viên chức, Đảng viên.
2.3.Đối với công tác phòng chống bạo lực gia đình
Các cơ quan chức năng, chính quyền, đoàn thể, đặc biệt là hội phụ nữ cần tăng
cường quan tâm đến công tác phòng chống bạo lực gia đình. Đẩy mạnh công tác
tuyên truyền giáo dục về hậu quả của bạo lực gia đình tới các hộ gia đình và để vợ
chồng đi đến nhận thức được rằng “nạn bạo lực gia đình là vấn đề mang tính xã
hội” đã có sự can thiệp của các cấp chính quyền. Đảng và nhà nước xây dựng các
thiết chế gia đình bền vững, ngăn chặn và xử lí nghiêm minh các hành vi bạo lực
trong gia đình nói chung và bạo lực giữa vợ chồng nói riêng.
Đối với cá nhân là vợ hoặc chồng là nạn nhân bạo lực gia đình cũng cần phải
thẳng thắn nhìn nhận vấn đề, chủ động phối hợp với các cơ qua chức năng các lực
lượng đoàn thể để giải quyết vấn đề xã hội này. Mỗi người cần nâng cao trách
nhiệm của mình trong gia đình, dẹp bỏ bớt cái tôi cá nhân, rèn luyện kỹ năng sống
chia sẻ, nhường nhịn, tự điều chỉnh để vợ chồng hòa hợp. Cần vận động mọi người
và đặc biệt là người phụ nữ khi có bạo lực gia đình thì cần phải lên tiếng trình báo
với các cơ quan có thẩm quyền vào cuộc để ngăn chặn kịp thời.
18
C.Kết thúc vấn đề
Mỗi gia đình là một tế bào của xã hội. Để có một xã hội vững mạnh phải có
nhiều gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Mà quan trọng nhất trong gia
đình là quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng. Qua những vấn đề nêu trên, ta có thể
hiểu rõ hơn về “sợi dây” tình cảm gắn kết giữa vợ và chồng, nghĩa vụ và quyền
trong quan hệ nhân thân thể hiện mối lien hệ bình đẳng giữa vợ và chồng trong gia
đình. Có thể thấy các chuẩn mực, các quy tắc đạo đức trong xã hội đã được nâng
lên thành những quy phạm pháp luật được quy định trong Luật hôn nhân và gia
đình. Nhờ đó, đảm bảo được sự gắn kết, lòng chung thủy, yêu thương chăm sóc lẫn
nhau, quyền bình đẳng giữa vợ và chồng nhằm xây dựng một gia đình hạnh phúc,
vợ chồng, con cái yêu thương lẫn nhau. Tuy nhiên, đâu đó vẫn còn có nạn bạo hành
gia đình, sự không chung thủy giữa vợ và chồng, hành vi bạo lực về thể chất, tinh
thần… Những hạn chế đó cần phải có phương pháp khắc phục để xây dựng một xã
hội phát triển vững mạnh.
Do còn nhiều hạn chế về kiến thức nên bài làm của chúng em không tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý từ thầy cô đề bài làm của
chúng em được hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Danh mục tài liệu tham khảo
19
1.
2.
3.
4.
5.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, 2009
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
Bùi Thị Mừng, Bảo vệ quyền lợi của phụ nữ trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Đoàn Thị Xuyến, Quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng theo Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, Khóa luận tốt nghiệp
Lê Đình Nghị,Quyền nhân thân của cá nhân và bảo vệ quyền nhân thân trong pháp
luật, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường
Hình ảnh minh họa
20
21
22
23