Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Những lý luận chung về nguyên tắc tập chung dân chủ trong quản lý hànhchính Nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.91 KB, 12 trang )

Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập Lớn học kỳ

MỤC LỤC


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập Lớn học kỳ

LỜI NÓI ĐẦU
Nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà nước là những tư tưởng chủ đạo bắt
nguồn từ cơ sở khoa học của hoạt động quản lý, từ bản chất của chế độ, được quy định
trong pháp luật, làm nền tảng cho tổ chức và hoạt động quản lý hành chính Nhà nước.
Các nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà nước được ghi nhận trong các văn bản
pháp luật của Nhà nước, từ Hiến pháp, các văn bản luật đến văn bản dưới luật. Điều này
thể hiện tính pháp lý của các nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà nước.
Như vậy, nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính Nhà nước là sự
kết hợp giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ. Sự kết hợp giữa các mặt này là không
giống nhau, điều đó phụ thuộc vào tính chất của các cơ quan, phụ thuộc vào trình độ
quản lý, vào điều kiện cụ thể về tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước.
Ở nước ta, nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ được áp dụng trong tổ chức
và hoạt động của các cơ quan Nhà nước và tổ chức của Đảng cộng sản Việt Nam mà
còn được áp dụng trong tổ chức và hoạt động của một số các tổ chức chính trị, xã hội
khác.
Trên cơ sở trên, bài viết dưới đây sẽ trình bày một cách khái quát về nguyên tắc
tập trung dân chủ trong quản lý hành chính Nhà nước và ý nghĩa của nguyên tắc này
trong quản lý hành chính Nhà nước ta hiện nay.



Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập Lớn học kỳ

NỘI DUNG
I. Những lý luận chung về nguyên tắc tập chung dân chủ trong quản lý hành
chính Nhà nước
1. Khái niệm nguyên tắc
Theo nghĩa chung nhất, “nguyên tắc” được hiểu là những điều cơ bản nhất phải
tuân theo trong một loạt các việc làm. Mỗi ngành khoa học, mỗi lĩnh vực hoạt động cụ
thể đề cập vấn đề nguyên tắc theo góc độ riêng, đặc thù của ngành khoa học hay lĩnh
vực hoạt động đó.
2. Khái niệm nguyên tắc quản lý hành chính Nhà nước
Trong khoa học pháp lý, các nguyên tắc quản lý hành chính Nhà nước được xác
định là những tư tưởng chủ đạo bắt nguồn từ cơ sở khoa học của khoa học của quản lý
hành chính Nhà nước, từ bản chất của chế độ, được quy định trong pháp luật làm nền
cho tổ chức và hoạt động của quản lý hành chính Nhà nước.
Xem xét một cách cụ thể, ở dưới góc độ của luật hành chính, nguyên tắc trong
quản lý hành chính Nhà nước là tổng thể các quy phạm pháp luật hành chính có nội
dung là những tư tưởng chủ đạo làm cơ sở để tổ chức thực hiện hoạt động quản lý Nhà
nước.
3. Cơ sở pháp lý của nguyên tắc tập trung dân chủ
Điều 6 Hiến pháp 1992 quy định: “… Quốc hội, HĐND và các cơ quan khác của
Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Như vậy, tập
trung dân chủ đã trở thành một nguyên tắc Hiến định, về tổ chức cũng như hoạt động
của bộ máy Nhà nước Việt Nam, nó cũng đã được ghi nhận ở Điều 6 Hiến pháp 1980,
cũng như Điều 4 của Hiến pháp 1959. Nguyên tắc này bao hàm sự kết hợp hai yếu tố
tập trung và dân chủ nghĩa là vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ;
vừa đảm bảo mở rộng dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung.


II. Nguyên tắc tập chung dân chủ trong quản lý hành chính Nhà nước
1. Biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính Nhà
nước

Page 1


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập Lớn học kỳ

Nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản về tổ chức
và hoạt động của bộ máy Nhà nước nói chung, Bộ máy hành chính Nhà nước nói riêng.
Trên cở sở lý luận cũng như thực tiễn của việc thực hiện quyền lực Nhà nước ở Việt
Nam, nguyên tắc tập trung dân chủ cũng là một trong những nguyên tắc xuất phát từ
bản chất Nhà nước, do vậy nó phản ánh mối quan hệ rất biện chứng giữa tập trung và
dân chủ, điều đó được thể hiện ở việc xây và phát huy dân chủ để đi đến tập và ngược
lại tập trung được dựa trên nền dân chủ thực sự, vì thế nền dân chủ ngày càng mở rộng
bao nhiêu thì điều đó cũng có nghĩa là sự tập trung càng phải cao bấy nhiêu. Như V.I
Lênin có nói: “ Dân chủ là phải ào ào như nước lũ mùa xuân, còn dân chủ là hàng triệu
người phải tuân thủ một người”. Vì vậy, để đảm bảo được mối quan hệ biện chứng đó,
cũng như nguyên tắc này trở thành nguyên tắc trụ cột trong tổ chức và hoạt động của
việc thực hiện quyền lực Nhà nước nói chung cũng như thực hiện một cách tổng thể hài
hòa trong hàng loạt các mối quan hệ vốn có trong cơ cấu quyền lực thống nhất, cũng
như trên cơ sở những đặc trưng riêng của quản lý hành chính nhà nươc thì cần tăng
cường và củng cố những biểu hiện sau của nguyên tắc.
Biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính Nhà nước ở
những nội dung sau:
1.1 Mối quan hệ giữa cơ quan hành chính và cơ quan quyền lực Nhà nước
Mối quan hệ này được biểu hiện sự lệ thuộc của Chính phủ vào Quốc hội cũng

như sự lệ thuộc của UBND các cấp vào HĐND các cấp. Sự lệ thuộc này trước hết về
mặt tổ chức, với nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực
thông qua Quốc hội và HĐND. Vì thế, Chính phủ do Quốc hội lập ra, còn UBND do
HĐND cùng cấp bầu ra. Hiến pháp 1992 quy định: “Chính phủ là cơ quan chấp hành
của Quốc hội…” , UBND do HĐND bầu là cơ quan chấp hành của HĐND … Trên cơ
sở sự lệ thuộc về mặt tổ chức như vậy, để đảm bảo cho hoạt động của Chính phủ cũng
như hoạt động của UBND đúng pháp luật thì Quốc hội có quyền giám sát hoạt động
của Chính phủ, cũng như HĐND có quyền giám sát hoạt động của UBND sự giám sát
này thông quan nhiều hình thức khác nhau theo quy định của pháp luật như thông qua
báo cáo hoạt động của Chính phủ trong mỗi kỳ họp Quốc hội, báo cáo của UBND trước
mỗi kỳ họp của HĐND. Cũng như để đảm bảo yếu tố dân chủ mối quan hệ này được
thể hiện ở việc trao quyền cho cơ quan hành chính chủ động thực hiện quyền hành pháp
của mình một cách sáng tạo trên cơ sở của pháp luật.

Page 2


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập Lớn học kỳ

1.2 Mối liên hệ giữa Trung ương và địa phương, giữa cấp dưới và cấp trên
Mối quan hệ này thể hiện ở sự phục tùng mang tính mệnh lệnh hành chính để
đảm bảo tập trung quyền hành pháp một cách thống nhất từ Trung ương tới đia phương.
Với mối quan hệ này yếu tố tập trung được tôn trọng. Tuy nhiên, điều đó không có
nghĩa là xem nhẹ yếu tố dân chủ vì vậy, trong tổ chức và hoạt động để thực hiện quyền
hành pháp mối quan hệ này cho phép các cơ quan ở Trung ương cũng như các cơ quan
cấp trên trong mối quan hệ cấp dưới được tham khảo và lấy ý kiến từ cấp dưới để tạo ra
một quyết định hành chính.
1.3 Sự phân cấp về quản lý

Để đảm bảo cho việc thực hiện quyền hành pháp một cách thật sự dân chủ, điều
đó không thể không có sự phân cấp cho địa phương cũng như phân cấp cho cấp dưới
những quyền nhất định, chính sự phân cấp này một mặt tạo điều kiện cho cấp dưới phát
huy được khả năng về nhân tài, vật lực đồng thời tránh sự tập trung quan liêu, sự “bao
sân” một cách không cần thiết của Trung ương đối với địa phương cũng như của cấp
trên đối với cấp dưới. Tuy nhiên sự phân cấp này cũng không có nghĩa là sự “tản quyền
hay phân quyền” một cách tùy tiện, tác trách, lẩn tránh trách nhiệm mà sự phân cấp này
phải có sự tính toán, chọn lọc một cách khoa học, phù hợp với quy luật nhất là những
quy luật của nền kinh tế thị trường hiện nay. Mặt khác, nói đến tập trung dân chủ trong
việc tổ chức và thực hiện quyền hành pháp không thể không có sự phụ thuộc hai chiều
của cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương và nhất là những cơ quan có thẩm
quyền chung như UBND. Xuất phát từ nguyên tắc quyền lực thống nhất, cũng như đảm
bảo tính nhất quán, tính hệ thống của cơ quan hành chính.
1.4 Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương
Các cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương đều được tổ chức và hoạt động
theo nguyên tắc phụ thuộc hai chiều hay còn gọi là nguyên tắc song trùng trực thuộc.
Sự phụ thuộc này được thể hiện ở hai mặt tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính
Nhà nước ở địa phương và được pháp luật quy định một cách cụ thể.
Ở địa phương, UBND các cấp trước hết phụ thuộc HĐND cùng cấp (mối phụ
thuộc ngang). Đồng thời chúng còn phụ thuộc vào cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
chung ở cấp trên trực tiếp (mối quan hệ dọc). Luật tổ chức HĐND, UBND (sửa đổi)

Page 3


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập Lớn học kỳ

quy định UBND do HĐND cùng cấp bầu ra… Kết quả bầu các thành viên của UBND

phải được chủ tịch UBND trực tiếp phê chuẩn; kết quả bầu các thành viên của UBND
cấp tỉnh phải được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn và UBND chịu trách nhiệm và báo
cáo công tác trức HĐND cùng cấp và UBND cấp trên. UBND cấp tỉnh chịu trách
nhiệm báo cáo công tác trức HĐND cùng cấp và Chính phủ. Mối phụ thuộc ngang tạo
điều kiện cần thiết cho cấp dưới phát huy dân chủ, phát huy thế mạnh của địa phương
để hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao phó. Mối phụ thuộc dọc giúp cấp trên có thể
tập trung quyền lực Nhà nước để chỉ đạo hoạt động của cấp dưới tạo nên hoạt động
chung thống nhất. Nguyên tắc phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính Nhà nước ở
địa phương nhằm đảm bảo thống nhất lợi ích chung của Nhà nước và lợi ích chung của
địa phương, với lợi ích cuả ngành với lợi ích lãnh thổ.
Với sự phụ thuộc hai chiều này đã thể hiện rõ được các yếu tố của tập trung dân
chủ trong việc tổ chức cũng như hoạt động để thực hiện quyền lực Nhà nước của cơ
quan hành chính Nhà nước ở địa phương.
1.5 Hướng về cơ sở
Đây được coi là sự đảm bảo rất quan trọng cho tính khả thi của yếu tố dân chủ,
một sự đảm bảo về phương diện pháp luật, lẫn vật chất để cho cơ sở thực sự phát huy
được quyền dân chủ của mình, tránh căn bệnh dân chủ hình thức. Đơn vị cơ sở chính là
nơi mà người dân trực tiếp tạo ra những sản phẩm về vật chất cũng như tinh thần và nơi
đây các giá trị xã hội được đánh giá một cách chính xác nhất…
2. Phương hướng nâng cao hiệu quả của nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt
động quản lý hành chính Nhà nước.
Như đã trình bày nguyên tắc tập trung dân chủ cũng là một trong những nguyên
tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động để thực hiện quyền lực Nhà nước nói chung và thực
hiện quyền hành pháp nói riêng. Vì thế những biểu hiện của những quan hệ nói trên
một mặt đã phản ánh được tính biện chứng giữa các yếu tố tập trung và dân chủ, mặt
khác thông qua các cơ quan hành chính Nhà nước nhất là Chính phủ đã thể hiện được
một cách tích cực vai trò của mình trong việc thực hiền quyền hành pháp. Trong nhiều
thập niên qua nhất là từ khi tiến hành công cuộc đổi mới do Đảng đề xướng, hoạt động
quản lý nói chung , quản lý hành chính Nhà nước nói riêng đã đạt được nhiều thành tựu
trên mọi mặt của đời sống xã hội nhất là ở lĩnh vực kinh tế. Để nhằm phát huy hơn nữa


Page 4


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập Lớn học kỳ

những thành quả đã đạt được, nhất là trong giai đoạn hiện nay cần đặt ra việc vận dụng
nguyên tắc tập chung dân chủ như thế nào để nâng cao được vai trò của quyền hành
pháp với đúng nghĩa là một nhánh của quyền lực Nhà nước, làm được điều đó cần phải
đáp ứng một số vấn đề cả về phương diện lý luận và thực tiễn sau:
-

Thấy rõ bản chất của “ quyền lực thống nhất”

-

Cần làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa tập trung và dân chủ một cách toàn diện.

-

Xác định rõ mối quan hệ biện chứng giữa hành pháp và lập pháp.

Trước hết về quyền lực thống nhất. Điều cốt lõi của quyền lực thống nhất ở đâu
và thuộc về ai? Hiện nay cũng không ít quan điểm khác nhau về vấn đề này, mặc dù
Hiến pháp 1992 quy định như sau: “Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước của
dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân
“Nhân dấn sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và HĐND…” Và trước đó
các bản Hiến pháp 1980, 1959, 1946 cũng đã quy định như sau:

- Tại Điều 6 Hiến pháp 1980 quy định: “Ở nước CHXHCN Việt Nam, tất cả quyền
lực thuộc về nhân dân, nhân dân sư dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và
HĐND các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”.
- Khoản 2 Điều 1 Hiến pháp 1946 quy định: “ Tất cả quyền bính trong nước là của
toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp,
tôn giáo”.
Như vậy trong suốt cả quá trình lập hiến của Nhà nước Việt Nam vấn đề quyền
lực, quyền lực Nhà nước luôn được xác định là thuộc về nhân dân, nhân dân chủ thể
của quyền lực Nhà nước, là nguồn gốc của quyền lực Nhà nước, chủ quyền thuộc về
nhân dân đã được J.Rút xô – nhà tư tưởng người Pháp khẳng định “Mọi quyền lực
thuộc về nhân dân” trong khi đó cũng có nhiều quan điểm cho rằng vậy thì “Quyền lực
Nhà nước hay tất cả thuộc về nhân dân”. Như vậy, việc thống nhất quyền lực ở đây chỉ
là phương tiện, là hình thức để nhân dân sử dụng quyền lực dưới các kênh khác nhau. Ở
Nhà nước CHXHCN Việt Nam nhân dân sử dụng quyền lực dưới hai hình thức: trực
tiếp và gián tiếp. Hiến pháp 1992 quy định: “Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước
thông qua Quốc hội và HĐND…” Đây là những hình thức thực hiện quyền lực cơ bản

Page 5


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập Lớn học kỳ

nhất một cách gián tiếp thông qua chế định “Đại diện” Điều 53 Hiến pháp 1992 quy
định: “ Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thỏa luận
những vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước, biểu
quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân” đây là hình thức thực hiện quyền lực trực tiếp của
nhân dân. Như vậy quyền lực thuộc về nhân dân và nhân dân sử dụng quyền lực đó
dưới hình thức mà Hiến pháp quy định. Chúng ta cần lưu ý rằng ở đây người dân không

chỉ thực hiện quyền lực thông qua các cơ quan đại diện như Quốc hội và HĐND mà
còn sử dụng quyền lực thông qua cơ quan hành chính cũng như cơ quan xét xử và kiểm
sát để thực hiện quyền về hành pháp và tư pháp. Vì vậy việc vận dụng nguyên tắc tập
trung dân chủ trong quản lý hành chính Nhà nước cần phải hiều thấu đáo đúng bản chất
của việc nhân dân sử dụng quyền lực nếu không thì yếu tố dân chủ không được phản
ánh thực chất của nó. Vấn đề tiếp theo đó là việc thống nhất quyền lực.? Ở Nhà nước
CHXHCN Việt Nam quyền lực tập trung và thống nhất điều đó cũng dễ hiểu bởi lẽ
nguyên tắc tập quyền XHCN được áp dụng nguyên tắc này khác hoàn toàn nguyên tắc
phân quyền mà tư sản đã áp dụng. Do vậy, việc thống nhất quyền lực ở đây là thống
nhất vào Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân song để thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp thì Quốc hội không phải cơ quan duy nhất thực
hiện mà Quốc hội chỉ thiên về hoạt động lập pháp, lập hiến quyền giám sát tối cao còn
lại quyền hành pháp thuộc về Chính phủ quyền tư pháp thuộc về Tòa án Viện kiểm sát.
Như vậy, về quyền lực thống nhất ở đây chúng ta phải hiểu trước hết đó là sự thống
nhất mang tính tổng thể của các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp mặt khác sự thống
nhất ở đây còn phải hiểu là sự thống nhất mang tính hệ thống của các nhánh quyền lực,
trong đó có sự thống nhất về quản lý hành chính Nhà nước. Hiến pháp 1992 quy định: “
Chính phủ cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất
của nước CHXHCN Việt Nam” Điều đó cũng có nghĩa là về cơ bản mọi quyền hành
pháp thuộc về Chính phủ và Chính phủ là chủ thể cao nhất của quyền hành pháp đó,
Chính phủ thống nhất để điều hành quyền hành pháp trên phạm vi cả nước…Như vậy,
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, trước hết phải hiểu về “quyền lực thống nhất”
đó là sự thống nhất quyền lực Nhà nước nói chung cũng như sự thống nhất của hành
pháp nói riêng và nhân dân sử dụng quyền lực cũng không loại trừ việc thực hiện quyền
hành pháp này.
Vấn đề thứ hai đó là mối quan hệ giữa tập trung và dân chủ: về thực chất đây là
một nguyên tắc chỉ được xây dựng với một sự đảm bảo rất quan trọng đó là một Nhà

Page 6



Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập Lớn học kỳ

nước của dân, do dân, vì dân. “Dân chủ là bản chất của chế độ Nhà nước ta. Đảng và
Nhà nước ta luôn tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo sức mạnh to
lớn, góp phần quyết định vào thành công của cách mạng” Vì vậy mối quan hệ này phản
ánh đúng bản chất Nhà nước cũng như góp phần tích cực vào thực hiện quyền hành
pháp hiện nay đó là việc mở rộng dân chủ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Dân chủ
là của quý báu nhất của nhân dân”.

III. Ý nghĩa của nguyên tắc tập chung dân chủ trong hoạt động quản lý hành
chính Nhà nước ta hiện nay
Như chúng ta đã biết, quản lý hành chính Nhà nước là để thi hành pháp luật và
quyền này chủ yếu là thuộc về Chính phủ để thông qua đó Chính phủ quản lý toàn bộ
lĩnh vực của đời sống xã hội do vậy để có hiệu quả thì việc mở rộng dân chủ trong hoạt
động quản lý hành chính là một việc rất quan trọng và có ý nghĩa rất lớn, có tính quyết
định đẩy mạnh sự phát triển của xã hội, có mở rộng dân chủ ở lĩnh vực này thì nền hành
chính mới thật sự là nền hành chính của dân, do dân, vì dân được. Trong nhiều năm lại
đây do nhận thức được vấn đề này Đảng và Nhà nước ta cũng đã và đang từng bước có
những giải pháp khác nhau để mở rộng dân chủ. Ví dụ như xây dựng hoàn thiện các chế
định về dân chủ, đây là kênh rất quan trọng, nó tạo ra cơ sở pháp lý để người thực hiện
quyền dân chủ của mình. Ngoài ra còn có các kênh khác như vấn đề dân trí, vật chất
đặc biệt là việc hoàn thiện mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân trong quá trình đổi
mới hiện nay. Trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước hiện nay được thực hiện
bởi nhiều mối quan hệ khác nhau về tính chất, nội dung cũng như mục đích do vậy chủ
thể tham gia các quan hệ đó có những địa vị khác nhau. Chính vì thế mở rộng dân chủ ở
đây trước hết là mở rộng dân chủ trong mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân công
dân. Đây là mối quan hệ rất đặc biệt, mối quan hệ này không những là mục đích mà còn

là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước mà mối quan hệ đó được thiết lập
giữa một bên là người “làm chủ” (nhân dân) với một bên là “công bộc” (cán bộ công
chức) “người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Song mối quan hệ này lại được điều
chỉnh bằng phương pháp mệnh lệnh – phục tùng, mệnh lệnh thuộc về phía cán bộ công
chức còn phục tùng lại thuộc về phía nhân dân. Vì vậy việc mở rộng dân chủ là rất cần
thiết, một trong những nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền đó là “Người dân được tự
do làm tất cả những gì pháp luật không cấm , ngược lại cán bộ, công chức chỉ được
Page 7


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập Lớn học kỳ

phép làm những điều pháp luật cho phép” Chính vì vậy hiện nay việc cải cách thủ tục
hành chính là một trong những giải pháp để thực hiện nguyên tắc này cũng như quyền
dân chủ của người dân. Dân chủ trong nguyên tắc tập trung dân chủ điều đó cũng có
nghĩa là hoàn thiện mối quan hệ giữa chủ thể thực hiện quyền hành pháp ở Trung ương
với các chủ thể ở địa phương, giữa các chủ thể thực hiện quyền hành pháp ở cấp trên
với cơ quan hành chính cấp dưới giữa Thủ trưởng với nhân viên, cũng như cơ quan
hành chính với các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế… Để rồi ta có các giải pháp mở
rộng dân chủ cho các chủ thể đó trong xã hội.
Mặt khác để hoàn thiện mối quan hệ tập trung và dân chủ điều đó cũng có nghĩa
không chỉ mở rộng dân chủ mà không có yếu tố tập trung vì nếu dân chủ mà không tập
trung dẫn đến tình trạng vô Chính phủ, dân chủ bản bị, phường hội nó dẫn đến thực tế
“phép vua thua lệ làng”. Vì vậy, cần phải hiểu và xác định tính tập trung trong quan hệ
này cũng như tính biện chứng của chúng. Trước tiên phải xác định “tập quyền hành
chính” điều này được Hiến pháp 1992 quy định “ Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà
nước cao nhất”. Điều đó có nghĩa về cơ bản mọi quyền hành pháp trước hết đều phải

được tập trung vào Chính phủ, để Chính phủ thi hành pháp luật một cách thống nhất
trên phạm vi cả nước bằng hoạt động quản lý của mình. Tiếp đến là sự tập trung quyền
lực vào cơ quan hành chính cấp trên cũng như của thủ trưởng các cơ quan chuyên môn
theo nguyên tắc cũng như thể hiện tính quyền uy mệnh lệnh của hành pháp. Dĩ nhiên
yếu tố tập trung trong điều kiện mới hiện nay không dung nạp những biểu hiện của
quan liêu, mệnh lệnh dẫn đến tình trạng xa dân, vi phạm quyền dân chủ làm cho việc
thực hiện quyền hành pháp mất đi tính quyền lực “thuộc về nhân dân” hoàn thiện mối
quan hệ này: Ở Trung ương phải đảm bảo tính dân chủ; ở địa phương phải đảm bảo
được tính dân chủ; nguyên tắc “cán bộ là đầy tớ trung thành của nhân dân” cần phải
được quán triệt và hiểu đúng nghĩa của nó trong điều kiện hiện nay.
-

Page 8


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập Lớn học kỳ

KẾT LUẬN
Tập trung và dân chủ là một nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính Nhà
nước nhưng việc thực hiện đúng đắn nội dung của nguyên tắc này là một nhiệm vụ hết
sức khó khăn nhưng vô cùng quan trọng. Chỉ khi nào chúng ta kết hợp được sự tập
trung và dân chủ một cách hài hoà thì mới phát huy được hết vai trò của nguyên tắc này
trong thực tế xã hội nước ta hiện nay.
Việc tìm hiểu nguyên tắc tập trung dân chủ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô
cùng quan trọng đối với công tác quản lý xã hội và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Đặc biệt là đối với các nhà quản lý, họ cần phải tiếp
tục làm rõ nội dung, hình thức và sự vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong điều
kiện Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính Nhà nước phải
dựa trên quan niệm mới là quản lý tập trung trong điều kiện phát huy quyền tự chủ của
tất cả các chủ thể xã hội. Chỉ có như vậy, bản chất ưu việt của chế độ mới được phát
huy, sức mạnh của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới được thực thi và sức
sáng tạo của người dân mới được tôn trọng và giải phóng


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập Lớn học kỳ

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam,

Nxb. Công an nhân

dân, Hà Nội, 2007, 2008.

 Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb. Đại học
quốc gia, Hà Nội, 2005.

 Khoa khoa học quản lí, Trường đại học kinh tế quốc dân, Giáo trình quản lí xã hội, Nxb.
Khoa học và kĩ thuật, Hà Nội, 2000

 Học viện hành chính quốc gia, Hành chính công, Nxb. Thống kê, 2003
 Đinh Văn Mậu, Quyền lực nhà nước và quyền công dân, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2003
 Luật tổ chức Chính phủ năm 2001
 Luật tổ chức hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân năm 2003
Và một số website:













×