Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Quy định pháp luật về thu NSNN từ các khoản vay nợ ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.13 KB, 13 trang )

Bài tập nhóm tháng 1

A. MỞ ĐẦU.
Trong quá trình quản lý xã hội và nền kinh tế, trong từng giai đoạn nhất định,
Nhà nước có lúc cần huy động nguồn lực nhiều hơn từ trong và ngoài nước. Nói
cách khác, khi các khoản thu truyền thống như thuế, phí, lệ phí không đáp ứng
được các nhu cầu chi tiêu, Nhà nước phải quyết định vay nợ để thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của mình và chịu trách nhiệm trong việc chi trả khoản nợ
đó. Nguồn thu từ vay nợ được huy động và sử dụng không phải để thỏa mãn
những lợi ích riêng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, mà vì lợi ích chung của đất
nước. Xuất phát từ bản chất của Nhà nước là thiết chế để phục vụ lợi ích chung
của xã hội, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân nên đương nhiên các khoản nợ
được quyết định phải dựa trên lợi ích của nhân dân, mà cụ thể là để phát triển
kinh tế – xã hội của đất nước và phải coi đó là điều kiện quan trọng nhất. Vậy
pháp luật quy định như thế nào về việc thu ngân sách từ các khoản vay nợ và
thực tiễn áp dụng nó ra sao? Sau đây nhóm 2 xin trình bày về những vấn đề trên,
qua đó đưa ra một số ý kiến đánh giá và nhận xét.
B. NỘI DUNG.
I. Khái quát chung.
1. Một số khái niệm.
Điều 1 Luật NSNN quy định: Ngân sách nhà nước (NSNN) là toàn bộ các
khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết
định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước
Trong đó, thu NSNN là huy động một bộ phận giá trị sản phẩm xã hội, theo
quy định của pháp luật, làm hình thành quỹ NSNN.
Thu NSNN bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt
động kinh tế của Nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các
khoản viện trợ và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật (Khoản 1 Điều
2 Luật NSNN). Thu NSNN từ vay nợ là nguồn thu nằm trong các khoản thu khác.
Khác với các khoản nợ thông thường, khoản nợ này được xác định là một khoản


nợ mà Nhà nước (bao gồm các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) có trách nhiệm
trả phải trả. Trách nhiệm trả nợ của Nhà nước được thể hiện dưới hai góc độ trực
tiếp và gián tiếp. Trực tiếp được hiểu là cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ là
Nhóm 02 – Lớp N05.TL4

Page 1


Bài tập nhóm tháng 1

người vay và do đó, cơ quan nhà nước ấy sẽ chịu trách nhiệm trả nợ khoản vay
(ví dụ: Chính phủ Việt Nam hoặc chính quyền địa phương). Gián tiếp là trong
trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền đứng ra bảo lãnh để một chủ thể
trong nước vay nợ, trong trường hợp bên vay không trả được nợ thì trách nhiệm
trả nợ sẽ thuộc về cơ quan đứng ra bảo lãnh.
2. Lý do vay nợ là nguồn thu ngân sách nhà nước.
Chính phủ của một quốc gia vay nợ khi có sự bội chi ngân sách hay đơn
thuần chỉ là chi cho đầu tư phát triển – những khoản thu không thường xuyên. Ở
các nước trên thế giới và nước ta, khi nghiên cứu nội dung thu, chi cũng như tình
hình thâm hụt NSNN, cho thấy một nguyên tắc cần tuân thủ là tổng số thu
thường xuyên (bao gồm thu từ thuế và các khoản không mang tính chất vay nợ)
phải lớn hơn tổng số thu thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao cho
chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi (tổng thu thường xuyên nhỏ hơn
tổng chi), thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển. Như vậy, toàn bộ
số thâm hụt NSNN được dùng cho chi đầu tư phát triển; việc tìm kiếm nguồn bù
đắp thâm hụt NSNN cũng chính là việc tìm kiếm nguồn vốn đầu tư cho phát
triển. Mà nguồn bù đắp thâm hụt NSNN được sử dụng bao gồm: vay nợ của
Chính phủ hoặc phát hành tiền. Do đó để có nguồn vốn cho đầu tư phát triển
kinh tế, việc vay nợ hoặc phát hành tiền của Chính phủ nhằm bù đắp thâm hụt
NSNN là một việc làm rất cần thiết. Tuy nhiên, mức vay nợ của Chính phủ hoặc

lượng tiền phát hành có ảnh hưởng nhất định đến sự ổn định và phát triển của
nền kinh tế quốc gia.
II. Quy định pháp luật về thu NSNN từ các khoản vay nợ ở Việt Nam.
Điều 4 Nghị định 60/ 2003/ NĐ – CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
luật NSNN 2002 quy định:
“1. Bội chi NSNN là bội chi ngân sách trung ương được xác định bằng chênh
lệch thiếu giữa tổng số chi ngân sách trung ương và tổng số thu ngân sách trung
ương của năm ngân sách. Ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi
không vượt quá tổng số thu theo quy định tại khoản 3 Điều 8 luật NSNN”.
Và khoản 3 Điều 8 Luật NSNN 2002 nêu rõ:

Nhóm 02 – Lớp N05.TL4

Page 2


Bài tập nhóm tháng 1

“Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không
vượt quá tổng số thu; trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhu
cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp
tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được HĐND cấp
tỉnh quyết định, nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm
dự toán, thì được phép huy động vốn trong nước và phải cân đối ngân sách cấp
tỉnh hàng năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy
động không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm
của ngân sách cấp tỉnh”.
Khoản 2 Điều 4 Nghị định 60/2003/NĐ – CP tiếp tục quy định: “ Nguồn
bù đắp bội chi NSNN gồm:
1. Các khoản vay trong nước từ phát hành trái phiếu Chính phủ và từ các

nguồn tài chính khác;
2. Các khoản Chính phủ vay nước ngoài được đưa vào cân đối ngân sách..”
Như vậy, các khoản vay nợ của Chính phủ để bù đắp bội chi NSNN gồm: vay
trong nước và vay nước ngoài.
1. Vay nợ trong nước.
Thứ nhất, thực hiện bằng việc phát hành trái phiếu chính phủ. Trái phiếu
chính phủ là loại trái phiếu do Bộ Tài chính phát hành nhằm huy động vốn cho
ngân sách nhà nước hoặc huy động vốn cho chương trình, dự án đầu tư cụ thể
thuộc phạm vi đầu tư của nhà nước (khoản 1 Điều 2 Nghị định số 01/2011/NĐ CP). Trái phiếu chính phủ được phát hành dưới các hình thức: tín phiếu kho bạc,
trái phiếu kho bạc và công trái xây dựng Tổ quốc. Theo quy định tại Điều 10
Nghị định 01/2011/NĐ – CP: Tín phiếu kho bạc là loại trái phiếu Chính phủ có
kỳ hạn 13 tuần, 26 tuần hoặc 52 tuần và đồng tiền phát hành là đồng Việt Nam.
Các kỳ hạn khác của tín phiếu kho bạc do Bộ Tài chính quyết định tùy theo nhu
cầu sử dụng vốn và tình hình thị trường nhưng không vượt quá 52 tuần; Trái
phiếu kho bạc là loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn từ một năm trở lên và đồng
tiền phát hành là đồng tiền Việt Nam hoặc ngoại tệ tự do chuyển đổi nhằm huy
động vốn để bù đắp thâm hụt NSNN, đáp ứng nhu cầu chi đầu tư phát triển trong
kế hoạch NSNN được duyệt; Công trái xây dựng Tổ quốc là loại trái phiếu Chính
phủ có kỳ hạn từ một năm trở lên, đồng tiền phát hành là đồng Việt Nam và được
Nhóm 02 – Lớp N05.TL4

Page 3


Bài tập nhóm tháng 1

phát hành nhằm huy động nguồn vốn để đầu tư xây dựng những công trình quan
trọng quốc gia và các công trình thiết yếu khắc phục vụ sản xuất, đời sống, tạo
cơ sở vật chất, kỹ thuật cho đất nước.
Việc phát hành trái phiếu Chính phủ là một biện pháp quan trọng để tập trung

nguồn vốn cho NSNN. Bởi phát hành trái phiếu không làm tăng thêm lượng tiền
cần thiết lưu thông trên thị trường, không làm tăng sức mua chung của xã hội và
chủ động trong đầu tư. Đồng thời, nhờ hình thức này mà Nhà nước có thể tập
trung vốn cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng và những công trình trọng điểm thúc
đẩy sản xuất phát triển.
UBND cấp tỉnh được phát hành trái phiếu chính quyền địa phương. “Trái
phiếu chính quyền địa phương” là loại trái phiếu do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) phát hành
nhằm huy động vốn cho công trình, dự án đầu tư của địa phương (Theo khoản 3
Điều 2 Nghị định 01/2011/NĐ – CP).
Thứ hai, Trường hợp do ngân sách có thiếu hụt tạm thời, Bộ tài chính trình
Chính phủ để tạm ứng, lấy tiền từ ngân hàng nhà nước. Khoản 7 Điều 59 Luật
NSNN 2002 quy định: “7. Trường hợp quỹ NSNN thiếu hụt tạm thời thì được
tạm ứng từ quỹ dự trữ tài chính và các nguồn tài chính hợp pháp khác để xử lí;
riêng đối với ngân sách trung ương, nếu quỹ dự trữ tài chính và các nguồn tài
chính hợp pháp khác không đáp ứng được thì ngân hàng nhà nước tạm ứng cho
ngân sách trung ước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Việc tạm ứng từ
Ngân hàng nhà nước phải được hoàn trả trong năm ngân sách, trừ trường hợp
đặc biệt do UBTVQH quyết định”.
Điều 23 Luật Ngân sách nhà nước 2002 đã quy định về nhiệm vụ, quyền hạn
của Ngân hàng Nhà nước:
“1. Phối hợp với Bộ tài chính xây dựng chiến lược, kế hoạch vay nợ, trả nợ
trong nước và ngoài nước, xây dựng và triển khai thực hiện phương án vay
để bù đắp bội chi NSNN;
2. Tạm ứng cho NSNN để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ NSNN theo quyết định
của Thủ tướng Chính phủ”.
Điều 26 Luật ngân hàng Nhà nước cũng quy định: “Ngân hàng Nhà nước
tạm ứng cho ngân sách trung ương để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ ngân sách

Nhóm 02 – Lớp N05.TL4


Page 4


Bài tập nhóm tháng 1

nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Khoản tạm ứng này phải
được hoàn trả trong năm ngân sách, trừ trường hợp đặc biệt do Uỷ ban thường
vụ Quốc hội quyết định”
Ngoài ra, huy động từ các tổ chức, cá nhân cũng được coi là nguồn thu
NSNN từ vay nợ.
2. Vay nợ nước ngoài.
Để bù đắp thiếu hụt ngân sách dành cho chi đầu tư phát triển kinh tế, khi vay
trong nước không đáp ứng đủ. Vay nợ nước ngoài của chính phủ có ba loại: vay
từ nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA), vay ưu đãi của các tổ chức tài
chính, tiền tệ quốc tế (Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển Châu Á, Quỹ
tiền tệ quốc tế) và vay bằng việc phát hành trái phiếu chính phủ ra nước ngoài.
Vay nợ nước ngoài của Chính phủ phải hướng vào các nguồn lớn và có lãi suất
ưu đãi. Khoản vay này ở nước ta chiếm vị trí quan trọng trong nguồn bồi đắp bội
chi ngân sách.
Vấn đề vay nợ nước ngoài được quy định tại Nghị định 134/2005/NĐ – CP về
ban hành quy chế quản lí vay và trả nợ nước ngoài như sau
Theo khoản 2 Điều 2:
“ Vay nước ngoài của Việt Nam: là các khoản vay ngắn hạn (có thời hạn vay đến
một năm), trung và dài hạn (có thời hạn vay trên một năm), có hoặc không phải
trả lãi, do Nhà nước, Chính phủ Việt Nam và các tổ chức là người cư trú ở Việt
Nam (sau đây gọi tắt là người vay) vay của các tổ chức tài chính quốc tế, Chính
phủ các nước, các tổ chức và cá nhân là người không cư trú (sau đây gọi tắt là
người cho vay nước ngoài).
Theo Điều 6. Phân công trách nhiệm quản lý nhà nước về vay, trả nợ nước

ngoài:
“1. Bộ Tài chính, cơ quan đầu mối của Chính phủ thực hiện việc quản lý nhà
nước về vay và trả nợ nước ngoài của quốc gia, có trách nhiệm:
a) Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quản lý nợ
trung hạn, kế hoạch hàng năm về vay và trả nợ nước ngoài trên cơ sở tổng hợp
kế hoạch vay và trả nợ nước ngoài của Chính phủ, của các tổ chức thuộc khu
vực công và tổng hạn mức vay thương mại nước ngoài của quốc gia;
Nhóm 02 – Lớp N05.TL4

Page 5


Bài tập nhóm tháng 1

……..
d) Tổ chức đàm phán, ký kết các Điều ước quốc tế về vay và bảo lãnh vay
vốn nước ngoài của Chính phủ theo uỷ quyền hoặc phân công của Thủ tướng
Chính phủ;
đ) Đại diện chính thức cho người vay đối với các khoản vay nước ngoài của
Nhà nước, Chính phủ tại thoả thuận vay cụ thể”.
II. Thực tiễn áp dụng thu ngân sách từ các khoản vay nợ ở Việt Nam.
1. Vay nợ trong nước.
Vay trong nước được chính phủ thực hiện dưới hình thức phát hành công
trái, trái phiếu. Công trái, trái phiếu là những chứng chỉ ghi nhận nợ của nhà
nước, là một loại chứng khoán hay trái khoán do nhà nước phát hành để vay các
dân cư ,các tổ chức kinh tế xã hội và ngân hàng. Ở Việt Nam chính phủ thường
ủy nhiệm cho kho bạc nhà nước phát hành trái phiếu dưới các hình thức tín phiếu
kho bạc và trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình.
Năm

Số tiền vay trong nước (tỷ đồng)
2007
43000
2006
36000
2005
32420
2004
27450
2003
22895
2002
18382
Việc phát hành trái phiếu Chính phủ là một biện pháp quan trọng để tập trung
nguồn vốn cho ngân sách nhà nước. Bởi vì phát hành trái phiếu không làm tăng
thêm lượng tiền cần thiết lưu thông trên thị trường, không làm tăng sức mua
chung của xã hội, chủ động trong đầu tư, và nhờ hình thức này mà nhà nước có
thể tập trung vốn cho việc xây dựng cơ cở hạ tầng và những công trình trọng
điểm thúc đẩy sản xuất phát triển. Tuy nhiên, việc phát hành trái phiếu cần phải
chú ý là không thể dùng biện pháp hành chính quá nhiều để phát hành trái phiếu
một cách bắt buộc, cũng không thể quy định thời gian hoàn trả quá dài. Theo
kinh nghiệm của một số nước, việc phát hành trái phiếu Chính phủ sẽ ảnh hưởng
đến việc tăng lãi suất, nhất là lãi suất thực, và vì thế giá cả có xu hướng gia tăng.
Mặt khác, nếu Chính Phủ tăng cường vay nợ trong nước, số tiết kiệm của dân cư

Nhóm 02 – Lớp N05.TL4

Page 6



Bài tập nhóm tháng 1

giảm, sẽ ảnh hưởng đến đầu tư của khu vực tư nhân, và vì thế hạn chế sự đóng
góp của các thành phần kinh tế khác vào sự phát triển kinh tế.
Ưu điểm: Đây là biện pháp cho phép chính phủ có thể giảm bội chi ngân
sách mà không cần phải tăng cơ sở tiền tệ hoặc giảm dự trữ quốc tế. Vì vậy, biện
pháp này được coi là một cách hiệu quả để kiềm chế lạm phát. Về qui mô, đây
tuy là một nguồn thu chiếm tỉ lệ nhỏ chiếm khoảng 0.7% GDP nhưng có vai trò
khá quan trọng trong việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế trước mắt đảm bảo tính
kịp thời
Nhược điểm: việc khắc phục bội chi ngân sách bằng nợ tuy không gây ra lạm
phát trước mắt nhưng nó lại có thể làm tăng áp lực lạm phát trong tương lai nếu
như tỷ lệ nợ trong GDP liên tục tăng. Thứ nữa, việc vay từ dân trực tiếp sẽ làm
giảm khả năng khu vực tư nhân trong việc tiếp cận tín dụng và gây sức ép làm
tăng lãi suất trong nước.
Đặc biệt, ở những nước trải qua giai đoạn lạm phát cao (như nước ta hiện
nay), giá trị thực của trái phiếu chính phủ giảm nhanh chóng, làm cho chúng trở
nên ít hấp dẫn.Chính phủ có thể sử dụng quyền lực của mình để buộc các chủ thể
khác trong nền kinh tế phải giữ trái phiếu.Tuy nhiên, nếu việc làm này kéo dài sẽ
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của chính phủ và khiến cho việc huy
động vốn thông qua kênh này sẽ trở nên khó khăn hơn vào các năm sau.
Một số điểm đã đạt được đối với vay nợ trong nước: hàng năm ngân hàng
phải huy động một khoản tiền nhàn rỗi trong nước tương đối lớn để bù đắp bội
chi ngân sách. Để việc huy động vốn không ảnh hưởng lớn đến thị trường tiền tệ,
đến lãi suất, Bộ tài chính thực hiện chính sách trước hết thực hiện vay vốn nhàn
rỗi từ các quỹ tài chính nhà nước như : quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ tích lũy trả nợ,
phần còn thiếu sẽ thực hiện phát hành trái phiếu và tín phiếu chính phủ .Đối với
tín phiếu (loại thời hạn 1 năm), thực hiện phối hợp với ngân hàng nhà nước đấu
thầu (đấu thầu về lãi suất) qua ngân hàng nhà nước, đây là biện pháp vừa để đảm
bảo nguồn bù đắp bội chi cho ngân sách nhà nước, đồng thời cũng tạo điều kiện

cho các tổ chức tín dụng có nguồn vốn nhàn rỗi, chưa cho vay được thực hiện
mua trái phiếu này (kết quả cho thấy trong năm qua nhiều tổ chức tín dụng đã
mua tín phiếu kho bạc).
2. Vay nợ nước ngoài.
Nhóm 02 – Lớp N05.TL4

Page 7


Bài tập nhóm tháng 1

Chính phủ có thể giảm bội chi ngân sách bằng các nguồn vốn nước ngoài
thông qua việc nhận viện trợ nước ngoài hoặc vay nợ nước ngoài từ các chính
phủ nước nước ngoài, các định chế tài chính thế giới như ngân hàng thế
giới(WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), các
tổ chức liên chính phủ, tổ chức quốc tế …
Viện trợ nước ngoài là nguồn vốn phát triển của các chính phủ ,các tổ chức
nhằm thực hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội và hiện nay
chủ yếu là nguồn vốn phát triển chính thức ODA.
Vay nợ nước ngoài có thể thực hiện dưới các hình thức phát hành trái phiếu
bằng ngoại tệ mạnh ra nước ngoài, vay bằng hình thức tín dụng…
Ưu điểm: Nó là một biện pháp giảm bội chi ngân sách hữu hiệu ,có thể bù
đắp được các khoản bội chi mà lại không gây sức ép lạm pháp cho nền kinh tế.
Đây cũng là một nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn thiếu hụt trong
nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế -xã hội.
Nhược điểm: Nó sẽ khiến cho gánh nặng nợ nần, nghĩa vụ trả nợ tăng lên,
giảm khả năng chi tiêu cho chính phủ. Đông thời ,nó cũng dễ khiến cho nền kinh
tế trở nên bị phụ thuộc vào nước ngoài.Thậm chí ,nhiều khoản vay,khoản viện
trợ còn đòi hỏi kèm theo đó là nhiều các điều khoản về chính trị, quân sự, kinh tế
khiến cho các nước đi vay bị phụ thuộc nhiều .

Một số điểm đã đạt được: Đối với vay nợ nước ngoài, thực hiện chính sách
chỉ vay ưu đãi nước ngoài, không vay thương mại nước ngoài cho đầu tư phát
triển .Đối với những khoản vay thương mại nước ngoài và nợ quá hạn trước đây
đã được xử lý qua câu lạc bộ Pari và câu lạc bộ Luân Đôn. Thực hiện xử lý nợ
với Nga, Angiêri…Nhờ thực hiện tốt quá trình cơ cấu lại nợ, cũng như chính
sách vay mới mà dư nợ Chính phủ hiện nay ở mức 35% GDP vào năm 2005,
mức an toàn, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Trong những năm gần đấy tỉ lệ
vay nợ Nhà nước có xu hướng tăng do Nhà nước đã thực hiện các bước xử lý nợ
thích hợp, góp phần vào việc bình thuờng hoá quan hệ với các nước chủ nợ,
đồng thời tiềm năng phát triển kinh tế của nước ta trong vài năm gần đây đã có
sức thuyết phục tạo điều kiện cho Nhà nước vay được nhiều nguồn vốn ở các tổ
chức khác nhau trên thế giới. làm cho nguồn vốn tăng nhanh, Nhà nước có điều

Nhóm 02 – Lớp N05.TL4

Page 8


Bài tập nhóm tháng 1

kiện đầu tư vào cơ sở hạ tầng và các ngành kinh tế trọng điểm tạo sức phát triển
kinh tế một cách vững chắc. Hơn 10 năm qua nguồn vốn ODA đã có nhưng đóng
góp nhất định cho sự nghiệp phát triển của đất nước, ODA trở thành nguồn vốn
chính cho các chương trình quốc gia như cải tạo nâng cấp và phát triển hạ tầng
cơ sở đặc biệt là giao thông, chương trình giáo dục, xoá đói giảm nghèo….Đặc
biệt trong thời gian qua nguồn vốn ODA không chỉ giúp Việt Nam đảm bảo tăng
trưởng kinh tế cao mà còn giúp cải thiện đáng kể vị trí của Việt Nam trong bảng
xếp hạng quốc gia và chỉ số phát triển con người của Liên hợp quốc.
Năm
Số tiền vay nước ngoài (tỷ đồng)

2007
13500
2006
12500
2005
8326
2004
7253
2003
7041
2002
7125
Tuy vậy, Nhà nước phải lưu ý đến việc tính toán chặt chẽ lãi suất, khả
năng và hiệu quả của việc sử dụng vốn vay. Trong giai đoạn đầu, chưa nên đặt
việc phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế nhằm chủ yếu để huy động
vốn (vì khả năng huy động chưa nhiều, lãi suất cao), mà chỉ là một buớc giúp
chúng ta tiếp cận với thị trường vốn quốc tế, xác định chỗ đứng trên thị trường
này để tiếp tục phát triển trong tương lai.
3.Vay nợ ngân hàng (in tiền).
Chính phủ khi bị thâm hụt ngân hàng sẽ đi vay ngân hàng trung ương để
bù đắp .đáp ứng nhu cầu này ,tất nhiên ,ngân hàng trung ương sẽ tăng việc in
tiền.Điều này sẽ tạo ra thêm cơ sở tiền tệ .Chính vì vậy ,nó được gọi là tiền tệ
hóa thâm hụt.
Ưu điểm: của biện pháp này là nhu cầu tiền để bù đắp ngân sách nhà nước
được dáp ứng một cá nhanh chóng, không phải trả lãi, không phải gánh thêm các
gánh nặng nợ nần.
Nhược điểm: của biện pháp này là hại lớn hơn lợi rất nhiều lần .Việc in
thêm và phát hành thêm tiền sẽ khiến cho cung tiền vượt cầu tiền. nó đẩy cho
Nhóm 02 – Lớp N05.TL4


Page 9


Bài tập nhóm tháng 1

việc lạm phát trở nên không thể kiểm soát nổi.Viêt nam từ năm1988 trở về trước
bội chi ngân sách được nhà nước bù đắp chủ yếu bằng cách phát hành thêm tiền
vào lưu thông dẫn đến tốc độ lạm phát rất cao, năm 1986 là 774,7%, năm 1987 là
223,1%, 1988 là 393,8%; nhưng từ năm1991 mặc dù bội chi ngân sách còn ở
mức lớn, độ bù đắp bằng các biện pháp tích cực khác nên lạm phát đã giảm
nhanh và đã được kiểm soát ở mức một con số cho đến nay. Chính vì những hậu
quả đó, biện pháp này rất ít khi được sử dụng. Và từ năm 1992 nước ta đã chấm
dứt hoàn toàn việc in tiền để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước.
IV. Một số nhận xét, đánh giá về vấn đề thu ngân sách nhà nước từ các
khoản vay nợ ở Việt Nam.
Vay nợ chính phủ là một vấn đề lớn và vô cùng quan trọng đối với tất cả
các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Đặc biệt trong tình
hình hiện nay, do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, vấn đề nợ chính
phủ của Việt Nam có xu hướng tăng cao trong thời gian tới. Vì vậy, vấn đề tìm ra
những giải pháp nhằm hoạch định chính sách và quản lý chặt chẽ việc vay và trả
nợ một cách có hiệu quả là vô cùng cấp thiết.
1.Về quy định của pháp luật về các khoản vay nợ của Việt Nam.
Quy định của pháp luật nước ta về vay nợ đã được cụ thể hóa trong Luật
quản lý nợ công năm 2009, luật này ra đời đã tạo dựng được một khung pháp lí
trong quản lý các khoản vay nợ của Việt Nam. Sự ra đời của Luật quản lý nợ
công đã tạo ra một bước tiến mới trong hoạt động thu ngân sách nhà nước từ các
khoản vay nợ của nước ta.
Theo đó, đã có sự hiểu và giải thích nhất quán các khái niệm về nợ cũng
như phạm vi quản lý nợ trong các văn bản pháp quy hiện hành như nợ Chính
phủ, nợ khu vực công, nợ quốc gia, nợ nước ngoài. Việc phân loại, tổng hợp nợ

vì vậy cũng bắt đầu theo kịp các chuẩn mực quốc tế.
Bên cạnh đó, nguyên tắc Chính phủ thống nhất quản lý nợ được nêu trong
Luật ngân sách nhà nước đã được cụ thể hóa và thực hiện trên thực tế, đã có sự
kết hợp quản lý nợ trong nước và nợ ngoài nước.

Nhóm 02 – Lớp N05.TL4

Page 10


Bài tập nhóm tháng 1

2. Việc thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về thu ngân sách nhà nước
từ các khoản vay nợ của Việt Nam.
Theo Báo cáo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2015
đã được Chính phủ trình Quốc hội, nợ công của Việt Nam tính đến hết năm 2012
và 2015, con số này sẽ lần lượt là 58,4% và 60-65% GDP. Nếu những tính toán
trên trở thành hiện thực thì trong vòng 4 năm tới, nợ công của Việt Nam sẽ vượt
60% - ngưỡng được Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) gần đây cho là an toàn để kiểm
soát. Dẫn chiếu khuyến cáo này, Chủ tịch Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu cho biết với những nước đang phát triển như Việt Nam, nợ
công thậm chí chỉ nên kiểm soát ở mức dưới 40%.
Trong cơ cấu vay nợ của nước ta, vay nợ nước ngoài chiếm hơn 60% các
khoản vay nợ của Việt Nam (theo danh mục nợ công của Bộ Tài chính năm
2009). Theo một số tài liệu về các cuộc khủng hoàng trên thế giới cho thấy, khi
vay nợ nước ngoài cao, Chính phủ sẽ mất đi tính chủ động khi ứng phó với các
biến động của tình hình thế giới, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro về cơ cấu nợ trong tương
lai và khi vay nợ nước ngoài tới ngưỡng kiểm soát, thì Việt Nam cũng sẽ không
nằm ngoài ngoại lệ trên.
Tuy nhiên,khác với một số nước hiện nay đang rơi vào tình trạng nợ công
“một cách khốn đốn” thì cơ cấu vay nợ nước ngoài của Việt Nam khá đa dạng

(JPY 38,25%; SDR 26,64%; USD 22.95%; EUR 9,21%; Khác 2,94%). Điều này
được cho là ta có thể hạn chế rủi ro về tỉ giá, giảm áp lực lên nghĩa vụ trả nợ của
Chính phủ. Tuy nhiên, cơ cấu này cũng tiềm ẩn những rủi ro khi thị trường tài
chính thế giới có biến động, nhất là khi tỉ giá USD/VND luôn có xu hướng tăng.
Mặt khác, cũng không thể không nhắc đến việc hiện nay, các nguồn vốn vay
vẫn chưa được sử dụng hiệu quả, nhất là vốn ODA.
Nhằm nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng các quy định pháp luật vào
việc thu NSNN từ các khoản vay nợ, cần có một số phương hướng giải pháp,
cụ thể như:
- Tăng cường kiểm soát và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay
- Công khai và minh bạch thông tin trong quản lí vay nợ, đặc biệt là đối
với một số khoản vay như nguồn vốn ODA - Nguồn vốn gắn bó với lợi ích thiết
Nhóm 02 – Lớp N05.TL4

Page 11


Bài tập nhóm tháng 1

thân của người dân, sự minh bạch sẽ giúp nguồn vốn này được sự giám sát của
nhân dân, do đó, sẽ được sử dụng một cách có hiệu quả hơn.
- Nâng cao vai trò của hệ thống kiểm tra, giám sát tài chính
- Giảm tình trạng về thâm hụt ngân sách nhà nước
Ngoài ra hiện nay, các định chế tài chính phát triển trong nước như Ngân
hàng nhà nước ngày càng được trao quyền chủ động hơn trong việc lên kế hoạch
cũng như trực tiếp thực hiện các khoản vay nợ tạo nguồn thu cho ngân sách nhà
nước. Chính vì vậy, các chế định này cần có những quy chế rõ ràng liên quan
đến hoạt động vay nợ và thực hiện nghiêm chỉnh các quy chế đó để nguồn thu
ngân sách từ vay nợ trở thành nguồn thu ổn định và an toàn.
Đồng thời, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình hội nhập cơ hội nhiều

và thách thức cũng không ít- nhưng dù là gì, Chính phủ đều cần phải cố gắng
nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam bằng những việc như:
tái cấu trúc nền kinh tế, nâng cao năng suất lao động, chú trọng hoạt động đào
tạo, y tế nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nhân
dân, đẩy mạnh hợp tác khu vực và quốc tế....
C. KẾT LUẬN.
Bên cạnh những ưu điểm và tích cực thì vẫn còn tồn tại rất nhiều bất cập và
hạn chế trong việc vay nợ, do đó Nhà nước cần ban hành những quy định và có
những chính sách phù hợp hơn, đảm bảo cho nguồn vốn vay được sử dụng hợp
lý, trách xảy ra tiêu cực đồng thời cần có những biện pháp quản lý chặt chẽ hơn
trong công tác phân bổ ngân sách. Bên cạnh đó cần đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh
vực quan trọng và mang tính chủ đạo, ưu tiên những ngành nghề trọng điểm là
thế mạnh và mang tính chiến lược lâu dài. Nhà nước cần quan tâm hơn tới việc
đổi mới cơ chế quản lý nhằm thúc đẩy đầu tư từ các doanh nghiệp trong và ngoài
nước; pháp luật về vay nợ cũng cần phải cụ thể hơn, không mang tính chung
chung nhằm quy định rõ nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan, chủ thể trong
quá trình vay nợ.

Nhóm 02 – Lớp N05.TL4

Page 12


Bài tập nhóm tháng 1

MỤC LỤC

Nhóm 02 – Lớp N05.TL4




×