I.Khái quát chung về thuế thu nhập cá nhân.
1.Khái niệm và đặc điểm thuế thu nhập cá nhân;
a, Khái niệm
Thuế thu nhập cá nhân là một loại thuế trực thu đánh trên thu nhập của các cá
nhân trong từng thời kì. Thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế xuất hiện tương đối
sớm. Lần đầu tiên nó xuất hiện ở nước Anh vào năm 1799. Đầu tiên nó đã bị phản
đối rất nhiều, bản thân thủ tướng nước Anh William Pitt năm 1798 đã từng nói “
Thật là nhục nhã và xấu hổ đối với cơ quan thuế và hình ảnh của một quốc gia khi
bắt một quí ông hay một quí cô phải nói với ai đó về thu nhập của họ”. Nhưng chỉ
một năm sau thì chính ông đã phải thay đổi quan điểm, và thuế thu nhập cá nhân
đã ra đời. Ở Mỹ, thuế thu nhập cá nhân đã xuất hiện trong thời kì chiến tranh 1812,
và nó cũng dựa vào điều luật thuế của nước Anh năm 1798. Sau 1815, nó lại bị xoá
bỏ ở Mỹ do Nhà nước không có nhu cầu tăng thu ngân sách. Nhưng cho đến năm
1862, thuế thu nhập cá nhân lại quay trở lại nước Mỹ sau khi Bộ luật thuế 1862
được tổng thống Licoln phê chuẩn, nó nhằm mục đích cung cấp nguồn tài chính
cho cuộc nội chiến của nước Mỹ . Ở một số nước khác thuế thu nhập cá nhân cũng
xuất hiện từ khá sớm, nước Nhật năm 1887,Trung Quốc năm 1936 còn Hàn Quốc
thì loại thuế này ra đời muộn hơn vào năm 1974 .
Tóm lại, thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu, đánh vào thu nhập của
cá nhân cư trú và không cư trú.
b, Đặc điểm
Thuế thu nhập cá nhân là lại thuế trực thu đánh vào thu nhập chính đáng của
từng cá nhân. Do là thuế trực thu nên nó phản ánh sự đồng nhất giữa đối tượng nộp
thuế theo luật và đối tượng chịu thuế theo ý nghĩa kinh tế. Người chịu thuế thu
nhập cá nhân không có khả năng chuyển giao gánh nặng thuế khoá sang cho các
đối tượng khác tại thời điểm đánh thuế.
Thuế TNCN có diện đánh thuế rất rộng, thể hiện trên hai khía cạnh: một là đối
tượng đánh thuế TNCN là toàn bộ các khoản thu nhập của cá nhân thuộc diện đánh
thuế không phân biệt thu nhập đó có nguồn gốc phát sinh trong nước hay ở nước
ngoài; hai là đối tượng phải kê khai nộp thuế TNCN là toàn bộ những người có thu
nhập, bao gồm tất cả công dân của nước sở tại và những người nước ngoài cư trú
thường xuyên hay không thường xuyên nhưng có số ngày có mặt, làm việc, có thu
nhập theo mức độ quy định của pháp luật thuế TNCN.
Thuế TNCN là một loại thuế thu nhập nhưng khác với thuế Thu nhập doanh
nghiệp ở chỗ nó có tính tất yếu gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc gia cho dù
quốc gia đó có mục tiêu hoàn thiện chính sách thuế, xây dựng một chính sách thuế
có tính trung lập không nhằm nhiều mục tiêu khác nhau. Thể hiện, nó luôn quy
định loại trừ một số khoản thu nhập trước khi tính thuế TNCN như thu nhập mang
tính trợ cấp xã hội, khoản chi cần thiết cho cuộc sống cá nhân, gia đình người nộp
thuế, khoản chi mang tính nhân đạo xã hội..
Thuế TNCN có góc độ kỹ thuật tính thuế khá phức tạp bởi diện đánh thuế rộng,
liên quan chặt chẽ với hoành cảnh cá nhân, chính sách xã hội cụ thể, có áp dụng
phương pháp luỹ tiến. Có như vậy mới đảm bảo công bằng xã hội, người có thu
nhập cao hơn thì trước và sau khi nộp thuế họ vẫn còn một khoản thu nhập cao hơn
so với người có thu nhập thấp khi chưa nộp thuế.
2.Bản chất thuế thu nhập cá nhân
Như đã trình bày ở trên ta có thể thấy rằng thuế thu nhập cá nhân là sắc thuế
trực thu đánh vào thu nhập chịu thuế của cá nhân trong kỳ tính thuế. Thu nhập chịu
thuế thu nhập cá nhân (thuế tncn) trong kỳ tính thuế là thu nhập sau khi đã giảm rừ
các khoản chi phí liên quan để tạo ra thu nhập, các khoản giảm trừ thuế thu nhập cá
nhân mang tính chất xã hội và các khoản giảm trừ khác.
Thuế thu nhập cá nhân là (thuế tncn) thuế trực thu do người chịu thuế đồng
thời là người nộp thuế
Thuế thu nhập cá nhân (thuế tncn) là loại thuế có độ nhạy cảm cao vì thuế thu
nhập cá nhân liên quan đến lợi ích cụ thể của người nộp thuế và liên quan đến hầu
hết mọi cá nhân trong xã hội.
Thuế thu nhập cá nhân (thuế tncn) thường mangh tính lũy tiến cao. Vì thuế thu
nhập cá nhân đánh theo nguyên tắc khả năng trả thuế và thuế suất của nó thường
được thiết kế theo biểu thuế lũy tiến từng phần nhằm đảm bảo tính công bằng giữa
các đối tượng trả thuế.
Thuế thu nhập cá nhân (thuế tncn) không bóp méo giá cả bằng hàng hóa, dịch vụ.
Thuế thu nhập cá nhân (thuế tncn) không cấu thành trong giá bán (giá thanh toán)
hàng hóa, dịch vụ nên nó không tọa ra sự sai lệch giá cả hàng hóa dịch vụ.
II. Quy định của pháp luật về thu nhập chịu thuế trong thuế thu
nhập cá nhân
1. Đối tượng nộp thuế
Theo quy định tại Điều 2 của Luật Thuế thu nhập cá nhân, Điều 2 của Nghị
định số 100/2008/NĐ-CP ngày 8/9/2008 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân, đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân bao
gồm cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú. Phạm vi xác định thu nhập chịu thuế
của đối tượng nộp thuế như sau:
Đối với cá nhân cư trú, thu nhập chịu thuế là thu nhập phát sinh trong và
ngoài lãnh thổ Việt Nam, không phân biệt nơi trả và nhận thu nhập.
Đối với cá nhân không cư trú, thu nhập chịu thuế là thu nhập phát sinh tại
Việt Nam, không phân biệt nơi trả và nhận thu nhập.
Theo quy định này thì ta phải xác định cá nhân cư trú và cá nhân không cư
tại việt Nam. Theo khoản 2 Điều 2 Luật thuế thu nhập cá nhân thì cá nhân cư trú là
người đáp ứng một trong các điều kiện sau:
- Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch
hoặc trong 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam.
- Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam theo một trong hai trường hợp: Có nơi
ở đăng ký thường trú theo quy định của pháp luật về cư trú và có nhà thuê để ở tại
Việt Nam theo quy định của pháp luật về nhà ở, với thời hạn của hợp đồng thuê từ
90 ngày trở lên trong năm tính thuế.
Cá nhân không cư trú là người không đáp ứng điều kiện nêu tại khoản 1 nêu
trên.
Theo Thông tư 84, cá nhân kinh doanh thuộc diện nộp thuế thu nhập cá
nhân. Theo quy định trước đây, cá nhân kinh doanh thuộc diện chịu thuế thu nhập
doanh nghiệp. Sự thay đổi này đảm bảo tính công bằng trong điều tiết thu nhập.
Thu nhập từ bất kì nguồn nào của cá nhân cũng đều chịu thuế thu nhập cá nhân.
Việc điều tiết thu nhập của cá nhân kinh doanh theo Luật thuế thu nhập cá nhân
thực hiện theo phương pháp lũy tiến rất có ý nghĩa đối với các hộ kinh doanh nhỏ ở
Việt Nam. Ngoài ra, quy định này cũng đảm bảo tính thông lệ vì hầu hết các nước
đều đưa cá nhân kinh doanh vào diện nộp thuế thu nhập cá nhân.
* Đối tượng nộp thuế bao gồm:
- Cá nhân có quốc tịch Việt Nam kể cả cá nhân được cử đi công tác, lao
động, học tập ở nước ngoài có thu nhập chịu thuế.
- Cá nhân là người không mang quốc tịch Việt Nam nhưng có thu nhập chịu
thuế, bao gồm: người nước ngoài làm việc tại Việt Nam; người nước ngoài không
hiện diện tại Việt Nam nhưng có thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam.
Như vậy có thể thấy đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân theo Luật thuế thu
nhập cá nhân 2007 rất rộng không phân biệt là người Việt Nam hay người nước
ngoài chỉ cần là cá nhân cư trú tại Việt Nam có thu nhập thì không phân biệt thu
nhập phát sinh ở đâu. Với cá nhân không cư trú thì chỉ cần có thu nhập phát sinh
tại Việt Nam thuộc đối tượng chịu thuế thu nhập sẽ phải đóng thuế. Việc phân loại
cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú có ý nghĩa trong việc xác định nghĩa vụ nộp
thuế thu nhập khi mà quy định về phương pháp tính thuế đối với hai đối tượng nộp
thuế này khác nhau.
2. Thu nhập chịu thuế theo Luật thuế TNCN
Theo quy định tại Điều 3 của Luật Thuế thu nhập cá nhân và Điều 3 của
Nghị định số 100/2008/NĐ-CP, các khoản thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân
bao gồm:
1. Thu nhập từ kinh doanh
Thu nhập từ hoạt động kinh doanh, bao gồm: thu nhập từ hoạt động sản
xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; thu nhập từ hoạt động hành nghề độc lập của
cá nhân có giấy phép hoặc chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật.
Doanh thu là toàn bộ tiền bán hàng, tiền gia công, tiền hoa hồng, tiền cung
ứng hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong kỳ tính thuế từ các hoạt động sản xuất, kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ.
Thời điểm xác định doanh thu là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu
hàng hoá, hoàn thành dịch vụ hoặc thời điểm lập hoá đơn bán hàng, cung ứng
dịch vụ.
2. Thu nhập từ tiền lương, tiền công
Thu nhập từ tiền lương, tiền công là các khoản thu nhập người lao động
nhận được từ người sử dụng lao động dưới các hình thức bằng tiền hoặc không
bằng tiền.
Thu nhập từ tiền lương, tiền công bao gồm:
- Tiền lương, tiền công và các khoản có tính chất tiền lương, tiền công;
- Các khoản phụ cấp, trợ cấp, trừ các khoản phụ cấp, trợ cấp theo quy định
của pháp luật về ưu đãi người có công, phụ cấp quốc phòng, an ninh, phụ cấp độc
hại, nguy hiểm đối với những ngành, nghề hoặc công việc ở nơi làm việc có yếu tố
độc hại, nguy hiểm, phụ cấp thu hút, phụ cấp khu vực theo quy định của pháp luật,
trợ cấp khó khăn đột xuất, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trợ cấp một
lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi, trợ cấp do suy giảm khả năng lao động,
trợ cấp hưu trí một lần, tiền tuất hàng tháng, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm
theo quy định của Bộ luật lao động, các khoản trợ cấp khác do Bảo hiểm xã hội chi
trả, trợ cấp giải quyết tệ nạn xã hội;
- Tiền thù lao dưới các hình thức;
- Tiền nhận được từ tham gia hiệp hội kinh doanh, hội đồng quản trị, ban
kiểm soát, hội đồng quản lý và các tổ chức;
- Các khoản lợi ích khác mà đối tượng nộp thuế nhận được bằng tiền hoặc
không bằng tiền;
- Tiền thưởng, trừ các khoản tiền thưởng kèm theo các danh hiệu được Nhà
nước phong tặng, tiền thưởng kèm theo giải thưởng quốc gia, giải thưởng quốc tế,
tiền thưởng về cải tiến kỹ thuật, sáng chế, phát minh được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền công nhận, tiền thưởng về việc phát hiện, khai báo hành vi vi phạm
pháp luật với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thời điểm xác định thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công là thời điểm
tổ chức, cá nhân trả thu nhập cho đối tượng nộp thuế hoặc thời điểm đối tượng nộp
thuế nhận được thu nhập.
3. Thu nhập từ đầu tư vốn
Thu nhập từ đầu tư vốn là khoản thu nhập nhận được từ hoạt động cho cơ sở
sản xuất, kinh doanh vay, mua cổ phần hoặc góp vốn sản xuất, kinh doanh dưới
các hình thức: Tiền lãi cho vay; Lợi tức cổ phần; Thu nhập từ đầu tư vốn dưới các
hình thức khác, trừ thu nhập từ lãi trái phiếu Chính phủ.
Thời điểm xác định thu nhập chịu thuế từ đầu tư vốn là thời điểm tổ chức, cá
nhân trả thu nhập cho đối tượng nộp thuế hoặc thời điểm đối tượng nộp thuế nhận
được thu nhập.
4. Thu nhập từ chuyển nhượng vốn
Thu nhập từ chuyển nhượng vốn là khoản tiền lãi nhận được từ việc chuyển
nhượng vốn của cá nhân trong các trường hợp sau: Thu nhập từ chuyển nhượng
phần vốn góp trong các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty cổ
phần, các hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp tác xã, tổ chức kinh tế, tổ chức khác;
Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán; Thu nhập từ chuyển nhượng vốn dưới
các hình thức khác.
Thời điểm xác định thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng vốn là thời điểm
giao dịch chuyển nhượng vốn hoàn thành theo quy định của pháp luật.
5. Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản
Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản là khoản thu nhập nhận được từ
việc chuyển nhượng bất động sản, bao gồm: Thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử
dụng đất; Thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với
đất; Thu nhập từ chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc sử dụng nhà ở; Thu nhập từ
chuyển quyền thuê đất, thuê mặt nước; Các khoản thu nhập khác nhận được từ
chuyển nhượng bất động sản.
Thời điểm xác định thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng bất động sản là
thời điểm hợp đồng chuyển nhượng có hiệu lực theo quy định của pháp luật.
6. Thu nhập từ trúng thưởng
Thu nhập từ trúng thưởng là các khoản tiền hoặc hiện vật mà cá nhân nhận
được dưới các hình thức sau đây: Trúng thưởng xổ số; Trúng thưởng trong các
hình thức khuyến mại; Trúng thưởng trong các hình thức cá cược, casino; Trúng
thưởng trong các trò chơi, cuộc thi có thưởng và các hình thức trúng thưởng khác.
Thời điểm xác định thu nhập chịu thuế từ trúng thưởng là thời điểm tổ chức,
cá nhân trả thu nhập cho đối tượng nộp thuế.
7. Thu nhập từ bản quyền
Thu nhập từ bản quyền là thu nhập nhận được khi chuyển nhượng, chuyển
giao quyền sử dụng các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ; thu nhập từ chuyển
giao công nghệ.
Thời điểm xác định thu nhập chịu thuế từ bản quyền là thời điểm tổ chức, cá
nhân trả thu nhập cho đối tượng nộp thuế.
8. Thu nhập từ nhượng quyền thương mại
Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng
quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện của bên nhượng quyền.
Thu nhập từ nhượng quyền thương mại là các khoản thu nhập mà cá nhân
nhận được từ các hợp đồng nhượng quyền thương mại nêu trên, bao gồm cả việc
nhượng lại quyền thương mại theo quy định của pháp luật về nhượng quyền
thương mại.
Thời điểm xác định thu nhập chịu thuế từ nhượng quyền thương mại là thời
điểm tổ chức, cá nhân trả thu nhập cho đối tượng nộp thuế.
9. Thu nhập từ nhận thừa kế
Thu nhập từ nhận thừa kế là khoản thu nhập mà cá nhân nhận được theo di
chúc hoặc theo quy định của pháp luật về tài sản thừa kế đối với chứng khoán,
phần vốn góp trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản
khác phải đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng.
Thời điểm xác định thu nhập chịu thuế được quy định như sau:
- Đối với thu nhập từ thừa kế là thời điểm đối tượng nộp thuế nhận được
thừa kế;
- Đối với thu nhập từ quà tặng là thời điểm tổ chức, cá nhân tặng cho đối
tượng nộp thuế hoặc thời điểm đối tượng nộp thuế nhận được thu nhập.
10. Thu nhập từ nhận quà tặng
Thu nhập từ nhận quà tặng là khoản thu nhập của cá nhân nhận được từ các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước đối với chứng khoán, phần vốn trong các tổ
chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu
hoặc đăng ký sử dụng.
III. Những hạn chế, hướng khắc phục khi xác định thu nhập
chịu thuế khi tuân thủ pháp luật thuế thu nhập cá nhân
1. Những hạn chế trong quy định của pháp luật hiện hành
về thu nhập chịu thuế.
- Về cách xác định thu nhập chịu thuế của thu nhập từ
hoạt động sản xuất kinh doanh và thu nhập từ tiền lương
tiền công có chỗ chưa thỏa đáng. Thu nhập tính thuế từ hoạt
động sản xuất kinh doanh được xác định bởi hiệu số giữa doanh
thu tính thuế và chi phí hợp lý, trong đó chi phí hợp lý bao gồm cả
tiền lương trả cho người lao
động tức là người
đứng ra kinh
doanh và không giới hạn mức tối đa, trong khi chi phí được khấu
trừ cho 1 cá nhân đóng thuế thu nhập từ tiền lương, tiền công chỉ
giới hạn tối đa là 4 triệu đồng/tháng. Để tránh sự tùy tiện trong
việc định ra mức lương cho chính mình, luật Thuế thu nhập doanh
nghiệp đã loại trừ “tiền lương, tiền công của chủ doanh nghiệp tư
nhân” ra khỏi chi phí được khấu trừ, trong khi đó thuế TNCN thì
không người trực tiếp kinh doanh, giảm thu nhập chịu thuế. Mặt
khác thu nhập từ kinh doanh còn được khấu trừ chi trả lãi tiền
vay, chi khấu hao TSCĐ,… trong khi thu nhập từ tiền lương tiền
công không đề cập đến các yếu tố này.
- Về thu nhập chịu thuế khi chuyển nhượng bất động sản
có sự phân biệt thuế suất rất lớn khi xác định được giá vốn và
không xác định được giá vốn. Chính điều này dẫn tới sự kê khai
giá không thực tế khi giao dịch mua bán nhà đất
- Về các khoản thu nhập được miễn thuế cần phải xem xét lại
bởi chúng không tương thích với luật quốc tế và không phù hợp
với thông lệ quốc tê, chẳng hạn như:
+ Thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng
đất ở trong trường hợp người chuyển nhượng chỉ có một nhà ở,
đất ở duy nhất thì không phải nộp thuế. Quy định như vậy là hợp
lí nhưng trên thực tế rất khó có thể kiểm soát việc sở hữu nhà ở,
quyền sử dụng đất của người bán trong trường hợp chuyển
nhượng có phải là duy nhất thực sự hay không bởi việc chuyển
nhượng tài sản trong trường hợp này phần lớn mang đến cho
người chuyển nhượng một khoản lợi nhuận so với vốn bỏ ra ban
đầu. Vì vậy, quy định miễn thuế TNCN trong trường hợp này là dễ
gây thất thoát nguồn thu ngân sách nhà nước.
+ Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật TNCN, thì thu nhập từ
hoạt động chuyển nhượng bất động sản giữa vợ với chồng, cha
đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi với con đẻ, con nuôi, ông nội, bà
nội, ông ngoại, bà ngoại với cháu nội, cháu ngoại, anh chị em ruột
với nhau là thu nhập được miễn thuế. Quy định này trong một
mức độ nào đó làm cho Luật thuế TNCN không còn là công cụ
đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập một cách hiệu quả.
+ Theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Luật TNCN thì thu nhập từ
nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản giữa vợ và chồng, cha đẻ,
mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi và con đẻ, con nuôi, ông nội, bà nội,
ông ngoại, bà ngoại với cháu nội, cháu ngoại, anh chị em ruột với
nhau không thuộc diện thu nhập chịu thuế. Quy định này là hệ
quả tư duy từ quy định nói trên trong pháp luật hầu hết các nước,
các khoản thu nhập nói trên đều phải chịu thuế, tuy nhiên chúng
có thể quy định trong các luật khác nhau và có cách thức tính
thuế khác nhau.
- Thủ tục hoàn thuế quá phức tạp, thời gian đợi hoàn thuế phải
đến cuối năm. Đối với người có thu nhập thường xuyên đủ mức
chịu thuế thì còn chấp nhận được nhưng đối với những người
chưa đủ mức thu nhập nộp thuế hàng năm mà bất kỳ một khoản
thu nhập phát sinh nào trên 500.000đ/lần phải khấu trừ thuế thì
quả là điều khó hiểu.
2. Cách khắc phục khi xác định thu nhập chịu thuế khi
tuân thủ pháp luật thuế thu nhập cá nhân
- Đối với thu nhập chịu thuế từ hoạt động sản xuất kinh
doanh của cá nhân nên loại trừ phần tiền lương, tiền công trả cho
người lao động trực tiếp đứng ra kinh doanh như trong thuế thu
nhập doanh nghiệp.
- Xem xét lại qui định về miễn thuế, tránh sự thiên lệch giữa
các đối tượng
chịu thuế.
+ Đối với miễn thuế cho chuyển nhượng bất động sản của người
chỉ có một nhà đất duy nhất phải qui định cụ thể hơn tránh gây
khó khăn cho người dân. Cần tập trung rà soát và truy thu thuế ở
các cá nhân có thu nhập từ nhiều nơi, nên chuyển đối tượng này
từ được miễn thuế sang được giảm 50% số thuế phải nộp là phù
hợp, nhằm hạn chế thất thu thuế, đồng thời vẫn kiểm kê kiểm
soát được hoạt động chuyển nhượng kinh doanh bất động sản.
+ Các khoản thu nhập theo quy định tại khoản 1, khoản 4 Điều 4
Luật thuế TNCN nên được coi là thu nhập chịu thuế thu nhập cá
nhân vì như vậy sẽ tạo ra sự bình đẳng trong xã hội , trở thành
công cụ pháp lý đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập.
- Cải tiến thủ tục hoàn thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho cá
nhân khi làm thủ tục quyết toán thuế và hoàn thuế cuối năm
- Tăng cường công tác quản lý thu thuế, qui định chặt chẽ
hơn nữa các chế tài liên quan đến kê khai người phụ thuộc, áp
dụng công cụ tin học trong
quản lý tránh sự trùng lặp nhưng
đồng thời không gây khó dễ cho người dân.