Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

tìm hiểu và phân tích về luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.47 KB, 30 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nước ta với nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được bình đẳng và tự do cạnh
tranh trong kinh doanh. Nhưng một doanh nghiệp chỉ có thể hoặc là thành công hoặc là thất
bại. Nhiều doanh nghiệp thành công đương nhiên mang lại một phần quan trọng cho Ngân
sách nhà nước. Bên cạnh đó, cũng không ít những doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
bởi sự yếu kém trong thị trường luôn có cạnh tranh gay gắt. Do đó, có thể thấy, phá sản là
một hiện tượng tồn tại mang tính tất yếu trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp như một
thực thể trong xã hội, có sinh ra, phát triển và có diệt vong.
Trong kinh doanh rủi ro là rất lớn, đông thời khi có sự tồn tại của quyền tự do kinh
doanh, doanh nghiệp có quyền tham gia cạnh tranh để giành lấy thị trường và lợi nhuận lớn
hơn. Tất nhiên, một khi đã tham gia cạnh tranh, doanh nghiệp nào yếu kém hơn về năng lực
tổ chức, quản lý trong sản xuất kinh doanh, nắm bắt thị trường chậm hơn hoặc không đảm
bảo thực hiện đúng các nghĩa vụ tài chính…sẽ bị đào thải khỏi cuộc cạnh tranh, đồng nghĩa
với phá sản, và phải rút khỏi thị trường. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
liên quan khi giải quyết việc phá sản doanh nghiệp, nhà nước đã cho ra đời luật phá sản
doanh nghiệp, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường nước ta.
Nhận thấy sự cần thiết trong học tập và nghiên cứu về luật phá sản doanh nghiệp, bài
tiểu luận sau đây sẽ tập trung tìm hiểu và phân tích về luật phá sản doanh nghiệp Việt
Nam hiện hành. Do còn hạn chế về kiến thức và khả năng thu thập tài liệu, nên không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Mong nhận được sự giúp đỡ và góp ý của các thầy cô giáo.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

1


Phần I: TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT PHÁ SẢN
DOANH NGHIỆP HIỆN HÀNH
1. Quá trình hình thành
Ở Việt Nam, trước giải phóng cũng có hai đạo luật điều chỉnh phá sản đã được ban
hành là Luật Phá sản trong Luật Thương mại Trung phần tại miền Trung VN ngày 2/6/1942
và Luật Phá sản trong Luật Thương mại miền Nam VN năm 1973. Từ sau giải phóng miền


Nam, chúng ta đi theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, không khuyến khích cạnh
tranh nên khái niệm phá sản hầu như không có. Khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường
thì vấn đề phá sản và giải quyết phá sản mới được đặt ra. Ngày 30/12/1993, Quốc hội đã
thông qua Luật Phá sản DN. Tuy nhiên, do còn quá nhiều điểm bất hợp lý nên Luật Phá sản
DN 1993 đã không phát huy được tác dụng mà ngược lại còn tạo ra cảnh "DN chết mà không
được khai tử". Sự thay đổi và phát triển của kinh tế - xã hội đòi hỏi phải sửa đổi hoặc ban
hành một luật mới. Ngày 15/6/2004, Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 5 đã thông qua Luật Phá
sản 2004 thay thế Luật Phá sản DN 1993. Luậtnày có hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/2004.
Việc Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam năm 1993 ra đời đánh dấu một mốc rất
quan trọng cho những cố gắng của chúng ta trong việc xây dựng một khung pháp lý hoàn
chỉnh cho hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên do những hạn chế nhất định trong quá trình ban
hành mà Luật này không đạt được hiệu quả như mong muốn của các nhà lập pháp, sau hơn
tám năm thực hiện, đã bộc lộ rất nhiều những khiếm khuyết, bất cập và ngày càng tỏ ra lạc
hậu, không còn phù hợp với một môi trường kinh doanh mới. Thực tiễn pháp lý và thực tiễn
kinh doanh đang đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện lại chế định pháp
luật về phá sản, đảm bảo một thủ tục phá sản vừa hiện đại vừa phù hợp hơn để một chủ thể
kinh doanh có thể “ra đi” khỏi thương trường cũng nhanh chóng như khi nó được “sinh ra” và
đây cũng chính là một đòi hỏi của quyền tự do kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
LPSDN 1993 là đạo luật về phá sản đầu tiên của Nhà nước CHXHCN Việt Nam được
ban hành trong khoảng thời gian ngắn ngủi khi chúng ta mới bước vào nền kinh tế thị trường.
Kinh nghiệm của chúng ta về kinh tế thị trường nói chung và về phá sản nói riêng còn rất hạn
chế, ít ỏi. Kinh nghiệm lập pháp về phá sản hoàn toàn không có. Có thể nói LPSDN 1993
được xây dựng chủ yếu dựa trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của nước ngoài.
Theo báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), kể từ khi LPSDN 1993 có
hiệu lực từ tháng 7/1994, đến hết năm 2002, toàn Ngành Tòa án chỉ thụ lý có 151 đơn yêu
cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, trong đó chỉ tuyên bố được 46 doanh nghiệp bị phá sản.
2


Như vậy, bình quân hàng năm Tòa án chỉ thụ lý khoảng 17 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản

doanh nghiệp. Tính theo tỷ lệ so với tổng số doanh nghiệp thì các doanh nghiệp bị tuyên bố
phá sản chỉ chiếm khoảng 0,02 –0,05%. So với một số quốc gia khác, ví dụ tại Pháp tỷ lệ này
trong năm 1999 là 2,3% (46.000 doanh nghiệp phá sản so với 2 triệu doanh nghiệp đang hoạt
động)1 thì số lượng doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản ở Việt Nam là quá thấp và không phản
ánh đúng thực trạng tài chính và hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
Theo đánh giá của TANDTC – cơ quan soạn thảo Dự án Luật Phá sản (LPS) 2004 thì
nguyên nhân chính của tình hình trên là do những hạn chế của LPSDN 1993. Nội dung của
LPSDN 1993 có quá nhiều bất cập. Giữa mục tiêu và giải pháp của luật không có sự nhất
quán. Nguyên tắc, mục tiêu trước hết của LPSDN 1993 là khôi phục hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Nhưng LPSDN 1993 chưa tạo được những điều kiện tối đa cho phục hồi
doanh nghiệp, mà chỉ tập trung giải quyết hậu quả và thanh lý. Do đó, khó có thể đạt được
mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp. Một tồn tại nữa là thiếu thống nhất giữa văn bản luật và các
văn bản hướng dẫn, thiếu thống nhất về nguyên tắc xử lý xung đột giữa quy phạm của pháp
luật phá sản với quy phạm của các ngành luật khác. Ví dụ điển hình nhất là quy định điều
kiện doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. LPSDN 1993 chỉ quy định doanh nghiệp gặp
khó khăn hoặc thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính
cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn; nhưng Nghị định 189/CP hướng dẫn
lại bổ sung thêm điều kiện là phải kinh doanh thua lỗ trong 2 năm liên tiếp. Đây là một trong
những nguyên nhân khiến cho việc giải quyết thủ tục phá sản đối với nhiều doanh nghiệp trở
nên khó khăn, do không đáp ứng được điều kiện về thời gian, mặc dù doanh nghiệp đã hoàn
toàn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và sự tồn tại của nó là hoàn toàn không cần thiết.
LPS 2004 ra đời được đánh giá như là một cố gắng mới của các nhà lập pháp nước ta
trong việc nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật đối với hiện tượng kinh tế khách quan
có vai trò không nhỏ này trong đời sống kinh tế bằng việc khắc phục những hạn chế, bất cập
của LPSDN 1993, bổ sung những nội dung mới trên cơ sở tổng kết thực tiễn 9 năm áp dụng
LPSDN 1993, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, thể chế hóa chính sách kinh tế của Đảng,
Nhà nước ta trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

2. Vai trò của luật phá sản trong nền kinh tế thị trường
Phá sản là hiện tượng tự nhiên của nền kinh tế thị trường. Mặc dù có đời sống ngắn

dài rất khác nhau, nhưng nhìn chung các doanh nghiệp đều có một vòng đời nhất định: khởi
nghiệp, tăng trưởng, ổn định và suy thoái. Chu kỳ đời sống của doanh nghiệp chủ yếu phụ
thuộc vào thành tích kinh doanh và môi trường hoạt động của doanh nghiệp đó. Mặt khác,
trong hoạt động kinh doanh, việc các doanh nghiệp nợ và chiếm dụng vốn lẫn nhau là rất phổ
biến. Vậy giải quyết như thế nào khi có doanh nghiệp rơi vào tình trạng suy thoái hoặc gặp

3


những vấn đề nghiêm trọng về tài chính, mà kết quả là không thể thanh toán được các khoản
nợ thương mại.
Pháp luật phá sản ra đời nhằm điều chỉnh các vấn đề phát sinh trong trường hợp này.
Theo đó, một doanh nghiệp được coi là lâm vào tình trạng phá sản khi thực chất ssax mất khả
năng thanh toán các khoản nợ đến hạn và nếu không còn khả năng tổ chức lại để phục hồi
khả năng thanh toán thì buộc bị phá sản theo một thủ tục chặt chẽ tại tòa để phân chia tài sản
còn lại cho các chủ nợ.
Sự ra đời của pháp luật phá sản nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
có liên quan. Đối với chủ nợ, thủ tục phá sản cho phép chủ nợ có biện pháp kiểm soát được
tình hình tài chính của doanh nghiệp nợ, hạn chế những rủi ro và thiệt hại xảy ra và bảo đảm
việc thu hồi nợ một cách công bằng. Pháp luật phá sản còn bảo vệ và tạo ra những cơ hội mới
cho các doanh nghiệp nợ. Thật vậy, thủ tục phá sản (trong đó giải pháp đầu tiên và quan trọng
nhất là tổ chức lại doanh nghiệp) sẽ tạo cho doanh nghiệp thua lỗ và nợ nần có cơ hội thương
lượng tập thể với các chủ nợ về các khoản nợ và tránh được các biện pháp đòi nợ bất hợp
pháp, ví dụ xiết nợ. Đây còn là cơ hội tốt nhất để buộc các doanh nghiệp đang thua lỗ phải
tiến hành ngay việc tái cấu trúc doanh nghiệp một cách triệt để, loại bỏ nguyên nhân gây tổn
hại đến tình hình tài chính doanh nghiệp, phát huy các mặt tích cức để cải thiện kết quả kinh
doanh. Nếu việc tổ chức lại không có kết quả, thủ tục phá sản và thanh lý giúp doanh nghiệp
thoát khỏi tình trạng nợ nần để có thể bắt đầu trở lại công cuộc kinh doanh với một tình hình
tài chính hoàn toàn mới mẻ và sạch sẽ. Quyền lợi của người lao động được pháp luật ưu tiên
và bảo vệ khi doanh nghiệp tiến hành thủ tục phá sản, mặc dù có tâm lý lo ngại thủ tục phá

sản doanh nghiệp sẽ làm mất việc làm của người lao động. Thực chất quyền lợi của người lao
động phải được đặt ra trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp, chứ không chỉ đến
giai đoạn phá sản.
Thực hiện tốt pháp luật về phá sản còn là biện pháp bảo vệ trật tự, an toàn xã hội,
tránh được tình trạng đe dọa, cưỡng bức doanh nghiệp để đòi nợ theo “luật rừng”, đảm bảo
việc đòi nợ theo một trật tự nhất định, do một cơ quan có đủ thẩm quyền kiểm soát. Đối với
nền kinh tế, phá sản có tác dụng sàng lọc các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, không hiệu quả,
thay thế các doanh nhân kém khả năng bằng những nhà quản lý khác chuyên nghiệp hơn, làm
cho nền kinh tế mới phát triển lành mạnh. Có thể nói, lợi nhuận đối với doanh nghiệp giống
như “củ cà rốt” thì phá sản lại là “chiếc gậy” nhằm răn đe các doanh nhân, cảnh báo tính chất
khắc nghiệt của thương trường.

4


3. Các nội dung cơ bản của luật phá sản doanh nghiệp 2004

3.1 Dấu hiệu xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản
Phá sản là thuật ngữ dùng để chỉ tình trạng mất cân đối giữa thu và chi của một doanh
nghiệp, hợp tác xã mà biểu hiện của sự mất cân đối đó là tình trạng mất khả năng thanh toán
nợ đến hạn hoặc tổng nợ phải trả lớn hơn tổng tài sản có. Các chỉ tiêu này có thể tính toán
được trên cơ sở các chỉ tiêu tài sản và nguồn vốn trên bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp,
hợp tác xã. Hiện nay trong Điều 13 - luật Phá sản năm 2004 chỉ đưa ra thuật ngữ lâm vào tình
trạng phá sản mà không đưa ra thuật ngữ phá sản. Bởi vì, theo tôi được hiểu lâm vào tình
trạng phá sản tức doanh nghiệp, hợp tác xã đó còn có cơ hội phục hồi lại, còn phá sản là bằng
quyết định của Tòa án và sẽ xóa tên doanh nghiệp, hợp tác xã trong sổ đăng ký kinh doanh.
Vậy doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là lâm vào tình trạng phá sản khi có hai điều kiện sau:
- Không có khả năng thanh toán nợ đến hạn:
Các khoản nợ đến hạn là các khoản nợ mà đến một thời hạn nhất định nào đó doanh nghiệp,
hợp tác xã mắc nợ phải có nghĩa vụ thanh toán cho các chủ nợ. Ví dụ: Công ty A vay của

công ty B số tiền là 1 tỷ đồng, thời hạn vay là 1 năm, thời điểm vay là ngày 01/01/2007 đến
31/12/2008 là 1 năm, như vậy bước qua ngày 01/01/2009 là thời điểm công ty A phải trả nợ
và khoản vay này được coi là khoản nợ đến hạn.
Theo quy định của luật Phá sản năm 2004 thì có ba loại chủ nợ đó là chủ nợ có đảm bảo, chủ
nợ có đảm bảo một phần và chủ nợ không có bảo đảm. Tuy nhiên, luật phá sản chỉ cho phép
chủ nợ không có bảo đảm hoặc chủ nợ có bảo đảm một phần (chỉ tính phần không có bảo
đảm) mới được quyền nộp đơn lên Tòa án để yêu cầu phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã; còn
chủ nợ có bảo đảm không có quyền nộp đơn. Các khoản nợ phải được các bên xác nhận, có
đầy đủ giấy tờ tài liệu chứng minh và không có tranh chấp.
- Chủ nợ đã có yêu cầu thanh toán nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã không thanh toán:
Không phải cứ có các khoản nợ đến hạn là lập tức chủ nợ được gửi đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản mà chủ nợ phải xuất trình những căn cứ chứng minh là đã yêu cầu thanh toán nhưng
không được doanh nghiệp, hợp tác xã thanh toán, thể hiện qua các văn bản đòi nợ, văn bản
khất nợ.

3.2 Đối tượng có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã

5


Theo quy định của luật Phá sản năm 2004 từ điều 13 đến điều 18 thì đối tượng có
quyền nộp đơn yêu cẩu phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã bao gồm:
- Chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần (Điều 13);
- Đại diện công đoàn hoặc đại diện người lao động (Điều 14);
- Chủ doanh nghiệp, đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã (Điều 15);
- Chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước (Điều 16);
- Các cổ đông công ty cổ phần (Điều 17);
- Thành viên hợp danh công ty hợp danh (Điều 18).
Tuy nhiên, đối với các cơ quan như: Toà án, Viện Kiểm sát, cơ quan công an, cơ quan thanh

tra, cơ quan quản lý vốn, tổ chức kiểm toán, cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp khi
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình phát hiện thấy doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào
tình trạng phá sản thì không có quyền nộp đơn nhưng phải thông báo cho đối tượng có quyền
nộp đơn biết. Đây là điểm mới so với luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993.

3.3 Cơ quan có thẩm quyền giải quyết
Điều 17- Luật phá sản năm 2004 có quy định về thẩm quyền giải quyết phá sản đó là
Tòa án, trong đó Tòa án cấp huyện có thẩm quyền giải quyết phá sản đối với hợp tác xã đăng
ký kinh doanh tại cơ quan cấp huyện. Tòa án nhân dân cấp tỉnh (cụ thể là Tòa kinh tế) sẽ giải
quyết các doanh nghiệp, hợp tác xã đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh
cấp tỉnh. Trong một số trường hợp đặc biệt, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nếu thấy cần thiết, vụ
việc phức tạp có thể tiến hành thủ tục phá sản đối với hợp tác xã thuộc thẩm quyền của Tòa
án nhân dân cấp huyện. Thủ tục tiến hành phá sản sẽ do một thẩm phán hoặc tổ thẩm phán
gồm 3 thẩm phán phụ trách tùy thuộc vào vụ án phá sản đó.

3.4Thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
Sau khi các đối tượng có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu phá sản tại Toà án có thẩm
quyền. Toà án sẽ vào sổ thụ lý đơn, xem xét hồ sơ trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận đơn
và ra một trong hai quyết định: Quyết định mở thủ tục phá sản khi có căn cứ chứng minh
doanh nghiệp, hợp tác xã đã lâm vào tình trạng phá sản; quyết định không mở thủ tục phá sản
khi không có căn cứ chứng minh doanh nghiệp, hợp tác xã đó lâm vào tình trạng phá sản. Sau
khi Tòa án đã ra quyết định mở thủ tục phá sản, tuỳ từng trường hợp mà thẩm phán ra quyết
định :
Thứ nhất, phục hồi hoạt động kinh doanh nếu xét thấy doanh nghiệp, hợp tác xã còn có khả
năng hồi phục và tiếp tục tồn tại nếu được sự hỗ trợ.
6


Thứ hai, Sẽ áp dụng thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ mà không áp dụng thủ tục phục hồi
khi doanh nghiệp, hợp tác xã đó thua lỗ đã được nhà nước áp dụng biện pháp đặc biệt để

phục hồi nhưng không phục hồi được và không thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi
chủ nợ yêu cầu.
Thứ ba, tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản nếu doanh nghiệp, hợp tác xã không
còn tài sản hoặc còn nhưng không đủ để thanh toán phí phá sản; hoặc chủ doanh nghiệp, đại
diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản mà không
còn tiền hoặc tài sản khác để nộp tạm ứng án phí. Đồng thời Thẩm phán phải ra quyết định
thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản để làm nhiệm vụ quản lý và thanh lý tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã.
Thứ tư, phục hồi hoạt động kinh doanh: Trong thời gian 30 ngày kể từ lúc lập xong danh sách
chủ nợ, thẩm phán triệu tập Hội nghị chủ nợ, Hội nghị chủ nợ sẽ xem xét và thông qua việc
đồng ý hay không đồng ý cho doanh nghiệp, hợp tác xã phục hồi hoạt động kinh doanh. Nếu
doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực hiện xong phương án phục hồi hoặc được các chủ nợ đồng
ý thì thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi kinh doanh và doanh nghiệp, hợp tác
xã được coi là không còn lâm vào tình trạng phá sản nữa.
Thứ năm, thanh lý tài sản và các khoản nợ cho các chủ nợ trong danh sách theo thứ tự được
quy định tại Điều 37 luật Phá sản năm 2004 đó là:
- Phí phá sản;
- Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội và quyền lợi khác theo thoả thuận đã
ký kết với người lao động;
- Các khoản nợ không có bảo đảm theo nguyên tắc nếu giá trị tài sản đủ để thanh toán các
khoản nợ thì mỗi chủ nợ đều được thanh toán đủ số nợ của mình, nếu không đủ thì mỗi chủ
nợ được thanh toán một phần khoản nợ theo tỷ lệ tương ứng.
Ví dụ: Tài sản còn lại của doanh nghiệp A là 2 tỷ đồng, tổng số nợ là 4 tỷ đồng, chủ nợ B cho
vay 2 tỷ, tương ứng là 50% số nợ, C cho vay 1 tỷ tương ứng tỷ lệ là 25%, D cho vay 1 tỷ
tương ứng tỷ lệ 25%. Số tiền thanh toán cho từng chủ nợ là B 1 tỷ; C 500 triệu, D 500 triệu.
- Phần tài sản còn lại nếu còn sẽ thuộc những chủ sở hữu, thành viên công ty, hợp tác xã.

3.5Các hoạt động bị cấm hoặc hạn chế của doanh nghiệp, hợp tác xã
- Theo quy định tại Điều 30 của luật Phá sản, mọi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, hợp tác xã sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản vẫn được tiến hành bình thường

nhưng phải đặt dưới sự giám sát của Thẩm phán và Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Điều 31 quy
định nghiêm cấm mọi hoạt động nhằm cất giấu, tẩu tán tài sản, thanh toán các khoản nợ
không có bảo đảm, chuyển nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm bằng tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã; từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ.
7


- Các hoạt động cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, tặng cho tài sản, vay tiền, bán cổ phần,
thanh toán nợ mới phát sinh đều phải được sự đồng ý bằng văn bản của Thẩm phán. Các giao
dịch được thực hiện trong khoảng thời gian ba tháng trước ngày Toà án thụ lý đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản bị coi là vô hiệu: Tặng cho tài sản cho người khác, thanh toán hợp đồng
song vụ trong đó phần nghĩa vụ của doanh nghiệp, hợp tác xã rõ ràng là lớn hơn phần nghĩa
vụ của bên kia; thanh toán nợ chưa đến hạn, thực hiện việc thế chấp, cầm cố tài sản đối với
các khoản nợ, các giao dịch khác nhằm tẩu tán tài sản.

3.6Hậu quả của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản
Theo quy định tại Điều 94 luật Phá sản năm 2004 thì những người giữ các chức vụ
Giám đốc, Tổng giám đốc, Chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị công ty, tổng công
ty 100% vốn nhà nước bị tuyên bố phá sản không được cử đảm đương các chức vụ đó ở bất
kỳ doanh nghiệp nhà nước nào, kể từ ngày công ty, tổng công ty nhà nước bị tuyên bố phá
sản. Người được giao đại diện phần vốn góp của nhà nước ở doanh nghiệp khác mà doanh
nghiệp đó bị tuyên bố phá sản không được cử đảm đương các chức vụ quản lý ở bất kỳ doanh
nghiệp nào có vốn của nhà nước. Chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh công ty
hợp danh của công ty hợp danh, Giám đốc (Tổng giám đốc), Chủ tịch và thành viên Hội đồng
quản trị, Hội đồng thành viên của doanh nghiệp, Chủ nhiệm, các thành viên Ban quản trị Hợp
tác xã bị tuyên bố phá sản không được quyền thành lập doanh nghiệp, hợp tác xã, không
được làm người quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong thời gian từ một đến ba năm kể từ
ngày doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản.

8



Phần II: PHÂN TÍCH LUẬT PHÁ SẢN DOANH
NGHIỆP HIỆN HÀNH
1. Một số tiến bộ của luật phá sản doanh nghiệp 2004 so với luật phá sản
doanh nghiệp năm 1993.

1.1 Hoàn thiện khái niệm “phá sản” hay khái niệm “doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản”.
Đây là khái niệm cực kỳ quan trọng của pháp luật phá sản. Tùy thuộc vào định nghĩa
này trong pháp luật phá sản của mỗi quốc gia mà sự can thiệp của Nhà nước vào hiện tượng
phá sản sớm hay muộn, lập trường của Nhà nước nghiêng về bảo vệ lợi ích của ai nhiều hơn:
chủ nợ hay con nợ.
Trong LPSDN 1993 khái niệm này dường như được xây dựng trên cơ sở kết hợp một
cách mỹ mãn tiêu chí định lượng và tiêu chí định tính. Tính định lượng thể hiện ở quy định
về việc chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản nếu con nợ không trả nợ sau thời
hạn 30 ngày kể từ ngày đòi nợ, quy định về thời hạn 3 tháng nợ lương liên tiếp với người lao
động. Tính định tính còn thể hiện ở quy định về những tài liệu cần thiết mà con nợ phải gửi
cho Tòa án sau khi Tòa án thụ lý đơn yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản để Tòa án đánh giá
tổng số nợ và tổng tài sản của con nợ như danh sách chủ nợ kèm theo số nợ, báo cáo về tình
trạng tài chính, tài sản và khả năng thanh toán nợ của con nợ… Khái niệm phá sản còn phải
gắn với lý do khó khăn, thua lỗ trong hoạt động kinh doanh hoặc lý do bất khả kháng. Với
khái niệm như vậy, trên thực tế các chủ nợ sẽ không bao giờ thực hiện được quyền nộp đơn
yêu cầu tuyên bố phá sản đối với con nợ của mình bởi lẽ họ phải chứng minh là con nợ thua
lỗ trong hoạt động kinh doanh. Chủ nợ chỉ có thể chứng minh là con nợ đã trễ hạn thực hiện
nghĩa vụ thanh toán nợ, còn vì sao con nợ trễ hạn thanh toán – không trả nợ thì chủ nợ có thể
không biết mà cũng không cần biết. Những thông tin này thuộc phạm vi bí mật kinh doanh
của con nợ và chỉ có thể xác định trên cơ sở sổ sách kế toán của con nợ. Điều này hoàn toàn
ngoài khả năng của con nợ.
LPS 2004 (Điều3) khi đưa ra khái niệm phá sản đã đoạn tuyệt với nguyên nhân khó

khăn, thua lỗ trong hoạt động kinh doanh và thời hạn thua lỗ. “Không đủ tiền và tài sản để
thanh toán các khoản nợ đến hạn bất luận vì lý do gì mà không thể khắc phục được thì đều
được coi là đã lâm vào tình trạng phá sản”. Theo ý kiến của chúng tôi, đây là một bước tiến
lớn của pháp luật phá sản nước ta, thể hiện sự can thiệp sớm của Nhà nước vào hiện tượng
9


phá sản. Tính chất nghiêm trọng về hậu quả có tính dây chuyền của hiện tượng phá sản trong
đời sống kinh tế đòi hỏi khách quan sự can thiệp sớm của Nhà nước.

1.2LPS 2004 khẳng định thủ tục phá sản là một thủ tục tư pháp đặc biệt
Một trong những dấu hiệu đặc biệt chính là cấu trúc đặc thù của thủ tục phá sản. Nếu
như tố tụng hình sự, tố tụng dân sự là một quá trình hoạt động của Tòa án và những người
tham gia tố tụng hình thành từ những giai đoạn nối tiếp nhau, giai đoạn trước là nền tảng cho
giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra tính hợp pháp, khắc phục những thiếu sót của giai đoạn
trước thì thủ tục phá sản là một quá trình hoạt động có cấu trúc hoàn toàn khác. Theo Điều 5
LPS 2004 thủ tục phá sản là một thủ tục lớn bao gồm nhiều thủ tục cấu thành (thủ tục nhỏ) và
giữa những thủ tục cấu thành đó có mối liên hệ với nhau theo những nguyên tắc khác nhau.
Tính thứ tự, nối tiếp nhau không phải là yếu tố bắt buộc giữa các thủ tục cấu thành. Đây là
bước phát triển về lý luận của pháp luật phá sản nước ta.
Luật PSDN 1993 tuy cũng có những quy định về phục hồi hoạt động kinh doanh,
thanh lý tài sản của doanh nghiệp nhưng Luật chưa thừa nhận những nội dung đó là những
thủ tục cấu thành độc lập, chưa nhìn nhận được tính đặc thù về mối quan hệ giữa các thủ tục
đó. Trong Luật PSDN 1993, phục hồi hoạt động kinh doanh gần như là một hoạt động bắt
buộc trước hoạt động thanh lý. Chỉ sau khi phục hồi không thành công – thực hiện kế hoạch
tổ chức lại hoạt động kinh doanh không đem lại kết quả, con nợ vi phạm cam kết hoặc Hội
nghị chủ nợ không chấp nhận kế hoạch phục hồi hoặc con nợ không có kế hoạch thì lúc đó
Tòa án mới có thể quyết định chuyển sang tuyên bố phá sản với con nợ và thanh lý tài sản
của nó. Giải quyết mối quan hệ giữa hai thủ tục phục hồi và thanh lý như vậy là cứng nhắc và
máy móc. Thực tế cho thấy trong nhiều trường hợp tại thời điểm thụ lý đơn yêu cầu giải

quyết tuyên bố phá sản đã có nhiều con nợ ngừng hoạt động, hoàn toàn không còn khả năng
phục hồi nhưng do Luật quy định, thẩm phán vẫn phải tuần tự thực hiện các quy định của thủ
tục phục hồi. Điều này chỉ làm kéo dài thời gian vô ích, không có ý nghĩa gì cả.
Trong thủ tục phá sản nhiệm vụ của các thủ tục cấu thành có tính độc lập với nhau rất
lớn. Thực hiện nhiệm vụ của thủ tục này không phải lúc nào cũng là tiền đề để thực hiện
nhiệm vụ của thủ tục kia. Ví dụ như nhiệm vụ của thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp khác hẳn với nhiệm vụ của thủ tục thanh lý tài sản và thực hiện nhiệm vụ của
thủ tục phục hồi không phải là tiền đề cho thủ tục thanh lý tài sản mà có thể loại trừ sự cần
thiết của chính thủ tục thanh lý tài sản doanh nghiệp…
Điểm tiến bộ được ghi nhận trong LPS 2004 chính là những quy định về mối quan hệ
đặc thù giữa các thủ tục cấu thành trong thủ tục phá sản. Điều này cho phép Tòa án giải quyết
yêu cầu tuyên bố phá sản một cách uyển chuyển tùy thuộc vào những tình huống cụ thể. Tòa
án có thể quyết định tuyên bố phá sản với con nợ ngay mà không cần thụ lý đơn yêu cầu
10


tuyên bố phá sản (khoản 1 Điều 87 LPS 2004) hoặc sau khi thụ lý (khoản 2 Điều 87) hoặc khi
đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản (Điều 86). Thủ tục phục hồi không còn là một thủ tục bắt
buộc trước thủ tục thanh lý tài sản trong tiến trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản.
Không những thế, khi mà nhiệm vụ của thủ tục này không thể thực hiện được hoặc thực hiện
không thành công thì có thể chuyển đổi sang thủ tục thanh lý tài sản ngay (Điều 79, 80).

1.3LPS 2004 bảo vệ lợi ích của các chủ nợ triệt để hơn
Bản chất của thủ tục phá sản là thủ tục đòi nợ đặc biệt – đòi nợ tập thể của các chủ nợ
thông qua việc yêu cầu Tòa án tuyên bố con nợ bị phá sản để thu hồi vốn của mình. Chừng
nào cơ hội đòi nợ thông qua thủ tục phá sản còn thấp thì thủ tục đó không thể hấp dẫn các chủ
nợ, không thể nhanh chóng trở thành một công cụ hiệu quả bảo vệ lợi ích các chủ nợ.
LPSDN 1993 hạn chế khả năng thu hồi vốn của các chủ nợ. Ví dụ như quy định về
nghĩa vụ của chủ nợ phải chứng minh con nợ mất khả năng thanh toán vì thua lỗ trong hoạt
động kinh doanh khi nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, quy định thời hạn hai năm thua lỗ

hoặc khó khăn trong kinh doanh như là một yếu tố bắt buộc của khái niệm “lâm vào tình
trạng phá sản”, quy định về trình tự phục hồi như là giai đoạn bắt buộc trong mọi trường hợp
sau khi có quyết định mở thủ tục giải quyết tuyên bố phá sản… LPS 2004 đã khắc phục
những hạn chế đó, mở rộng khả năng đòi nợ của các chủ nợ.
Thứ nhất là quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ. Khi thực hiện
quyền này chủ nợ không có nghĩa vụ nào ngoài các nghĩa vụ sau:
+ Chứng minh mình là chủ nợ;
+ Chứng minh khoản nợ đã đến hạn thanh toán (xuất hiện quyền đòi nợ);
+ Chứng minh mình đã yêu cầu con nợ thanh toán nợ nhưng con nợ không thực hiện
hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ của mình.
Như chúng ta thấy, các nghĩa vụ này hoàn toàn trong tầm tay của các chủ nợ.
Thứ hai là LPS 2004 đã bổ sung nhiều biện pháp bảo toàn tài sản của con nợ; điều này
cũng có nghĩa là mở rộng khả năng thu hồi nợ của các chủ nợ. Từ cổ xưa, pháp luật phá sản
đã xác định việc bảo toàn tối đa tài sản của con nợ nhằm bảo vệ lợi ích tài sản của các chủ nợ
như là nhiệm vụ trung tâm của thủ tục phá sản. Nhiệm vụ này được quy định đầy đủ hơn
trong LPS 2004 so với LPSDN 1993. LPS 2004 đã dành hẳn một chương về những biện pháp
bảo toàn tài sản của con nợ với nhiều biện pháp chưa được biết đến trong LPSDN 1993. Cụ
thể:
11


+ Cử người quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo yêu
cầu của Hội nghị chủ nợ nếu xét thấy người quản lý của doanh nghiệp không có khả năng
điều hành hoặc nếu tiếp tục điều hành hoạt động kinh doanh sẽ không có lợi cho việc bảo
toàn tài sản của doanh nghiệp (Điều 30);
+ Bù trừ nghĩa vụ (Điều 48);
+ Đình chỉ thi hành án dân sự (Điều 57);
+ Giải quyết vụ án bị đình chỉ trong thủ tục phá sản (Điều 58);
+ Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 55);
+ Đình chỉ thực hiện hợp đồng đang có hiệu lực (Điều 54);

+ Chủ nợ không có bảo đảm có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu
(Điều 44).

2. Những hạn chế trong luật phá sản doanh nghiệp hiện hành.

2.1LPS 2004 chưa làm rõ bản chất của thủ tục phá sản.
Thủ tục phá sản là một thủ tục đòi nợ đặc biệt. Tính chất đặc biệt của đó đã được đề
cập đến ở phần trên. Về vấn đề này không có nhiều ý kiến khác biệt. Tuy nhiên, về bản chất
của thủ tục phá sản nhìn từ góc độ hoạt động của Tòa án thì còn có ý kiến khác nhau. Quan
điểm phổ biến hiện nay không nhìn nhận thủ tục phá sản như là một thủ tục mà trong đó hoạt
động của Tòa án là hoạt động thực hiện chức năng xét xử. Đây cũng là quan điểm của Ban
soạn thảo Luật tổ chức TAND 2002. Nó được thể hiện tại quy định “Tòa án xét xử những vụ
án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những
việc khác theo quy định của pháp luật” (Điều 1). Như vậy, theo quan điểm này thì “xét xử”
và “giải quyết” là hai khái niệm khác nhau. Quan điểm này đã được LPSDN 1993 tiếp thu và
LPS 2004 tiếp tục kế thừa. Việc phá sản không được thừa nhận như một tranh chấp pháp lý
nên hoạt động của Tòa án khi giải quyết phá sản không chịu sự chi phối của những nguyên
tắc Hiến định trong hoạt động xét xử của Tòa án. Đấy là các nguyên tắc như khi xét xử phải
có Hội thẩm nhân dân tham gia, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán, nguyên tắc
xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Nội dung của những nguyên tắc này không thể hiện
trong các quy định của LPSDN 1993, LPS 2004. Trong thủ tục phá sản không có sự hiện diện
của Hội thẩm nhân dân và theo Luật thì việc phá sản có thể được giải quyết bởi một thẩm
phán. Tuy nhiên, bên cạnh đó Luật quy định quyết định tuyên bố phá sản có thể bị kháng cáo,
kháng nghị và quyết định của Tòa án cấp trên là quyết định cuối cùng. Câu hỏi then chốt và
có lẽ khó trả lời nhất đối với những người theo quan điểm này là nếu Tòa án không xét xử,
chỉ giải quyết việc phá sản thì Tòa án thực hiện chức năng gì trong trong thủ tục phá sản?
Theo Hiến pháp thì Tòa án là cơ quan xét xử (Điều 127). Vậy phải chăng ngoài chức năng xét
xử – chức năng hiến định, Tòa án còn thực hiện các chức năng khác nữa?
Để làm rõ vấn đề này, theo chúng tôi, trước hết phải làm rõ yêu cầu tuyên bố phá sản
là gì? Đó có phải là một tranh chấp pháp lý hay không?

12


Yêu cầu tuyên bố phá sản là một tranh chấp pháp lý. Khi các chủ nợ thực hiện quyền
đòi nợ của mình nhưng yêu cầu đó không được đáp ứng từ phía con nợ thì xuất hiện xung đột
lợi ích tài sản giữa chủ nợ với con nợ. Xung đột này là xung đột pháp lý, bởi lẽ các quan hệ
giữa con nợ và chủ nợ luôn là các quan hệ pháp luật nảy sinh trên cở sở các hợp đồng khác
nhau. Trong quan hệ hợp đồng giữa các bên vừa có sự thống nhất lợi ích vì hợp đồng chỉ có
thể giao kết khi các bên đều thấy có lợi, vừa có sự đối lập lợi ích. Lợi ích của bên này phụ
thuộc vào sự chấp hành các cam kết của phía bên kia. Sự vi phạm, không chấp hành hoặc
chấp hành không đầy đủ nghĩa vụ của một bên đương nhiên ảnh hưởng, vi phạm đến lợi ích
của bên đối tác. Để có thể bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình, chủ nợ buộc phải liên hệ đến
Tòa án với yêu cầu tuyên bố phá sản con nợ, vì chỉ như vậy chủ nợ mới có thể thu hồi được
nợ. Tại thời điểm Tòa án thụ lý yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản là đã tồn tại xung đột hay
tranh chấp pháp lý giữa chủ nợ và con nợ. Trường hợp con nợ tự nguyện nộp đơn yêu cầu thì
bản chất mối quan hệ giữa con nợ và chủ nợ cũng không thay đổi, bởi lẽ con nợ chỉ nộp đơn
khi tự nhận thấy đang ở trong tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, có
nghĩa là con nợ đang trong tình trạng xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của các chủ nợ (không
trả được nợ đến hạn). Nói một cách khác là chủ nợ và con nợ đang trong tình trạng xung đột
lợi ích pháp lý. Còn tại Hội nghị chủ nợ các bên có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận kế
hoạch tổ chức lại hoạt động kinh doanh của con nợ thì đấy cũng là hình thức hòa giải để giải
quyết xung đột pháp lý giữa các bên. Điều này cũng giống như hòa giải để giải quyết xung
đột pháp lý giữa các bên đương sự để giải quyết tranh chấp trong các thủ tục tư pháp khác.
Việc phá sản là một tranh chấp pháp lý. Như vậy bản chất của thủ tục phá sản là thủ tục giải
quyết trước hết các xung đột hay tranh chấp lợi ích pháp lý có tính chất tài sản giữa con nợ và
chủ nợ.
Còn hoạt động của Tòa án khi giải quyết tranh chấp, xung đột pháp lý đó là gì? Khi có
yêu cầu tuyên bố phá sản thì Tòa án phải thụ lý khi người nộp đơn đáp ứng đủ điều kiện theo
luật định. Tiếp theo đó Tòa án phải giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, tức là xem xét yêu
cầu đó có chính đáng hay không, nghĩa là có căn cứ và có đúng là con nợ mất khả năng thanh

toán hay không? Tòa án phải căn cứ vào các bằng chứng, tài liệu do các bên cung cấp để trả
lời câu hỏi đó. Nội dung thứ nhất mà Tòa án phải thực hiện là khẳng định có hay không tình
trạng “mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn”. Nếu Tòa án xác định con nợ đã mất
khả năng thanh toán thì tùy thuộc từng trường hợp cụ thể Tòa án căn cứ vào các quy định của
Luật có thể ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi hoặc thủ tục thanh lý, tuyên bố con nợ bị
phá sản. Hai hoạt động quan trọng trên của Tòa án trong thủ tục phá sản chính là nội dung cốt
lõi của khái niệm xét xử. Vậy “hoạt động xét xử” có những đặc trưng gì? Trước hết đó là việc
tìm kiếm, xác định và minh định cho sự kiện xảy ra. Và trên cơ sở sự kiện khách quan xảy ra
trong mối quan hệ giữa chủ nợ và con nợ, “chủ thể của hoạt động tư pháp phải đưa ra được
những đánh giá pháp lý cho các sự kiện đó”6. Như vậy, việc phá sản là một tranh chấp pháp
lý và giải quyết phá sản là một hình thức thực hiện chức năng xét xử của Tòa án.
Quan niệm này sẽ có thể làm thay đổi nhiều nội dung của thủ tục phá sản theo hướng
mở rộng tính công khai, tranh tụng giữa các bên có lợi ích đối lập nhau như là một tiền đề
khách quan cần thiết cho các quyết định đúng pháp luật, có căn cứ của Tòa án. Ví dụ, quyết
định mở hay không mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản của Tòa án cần được thực
hiện trong hình thức phiên tòa công khai, có sự hiện diện của bên yêu cầu tuyên bố phá sản
và bên còn lại (tùy thuộc ai là người đã nộp đơn yêu cầu), có sự tham gia của người bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của họ, các bên có quyền trình bày ý kiến của mình theo thể thức tranh
tụng trước khi Tòa án ra quyết định của mình, v.v..

2.2Khái niệm phá sản.
13


Mặc dù khái niệm này có sự hoàn thiện hơn so với LPSDN 1993 nhưng vẫn còn hạn
chế ở tính thiếu triệt để của nó. Điều 3 LPS 2004 không quy định rõ số nợ và thời gian quá
hạn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán của con nợ. Vì vậy về hình thức, con nợ chỉ cần
mắc nợ số tiền là 1.000 đồng và quá hạn thanh toán 01 ngày sau khi chủ nợ có đơn yêu cầu
đòi nợ cũng có thể bị xem là lâm vào tình trạng phá sản. Điều này có thể dẫn đến sự lạm dụng
quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản từ phía các chủ nợ. Kinh nghiệm của một số nước

khi xây dựng khái niệm phá sản theo trường phái định lượng thì thường có quy định về số nợ
cụ thể, về thời hạn trễ hạn thanh toán nợ từ phía con nợ sau khi chủ nợ có yêu cầu đòi nợ. Ví
dụ như Luật Phá sản của Liên bang Nga quy định số nợ không thấp hơn 100.000 rúp với chủ
nợ là pháp nhân và 10.000 rúp với chủ nợ là cá nhân. Theo Luật Công ty của Úc chủ nợ có
thể yêu cầu Tòa án ra quyết định bắt đầu thủ tục thanh toán tài sản của một công ty vì lý do
vỡ nợ nếu công ty đó có một khoản nợ đến hạn ít nhất là AUD $2000 và công ty không
chứng minh được khả năng trả khoản nợ đến hạn đó.7
Thuật ngữ “các khoản nợ” trong Điều 3 không được giải thích. Phân tích Điều 37 cho
thấy “các khoản nợ” được hiểu là các nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp hình thành từ các
hợp đồng dân sự, thương mại và lao động. Còn các khoản nợ thuế, các nghĩa vụ tài sản khác
như nghĩa vụ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, nghĩa vụ thanh toán các khoản phạt hành
chính… của doanh nghiệp không được đề cập đến. Vậy giải quyết các nghĩa vụ có tính chất
tài sản này của doanh nghiệp như thế nào khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản?

2.3Về các loại chủ nợ.
Luật chỉ phân biệt chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ không bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một
phần (Điều 6). Các chủ nợ khác nhau thì có địa vị pháp lý khác nhau trong thủ tục phá sản.
Chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ không có bảo đảm có quyền và nghĩa vụ khác nhau trong quá
trình tham gia vào thủ tục phá sản. Điều này thấy rõ trong so sánh về quyền và nghĩa vụ giữa
chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ không có bảo đảm. Về nguyên tắc, LPS 2004 đã thể hiện tinh
thần bảo vệ lợi ích của chủ nợ có bảo đảm triệt để hơn so với chủ nợ không có bảo đảm. Đó
là lẽ đương nhiên. Nếu lợi ích của chủ nợ không có bảo đảm không được bảo vệ trong thủ tục
phá sản thì bản thân chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Bộ luật Dân sự sẽ không còn ý
nghĩa. Tuy nhiên một số quy định của LPS 2004 không phù hợp với tinh thần chủ đạo đó. Cụ
thể, ngay từ khi có quyết định thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì quyền được thanh
toán nợ đến hạn của chủ nợ có bảo đảm đã bị hạn chế - bị tạm đình chỉ cho đến khi có quyết
định thanh lý tài sản (Điều 27, Điều 35), trừ trường hợp được Tòa án cho phép. Trong khi đó,
các chủ nợ không có bảo đảm vẫn có thể được thanh toán các khoản nợ đến hạn của mình sau
khi có quyết định thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.Việc thanh toán các khoản nợ không
có bảo đảm chỉ bị cấm sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản (Điều 31).

Chủ nợ có khả năng bù trừ nghĩa vụ với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản cũng
có lợi thế hơn chủ nợ có bảo đảm. Theo Điều 48 chủ nợ này có quyền thỏa thuận với doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản để thực hiện việc bù trừ và không có bất kỳ sự hạn chế nào
của Luật, không chịu sự giám sát của thẩm phán. Theo ý kiến của chúng tôi, quy định như
vậy là không hợp lý.
Ngoài chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần
còn một loại chủ nợ nữa mà Luật không đề cập đến mặc dù sự hiện diện của loại chủ nợ này
trong thủ tục phá sản là hoàn toàn hiện thực và chủ nợ này có những quyền đặc trưng của
mình. Đó là chủ nợ mới – chủ nợ xuất hiện trên cơ sở các hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản. Luật đề cập đến các khoản nợ mới (Điều
31, điểm e) nhưng Luật lại không nói về chủ nợ mới. Luật thừa nhận sau khi có quyết định
mở thủ tục phá sản mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vẫn tiến hành bình thường
14


nhưng phải chịu sự giám sát, kiểm tra của Thẩm phán, Tổ quản lý tài sản (Điều 30). Điều này
có nghĩa là doanh nghiệp có thể giao kết hợp đồng mới - xuất hiện những chủ nợ mới, các
khoản nợ mới. Đây là sự thiếu lôgic và không chặt chẽ của Luật. Về lý thuyết, các chủ nợ
mới – khác với các chủ nợ cũ (những chủ nợ xuất hiện trên cơ sở các hợp đồng giao kết trước
khi có quyết định mở thủ tục phá sản) luôn có quyền được ưu tiên thanh toán trong mọi
trường hợp. Chỉ có như vậy các quy định của Luật về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp mới có tính khả thi. Nếu không có sự bảo đảm của Luật về quyền ưu tiên
thanh toán thì không một chủ nợ nào lại giao kết hợp đồng với một con nợ đã có quyết định
mở thủ tục phá sản và mọi cố gắng phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản chỉ là mong muốn chủ quan của nhà lập pháp mà thôi. Quyền ưu tiên thanh
toán của chủ nợ mới cần được thừa nhận trong cả thủ tục thanh lý tài sản.
Một vấn đề được đặt ra: Các chủ nợ mới có quyền tham gia vào danh sách chủ nợ hay
không? Câu hỏi này không được trả lời rõ ràng trong Luật. Các chủ nợ có bảo đảm mặc dù có
quyền ưu tiên thanh toán nhưng vẫn phải có tên trong danh sách chủ nợ để có quyền đòi nợ,
có quyền tham gia Hội nghị chủ nợ. Theo lôgic này thì các chủ nợ mới cũng phải có tên trong

danh sách chủ nợ. Tuy nhiên yêu cầu này có một số khó khăn. Vấn đề là danh sách chủ nợ
được lập trong thời hạn 75 ngày kể từ ngày cuối cùng đăng báo quyết định của Tòa án mở thủ
tục phá sản. Sau 13 ngày niêm yết và giải quyết khiếu nại nếu có thì danh sách này được
đóng lại. Trong khi đó doanh nghiệp có quyết định mở thủ tục phá sản vẫn tồn tại, vẫn hoạt
động kinh doanh, vẫn phải ký kết các giao dịch mới, có các chủ nợ mới và chỉ chấm dứt hoạt
động kinh doanh khi có quyết định thanh lý tài sản (Điều 82). Theo chúng tôi, để giải quyết
khó khăn này, Luật cần quy định khả năng bổ sung danh sách chủ nợ trong những trường hợp
cần thiết.

2.4Về giao dịch vô hiệu.
Luật quy định các giao dịch của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản quy định ở
khoản 1 Điều 43 được thực hiện trong khoảng thời gian ba tháng trước ngày Tòa án thụ lý
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản bị coi là vô hiệu. Nói cách khác là Luật thừa nhận khả năng
hồi tố với các loại giao dịch này dù chúng đã thực hiện xong nhằm bảo toàn tài sản của con
nợ. Tuy nhiên quy định này của Luật không thể áp dụng cho các giao dịch tương tự thực hiện
trong khoảng thời gian từ khi có quyết định thụ lý đến khi có quyết định mở thủ tục phá sản –
thời gian này là 30 ngày. Luật chỉ quy định những giao dịch bị cấm hoặc bị hạn chế sau khi
có quyết định mở thủ tục phá sản (Điều 31). Đây là sự sơ hở của LPSDN 1993 mà LPS 2004
vẫn không khắc phục được.

2.5Về người bảo lãnh.
Khoản 2 Điều 39 quy định trường hợp người bảo lãnh lâm vào tình trạng phá sản thì
người được bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản đối với người nhận bảo lãnh. Quy
định này xung đột với các quy phạm của Bộ luật Dân sự (BLDS). Theo khoản 2 Điều 4 LPS
2004 thì khi có sự khác nhau giữa quy định của Luật Phá sản và quy định của luật khác về
cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của Luật Phá sản. Khác nhau có thể hiểu là trái ngược
nhau được không? BLDS bảo vệ quyền, lợi ích của chủ nợ có bảo đảm trong mọi trường hợp.
Chủ nợ có bảo đảm là chủ nợ mà quyền đòi nợ luôn được bảo đảm bằng chính tài sản bảo
đảm. Quy định của khoản 2 Điều 39 LPS 2004 lại biến các chủ nợ có bảo đảm thành các chủ
nợ không có bảo đảm. Điều này là một bất lợi lớn cho các chủ nợ có bảo đảm. Hơn thế nữa,

quy định này tự nó đã mâu thuẫn với nội dung chủ đạo của LPS 2004 là bảo vệ lợi ích của
chủ nợ có bảo đảm trong thủ tục phá sản. Con nợ của chủ nợ có bảo đảm lâm vào tình trạng
15


phá sản thì chủ nợ có bảo đảm có thể tham gia vào thủ tục phá sản để thu hồi nợ và được ưu
tiên thanh toán. Còn khi người bảo lãnh của con nợ lâm vào tình trạng phá sản thì chủ nợ có
bảo đảm lại không được tham gia vào thủ tục phá sản của người bảo lãnh để thu hồi nợ và chỉ
có quyền yêu cầu con nợ - người được bảo lãnh trả nợ cho mình? Lôgic nào ở đây? Trong
mối quan hệ giữa chủ nợ có bảo đảm - người nhận bảo lãnh và người bảo lãnh phải chăng
người bảo lãnh không phải là con nợ của chủ nợ có bảo đảm?
Khoản 3 Điều 62 quy định người bảo lãnh sau khi đã trả nợ thay cho doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản có quyền tham gia Hội nghị chủ nợ với tư cách là chủ nợ không có bảo
đảm. Trường hợp đến thời điểm mở thủ tục phá sản mà người bảo lãnh vẫn chưa thực hiện
nghĩa vụ trả nợ thay cho con nợ - người được bảo lãnh thì lúc này ai có quyền tham gia vào
danh sách chủ nợ và Hội nghị chủ nợ? Chủ nợ có bảo đảm chăng? Câu trả lời ở đây là không.
Ở khía cạnh pháp lý và khía cạnh tâm lý không chủ nợ có bảo đảm nào lại muốn tham gia vào
thủ tục phá sản con nợ của mình khi đã có người bảo lãnh. Chủ nợ có bảo đảm trong trường
hợp này là chủ nợ có bảo đảm bằng tài sản của người bảo lãnh do vậy không có lý do gì để
chủ nợ có bảo đảm phải tham gia vào thủ tục phá sản con nợ - người được bảo lãnh. Tham
gia vào để làm gì? Vậy người bảo lãnh chăng? Câu trả lời cũng là không vì đơn giản là tại
thời điểm mở thủ tục phá sản người bảo lãnh chưa trả nợ thay cho con nợ, chưa được thừa
nhận là chủ nợ không có bảo đảm của con nợ - người được bảo lãnh. Không được tham gia
thủ tục phá sản của con nợ - người được bảo lãnh, người bảo lãnh sẽ ở trong tình trạng bất
lợi. Một mặt, đối với chủ nợ có bảo đảm, người bảo lãnh vẫn phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ
thay cho người được bảo lãnh, mặt khác sau khi thực hiện nghĩa vụ này người bảo lãnh có thể
sẽ không bao giờ thực hiện được quyền yêu cầu người được bảo lãnh trả nợ lại cho mình. Lý
do cũng rất đơn giản là người được bảo lãnh lúc đó đã bị tuyên bố phá sản, tài sản đã bị thanh
lý, đã bị xóa sổ, chấm dứt tồn tại với tư cách là chủ thể kinh doanh. Đây là vấn đề còn bỏ ngỏ
của LPS 2004.


2.6Về thủ tục phục hồi.
Nội dung của thủ tục phục hồi trong LPS 2004 có nhiều tiến bộ hơn so với LPSDN
1993. Doanh nghiệp muốn hồi phục ngoài ý chí chủ quan của các bên thể hiện trong phương
án phục hồi hoạt động kinh doanh cần có những điều kiện cần thiết về khả năng tài chính và
có sự khuyến khích của Nhà nước. Một trong những khuyến khích của Nhà nước có thể có ở
đây là quy định không tính lãi đối với các khoản nợ khi áp dụng thủ tục phục hồi nhằm giảm
nhẹ gánh nặng tài chính cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Tuy nhiên LPS 2004
không áp dụng quy định này ở thủ tục phục hồi mà lại áp dụng ở thủ tục thanh lý (Điều 34).
Việc giảm nhẹ khó khăn tài chính cho con nợ như giảm nợ, không tính lãi… hoàn toàn phụ
thuộc vào kết quả hòa giải giữa con nợ với các chủ nợ. Nói một cách khác là không có sự hỗ
trợ, khuyến khích của Luật đối với thủ tục phục hồi…
Về hậu quả của quyết định công nhận Nghị quyết về phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh: Theo Điều 72 LPS 2004, thẩm phán ra quyết định công nhận Nghị quyết của Hội nghị
chủ nợ về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nghị quyết này có
hiệu lực đối với tất cả các bên có liên quan. Kể từ ngày Nghị quyết có hiệu lực hoạt động của
doanh nghiệp bị chi phối bởi phương án phục hồi hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp có
nghĩa vụ tuân thủ phương án này và chịu sự giám sát của các chủ nợ và thẩm phán. Một câu
hỏi được đặt ra khi Nghị quyết này có hiệu lực thì những điều cấm, hạn chế đối với hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp do Luật định tại Điều 31 có đương nhiên chấm dứt hay không?
Luật không quy định cụ thể. Nhưng với suy luận lôgic thì câu trả lời ở đây là các điều cấm,
16


hạn chế hoạt động kinh doanh của Điều 31 đương nhiên phải tạm đình chỉ trong thời hạn tối
đa là 3 năm – thời hạn thực hiện phương án phục hồi hoặc phải chấm dứt hiệu lực. Mọi hoạt
động của doanh nghiệp không phù hợp với phương án phục hồi đã được Hội nghị chủ nợ
thông qua và Tòa án công nhận đều là các giao dịch trái pháp luật có thể bị tuyên bố vô hiệu.
Vì vậy LPS 2004 cần bổ sung quy định về hậu quả này khi thẩm phán công nhận Nghị quyết
về phương án phục hội của Hội nghị chủ nợ.


2.7 Về mối quan hệ giữa thanh lý tài sản và tuyên bố phá sản.
Theo truyền thống, tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản là tiền đề pháp lý cho việc thanh
lý tài sản của nó. Có nghĩa là phải tuyên bố phá sản với doanh nghiệp sau đó mới có lý do để
thanh lý tài sản của nó- chuyển hóa khối tài sản thành tiền và thực hiện việc phân chia số tiền
thu được theo thứ tự do luật định để bảo đảm sự công bằng. LPSDN 1993 đi theo truyền
thống đó. Còn LPS 2004 lại thừa nhận thủ tục thanh lý tài sản là thủ tục độc lập với thủ tục
tuyên bố phá sản và đảo lộn thứ tự của chúng. Người ta tiến hành thủ tục thanh lý tài sản của
con nợ trước sau đó mới tuyên bố nó bị phá sản. Thẩm phán ra quyết định tuyên bố con nợ bị
phá sản đồng thời với việc ra quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản (Điều 86). Ở đây có
mấy điểm cần bàn.
Thứ nhất là việc thanh lý tài sản của con nợ mà thực chất là việc định đoạt tài sản trái
với ý chí của con nợ dựa trên cơ sở pháp lý nào? Trong quyết định mở thủ tục thanh lý (Điều
81) chỉ nói về căn cứ của việc áp dụng thủ tục thanh lý – tức là khi nào thẩm phán có thể áp
dụng thủ tục này chứ không nói đến lý do, cơ sở vì sao Tòa án có thể định đoạt tài sản của
một doanh nghiệp đang tồn tại hợp pháp trái với ý muốn của nó? Chúng ta thử hình dung có
thể có tình huống sau trong tố tụng dân sự được không: người ta bán tài sản của bị đơn trước
rồi sau đó mới tuyên bản án xác định nghĩa vụ trả nợ của bị đơn – cơ sở pháp lý và lý do bán
tài sản để thi hành bản án? Trong thủ tục giải thể doanh nghiệp cũng có hai nội dung gắn liền
nhau giống như thủ tục phá sản là thanh lý tài sản của doanh nghiệp để giải quyết công nợ
của nó với các chủ nợ và chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp với tư cách là chủ thể kinh
doanh. Trong mối quan hệ giữa hai nội dung này thì thanh lý tài sản là bước sau. Người ta chỉ
tiến hành thanh lý tài sản và thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp sau khi có quyết định
giải thể nó. Quyết định giải thể doanh nghiệp chính là cơ sở pháp lý để thanh lý tài sản của nó
và thanh toán công nợ của nó với các chủ nợ (Điều 112 Luật Doanh nghiệp 1999). Rõ ràng
trình tự như LPS 2004 là không ổn. Trình tự này cho người ta cảm tưởng rằng việc thanh lý
tài sản của con nợ là nội dung quan trọng hơn việc tuyên bố phá sản. Trong khi đó về lý luận
thì tuyên bố phá sản đối với con nợ là một cách thức pháp lý thu hồi nợ của các chủ nợ. Các
chủ nợ thu hồi nợ bằng yêu cầu Tòa án tuyên bố phá sản với con nợ. Tuyên bố con nợ phá
sản phải là cái có trước.

Thứ hai là với trình tự như vậy thì thủ tục phá sản trở nên rườm rà hơn. Có hai quyết
định của Tòa án: quyết định mở thủ tục thanh lý và quyết định tuyên bố phá sản. Cả hai quyết
định này đều có thể bị khiếu nại và kháng nghị và đòi hỏi thời gian giải quyết. Nếu chúng ta
coi thanh lý tài sản chỉ là một nội dung của thủ tục tuyên bố phá sản, dựa trên quyết định
tuyên bố phá sản thì thủ tục phá sản gọn nhẹ hơn và lôgic hơn. Thanh lý tài sản có thể có
hoặc có thể không nhưng tuyên bố phá sản là một trong những mục tiêu chính của thủ tục phá
sản (khi không thể phục hồi doanh nghiệp).

17


2.8 Doanh nghiệp bị can thiệp quá sâu.
Công ty Vật tư nông nghiệp (Cty VTNN) Quảng Nam là doanh nghiệp nhà nước, kinh
doanh phân bón, thuốc trừ sâu phục vụ các địa phương trong tỉnh. Đến năm 2005, việc kinh
doanh của doanh nghiệp bị thua lỗ, mất khả năng thanh toán nợ đến hạn trên 25 tỷ đồng và
258.000 USD. Do đó, TAND tỉnh Quảng Nam mở thủ tục phá sản và kiểm kê, định giá tài
sản chỉ còn trên 2,8 tỷ đồng. Vụ việc đang tiến hành giải quyết thì UBND tỉnh Quảng Nam
thu hồi 648m2 đất cho Cty VTNN thuê xây dựng trụ sở làm việc, đồng thời ấn định giá khởi
điểm nhà làm việc, vật kiến trúc trên đất là 875 triệu đồng và quy định tổ chức, cá nhân trúng
đấu giá tài sản hình thành trên đất được mua hoặc thuê đất hàng năm theo quy định của pháp
luật.
Trên văn bản là vậy, nhưng thực tế UBND tỉnh Quảng Nam thu hồi đất của Cty
VTNN để giao cho Trung tâm Quan trắc và phân tích môi trường thuộc Sở TNMT sử dụng
làm trụ sở làm việc. Do đó, giá khởi điểm tài sản của Công ty VTNN cũng là giá mua của
Trung tâm Quan trắc và phân tích môi trường từ nguồn ngân sách địa phương. Trong khi đó,
Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Quảng Ngãi là chủ nợ chính đã
nhiều lần xin mua tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất của Công ty VTNN để trừ nợ vay
1.138.931.374 đồng và trên 258.000 USD (tương đương 5,272 tỷ đồng tại thời điểm 2008),
nhưng vẫn không được UBND tỉnh Quảng Nam chấp nhận. Hoặc, Cty VTNN Quảng Nam
thuê của UBND thành phố Đà Nẵng đất xây dựng nhà kho; Văn phòng đại diện. Năm 2007

UBND thành phố Đà Nẵng thu hồi 13.294m2 đất cho thuê để khai thác quỹ đất và phê duyệt
giá đền bù, hỗ trợ thiệt hại cho Cty VTNN Quảng Nam gần 1,5 tỷ đồng và giao cho Công ty
Cổ phần Trường Xuân và Công ty Quản lý – Khai thác đất Đà Nẵng có nhiệm vụ thanh toán
khoản tiền trên cho Cty VTNN Quảng Nam, nhưng đến nay 2 Công ty này vẫn im hơi lặng
tiếng.
Trường hợp khác, Công ty Mía đường Quảng Nam được Bộ NN và PTNT cho thành
lập năm 2000 và được Sở Tài nguyên và Môi trường Quảng Nam ký hợp đồng cho thuê
65.180m2 đất với giá 1.087,5 đồng/m2/năm, thời hạn sử dụng 50 năm. Hợp đồng còn ghi
nhận “Trường hợp bên thuê đất bị chia tách, sáp nhập, chuyển đổi doanh nghiệp hoặc chuyển
nhượng tài sản cho các tổ chức cá nhân khác mà tạo nên pháp nhân mới thì phải lập thủ tục
thuê đất trong thời gian còn lại”. Qua 6 năm sản xuất kinh doanh, Cty Mía đường Quảng
Nam luôn bị thua lỗ kéo dài và mất khả năng thanh toán nợ vay đến hạn 295 tỷ đồng và 3
triệu USD. Tòa án tỉnh Quảng Nam mở thủ tục phá sản và kiểm kê, bán đấu giá tài sản là trụ
sở làm việc, nhà xưởng, máy móc thiết bị… hình thành trên đất thuê được 47,680 tỷ đồng.
Nhưng trước đó, UBND tỉnh Quảng Nam đã thu hồi toàn bộ diện tích đất cho Công ty Mía
đường Quảng Nam thuê để đầu tư vào dự án khác, buộc đơn vị trúng đấu giá tài sản phải tháo
dỡ toàn bộ trụ sở làm việc, nhà xưởng, máy móc, thiết bị để giao lại đất cho Nhà nước.
Thực tế, công tác thu hồi nợ đối với 2 doanh nghiệp bị phá sản rất khó khăn. Các con
nợ của doanh nghiệp bị phá sản lên đến vài trăm đơn vị, cá nhân và nằm rải rác trong, ngoài
tỉnh. Đặc biệt hơn, doanh nghiệp tìm mọi cách né tránh nghĩa vụ của mình, còn các đại lý và
cá nhân thì không có địa chỉ rõ ràng… việc thu hồi nợ không khác gì mò kim đáy biển. Chính
vì thế, việc giải quyết việc phá sản của 2 công ty này từ năm 2005 đến nay vẫn treo lơ lửng,
chưa đủ điều kiện để tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản. Điều quan trọng hơn, UBND tỉnh
Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng đã can thiệp vào quyền định đoạt về tài sản của doanh
nghiệp. Điều này khiến Công ty Mía đường, Công ty VTNN Quảng Nam và Chi nhánh Ngân
hàng Thương mại Cổ phần nông nghiệp Quảng Ngãi càng khó khăn hơn.
18


2.9 Sự chồng chéo giữa các luật.

Luật Phá sản quy định Thẩm phán có nhiệm vụ, quyền hạn giám sát, tiến hành thủ tục
phá sản. Nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì cung cấp tài liệu cho Viện kiểm sát cùng cấp
để xem xét việc khởi tố về hình sự và vẫn tiến hành thủ tục phá sản. Đối với Tổ trưởng Tổ
quản lý, thanh lý tài sản thì có nhiệm vụ tổ chức thi hành quyết định của Thẩm phán theo quy
định của pháp luật về thi hành án dân sự. Tuy nhiên, Luật Thi hành án dân sự quy định Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra các quyết định thi hành các bản án, quyết định của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật, không cho phép ban hành các quyết định thi hành án đối với các
quyết định của Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản, kể cả quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời. Như vậy, Chấp hành viên làm Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản
không có quyền ra các quyết định thi hành án đối với quyết định của Thẩm phán về phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã.
Ngoài ra, luật cũng quy định Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản theo quy định của Luật này và Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân. Theo đó, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kháng nghị đối với quyết định
mở thủ tục thanh lý tài sản và quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản.
Nhưng Luật không quy định Tổ thẩm phán hoặc Tổ quản lý, thanh lý tài sản chuyển hồ sơ
việc phá sản cho viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu, xác định tính hợp pháp về các quyết
định của Tổ Thẩm phán, để bảo đảm cho việc kháng nghị của Viện kiểm sát đúng pháp luật.
Vậy, việc xác định công nợ, miễn, giảm để xóa nợ; kiểm kê, định giá, bán đấu giá tài sản; lập
phương án phân chia tài sản có vô tư khách quan để kháng nghị hoặc kiến nghị khắc phục,
sửa chữa những tồn tại trong việc giải quyết phá sản?
Còn một thực tế khác là, Thẩm phán và Chấp hành viên được phân công giải quyết
việc phá sản, kinh nghiệm nghề nghiệp chưa cao, luôn bị động, lúng túng nên đã dẫn đến
những sai sót khi áp dụng pháp luật vào thực tiễn. Mặt khác, Thẩm phán và Chấp hành viên
ngại vướng trách nhiệm cá nhân, phải bồi thường thiệt hại khi thực hiện các biện pháp giải
quyết việc phá sản. Các thành viên trong Tổ quản lý, thanh lý tài sản là những người đại diện
cho chủ nợ, đại diện cho doanh nghiệp bị mở thủ tục phá sản thực hiện nhiệm vụ kiêm nhiệm
theo sự phân công của người quản lý trực tiếp. Vì không phải là nhiệm vụ chuyên môn, nên
sự tham gia phối hợp của những thành viên thiếu nhiệt tình. Ngoài ra, kinh phí hoạt động của
Tổ quản lý, thanh lý tài sản chủ yếu sử dụng từ nguồn kinh phí của Cơ quan thi hành án dân

sự, nhưng con nợ quá nhiều, chẳng hạn Công ty Mía đường Quảng Nam gần 500 con nợ và
nằm rải rác ở nhiều tỉnh, thành khác nhau. Nguồn kinh phí của cơ quan thi hành án dân sự có
hạn và chủ yếu phục vụ công tác thi hành các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật, không thể đáp ứng yêu cầu phục vụ cho việc thu hồi nợ trong việc phá sản. Đồng
thời, chế độ thù lao cho những người làm công tác giải quyết việc phá sản còn quá khiêm tốn,
cho nên công tác đi lại thu hồi nợ bị hạn chế nhất định, mà không thu hồi được nợ thì không
thể tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản.
Từ thực tế này, thiết nghĩ cần quan tâm sửa đổi, bổ sung Luật Phá sản năm 2004,
nhằm khắc phục sự chồng chéo, bất cập, đặc biệt hạn chế sự can thiệp của các chính quyền
địa phương quá trình giải quyết việc phá sản; đồng thời tạo sự đồng bộ giữa các quy định của
Luật Phá sản, Luật Thi hành án dân sự và những văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật liên
quan đến lĩnh vực phá sản. Bên cạnh đó, cần xem xét lại chế độ thù lao cho những người làm
công tác giải quyết việc phá sản.

19


Phần III. SO SÁNH LUẬT PHÁ SẢN VỚI MỘT SỐ
NƯỚC TƯ BẢN CHỦ NGHĨA TRÊN THẾ GIỚI
Phá sản chỉ là một trong vô số phương cách tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước. Chữa
trị căn bệnh mất khả năng thanh toán trong điều kiện hệ thống tư pháp, kế toán, kiểm toán và
bổ trợ tư pháp chưa phát triển cần dựa vào những thiết chế và công cụ đã có sẵn trong các nền
kinh tế chuyển đổi. Việc vay mượn luật phá sản từ phương Tây vào nước ta cũng cần được
nhìn nhận trong một bối cảnh như vậy.
Trong điều kiện nền kinh tế toàn cầu hóa ngày nay, nhu cầu xây dựng và hoàn thiện
khung pháp luật về kinh tế nói chung và pháp luật phá sản nói riêng luôn được các quốc gia
quan tâm, chú ý. Trong bối cảnh đó, Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm đến việc xây dựng,
sửa đổi pháp luật, theo đó pháp luật phá sản cũng không là ngoại lệ. Do vậy, việc nghiên cứu,
tham khảo pháp luật về phá sản của các nước trên thế giới và trong khu vực có ý nghĩa quan
trọng đối với việc hoàn thiện pháp luật phá sản trong nước.


1. Khái quát chung về pháp luật phá sản một số nước trên thế giới.

1.1Pháp luật về phá sản ở NHẬT BẢN.
Do hoàn cảnh lịch sử nên hệ thống pháp luật về phá sản ở Nhật Bản không được quy
định trong một văn bản duy nhất mà được quy định trong nhiều luật, bộ luật khác nhau và
được ban hành tại nhiều thời điểm khác nhau
- Luật Phá sản (năm 1922);
- Bộ luật thương mại (năm 1938);
- Luật về thoả hiệp (năm 1922; năm 2000);
- Bộ luật về phục hồi dân sự (năm 1999; năm 2000);
- Luật về tổ chức lại công ty (năm 1952).
Để giải quyết tình trạng một doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, pháp luật Nhật Bản quy
định về thủ tục thanh lý tài sản và thủ tục phục hồi.

1.2Pháp luật về phá sản ở PHÁP.
Quy định của pháp luật hiện đại về phá sản của Pháp được đưa ra trong các luật năm
1955, năm 1967. Hiện tại, việc giải quyết phá sản ở Pháp được quy định tại Luật ngày 25-011985 (được sửa đổi theo Luật Phá sản ngày 20-10-1994). Một trong những đặc trưng của
pháp luật phá sản hiện đại của Pháp là khuyến khích sự sống sót của doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản. Pháp luật cũng phân biệt rõ các quyền yêu cầu Toà án tuyên bố phá sản và
sự phân biệt thứ tự ưu tiên các quyền của chủ nợ đối với người mắc nợ.
20


Pháp luật về phá sản của Pháp cũng quy định hai thủ tục: Thủ tục phục hồi và thủ tục
phá sản
Luật phá sản của pháp tăng quyền hạn của các chủ nợ và nâng cao tính hiệu quả của
quá trình tổ chức lại doanh nghiệp
Khác với Luật Phá sản của Nhật Bản yêu cầu kế hoạch tổ chức lại doanh nghiệp phải
được một tỷ lệ nhất định các chủ nợ ở mỗi nhóm chủ nợ thông qua, Luật Phá sản của Pháp

cho phép Toà án quyết định chấp thuận hay từ chối kế hoạch do người được Toà án chỉ định
đưa ra mà không cần các chủ nợ lớn phải thông qua. Người được Toà án chỉ định có trách
nhiệm tư vấn cho các nhà quản lý doanh nghiệp, những người đại diện cho người lao động,
các chủ nợ của doanh nghiệp và các cơ quan có liên quan khác và yêu cầu họ cho biết quan
điểm của họ là nên để doanh nghiệp tiếp tục tồn tại hay là thanh toán nó. Nhưng quyết định
cuối cùng lại do Toà án quyết định mà không cần sự đồng ý của các chủ nợ. Đây là đặc điểm
riêng của Luật Phá sản của Pháp

1.3Pháp luật phá sản ở LIÊN BANG NGA.
Theo quy định của Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1992 của Liên bang Nga thì tình
trạng phá sản của doanh nghiệp được hiểu là việc mất khả năng đáp ứng yêu cầu của chủ nợ
về thanh toán hàng hóa (công việc, dịch vụ) kể cả việc mất khả năng bảo đảm các thanh toán
phải nộp ngân sách và các quỹ ngoài ngân sách do nghĩa vụ của người mắc nợ vượt quá tài
sản của mình hoặc do mất cân đối trong cán cân thanh toán của người mắc nợ
Doanh nghiệp bị coi là phá sản kể từ thời điểm Toà án trọng tài công nhận tình trạng
phá sản hoặc từ thời điểm doanh nghiệp mắc nợ chính thức tuyên bố phá sản tự nguyện (Điều
1 Luật Phá sản doanh nghiệp của Cộng hòa Liên bang Nga năm 1992).
Luật Phá sản doanh nghiệp của Liên bang Nga quy định các thủ tục gồm: (1) Thủ tục
tổ chức lại; (2) Thủ tục thanh lý.
Thủ tục tổ chức lại bao gồm việc quản lý tài sản của người mắc nợ và phục hồi doanh
nghiệp mắc nợ.
Thủ tục thanh lý bao gồm: Giải thể bắt buộc doanh nghiệp mắc nợ theo quyết định của
Toà án trọng tài; Giải thể tự nguyện bởi doanh nghiệp bị phá sản dưới sự kiểm soát của các
chủ nợ (Điều 2 Luật Phá sản doanh nghiệp của Liên bang Nga năm 1992).

21


2. Những điểm khác biệt của luật phá sản doanh nghiệp Việt nam so với các
nước và bài học rút ra cho Việt Nam.

Qua việc tìm hiểu pháp luật phá sản của một số nước trên thế giới, có thể thấy một số
vấn đề cần nghiên cứu thêm trong các quy định của Luật Phá sản năm 2004 của Việt Nam
Thứ nhất, theo quy định tại Điều 13 và Điều 15 của Luật Phá sản năm 2004 về quyền
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì giấy tờ, tài liệu kèm theo đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản là rất
chặt chẽ và nhiều hơn trong trường hợp chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.
Tuy nhiên, kinh nghiệm một số nước trên thế giới cho thấy là trong trường hợp người
mắc nợ nộp đơn (hay chính doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản nộp đơn),
Toà án thường yêu cầu ít giấy tờ, tài liệu hơn so với trường hợp chủ nợ nộp đơn (ví dụ: pháp
luật phá sản của Nhật Bản). Nên chăng, thay vì việc quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của
người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (Điều 19 Luật Phá sản năm 2004) cần nghiên cứu
thêm về yêu cầu các giấy tờ, tài liệu kèm theo đơn yêu cầu phá sản doanh nghiệp khi người
nộp đơn là chủ nợ.
Thứ hai, theo quy định tại khoản 1 Điều 15 Luật Phá sản năm 2004 thì khi nhận thấy
doanh nghiệp của mình lâm vào tình trạng phá sản thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp
pháp của doanh nghiệp phải nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Tuy nhiên, Luật Phá sản
năm 2004 đã không quy định chế tài nên trách nhiệm này không được người mắc nợ nghiêm
chỉnh chấp hành và vì vậy cũng ảnh hưởng đến tính hiệu lực của Luật Phá sản năm 2004
trong thực tiễn. Việc không quy định chế tài ở trong Luật Phá sản năm 2004 dẫn đến quy
định tại Điều 15 dường như không có ý nghĩa.
Về vấn đề này, nên chăng cần tham khảo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới
đặc biệt là pháp luật phá sản của Pháp. Điều 128 Luật Phá sản của Pháp quy định, người mắc
nợ có thể bị kết tội phá sản trong trường hợp không thực hiện nghĩa vụ khởi kiện nếu không
có lý do chính đáng. Mặt khác, Luật Phá sản của Pháp còn trao quyền cho Công tố viên yêu
cầu mở thủ tục phá sản. Hoặc, chúng ta có thể xem xét nghiên cứu việc trao quyền yêu cầu
mở thủ tục phá sản cho Thanh tra Nhà nước hay Cơ quan kiểm toán. Trong tình trạng hiện
nay, khi mà tồn tại phổ biến tâm lý e ngại khởi kiện phá sản, thì việc trao quyền khởi kiện
phá sản cho các cơ quan đó có thể là cần thiết nhưng việc nghiên cứu các tiêu chí khởi kiện là

vấn đề quan trọng.
22


Thứ ba, pháp luật phá sản hiện hành chủ yếu quy định về tố tụng (tức là thủ tục, trình
tự thụ lý giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản) trong khi phần pháp luật nội dung còn ít. Tức
là chưa có những quy định cụ thể giải quyết tình trạng khó khăn về tài chính của doanh
nghiệp; các hình thức giúp doanh nghiệp mắc nợ thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh
toán như pháp luật về xử lý tình trạng mất khả năng thanh toán của nhiều nước trên thế giới
hiện nay.
Thứ tư, Luật Phá sản năm 2004 quy định Tổ quản lý, thanh lý tài sản làm nhiệm vụ
quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, một chấp
hành viên của cơ quan thi hành án cùng cấp làm Tổ trưởng. Luật Phá sản năm 2004 trao
quyền quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản cho
Tổ quản lý, thanh lý tài sản do Chấp hành viên (người của cơ quan Thi hành án cùng cấp làm
Tổ trưởng).
Việc trao quyền quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình
trạng phá sản cho Thẩm phán hay Chấp hành viên (là những luật gia) là vượt quá khả năng
của họ. Bởi họ ít am hiểu các hoạt động kinh tế nên không thể đảm đương tốt nhiệm vụ,
không thể giám sát, kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp.
Theo chúng tôi, khi nghiên cứu sửa đổi Luật Phá sản năm 2004, chúng ta cần nhận
thức lại vấn đề này và có sự nghiên cứu thích hợp pháp luật phá sản nước ngoài (như pháp
luật phá sản của Liên bang Nga, Anh, Pháp, Nhật Bản…), không giao nhiệm vụ quản lý,
thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản cho Thẩm phán hay
Chấp hành viên mà quy định một thành phần đặc biệt là Quản tài viên (Người quản lý tài
sản). Người này được Toà án bổ nhiệm trên cơ sở giới thiệu của doanh nghiệp hay chủ nợ.
Bên cạnh đó, cần có những quy định cụ thể tiêu chuẩn của những người này.
Do đó, chúng ta cần nghiên cứu cơ chế Toà án chỉ định một người đủ tiêu chuẩn thay
mặt Toà án đứng ra làm nhiệm vụ giám sát, kiểm tra hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, đồng thời quy định rõ những nội dung giám sát, kiểm

tra của người này.
Thứ năm, theo Luật Phá sản năm 2004 thì phương án phân chia tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã là nội dung chính trong Quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản (theo quy
định tại điểm đ khoản 1 Điều 81 Luật Phá sản năm 2004). Tuy có sự sửa đổi như nêu trên
nhưng thực tiễn áp dụng quy định này vẫn gặp nhiều khó khăn vướng mắc vì thực tế việc
phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã phải căn cứ vào giá bán thực tế
tài sản do Tổ quản lý, thanh lý tài sản thực hiện mà Tổ quản lý, thanh lý tài sản lại do Chấp

23


hành viên làm Tổ trưởng, họ sẽ khó có thể thực hiện được nhiệm vụ. Do đó, thay vì sự tham
gia của Chấp hành viên thì nên quy định cho nhân viên thanh toán tài sản thực hiện.
Về vấn đề này, chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm của Liên bang Nga. Theo đó,
việc định giá tài sản của Toà án chỉ nhằm phục vụ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản,
chỉ để xem xét một doanh nghiệp, hợp tác xã có lâm vào tình trạng phá sản hay không hoặc
làm căn cứ để đánh giá khả năng phục hồi của doanh nghiệp… Khi doanh nghiệp đã thực sự
phá sản thì Toà án chỉ ra quyết định tuyên bố phá sản và giao cho nhân viên thanh toán thực
hiện việc phân chia giá trị còn lại của doanh nghiệp.
Để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển nền kinh tế đất nước trong thời gian tới, pháp
luật phá sản cần được hoàn thiện hơn nữa. Pháp luật phá sản phải khắc phục được những
khiếm khuyết, bất cập trên cơ sở tổng kết thực tiễn áp dụng và tham khảo những kinh nghiệm
hay của pháp luật phá sản các nước trong khu vực cũng như pháp luật phá sản thế giới.

24


Những đặc

VIỆT NAM


CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

Luật phá sản

- Nhật Bản: Trong nhiều văn bản luật, bộ khác nhau và tại

điểm
1.
Hệ thống

doanh nghiệp năm

pháp luật

2004

nhiều thời điểm khác nhau do hoàn cảnh lịch sử tác động.
- Pháp: Tại Luật ngày 25-01-1985 (được sửa đổi theo Luật

được quy

Phá sản ngày 20-10-1994).

định tại

- Liên bang Nga: Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1992.
- Cộng hòa nhân dân Trung Hoa: Luật phá sản doanh

2.

Về thủ tục

nghiệp 2006
- Thủ tục phá
- Nhật Bản, Liên bang Nga, Cộng hòa nhân dân Trung
sản được áp dụng
Hoa : Thủ tục thanh lý tài sản và Thủ tục phục hồi
đối với doanh
nghiệp, hợp tác xã
- Pháp : Thủ tục phục hồi và Thủ tục phá sản
lâm vào tình trạng
phá sản bao gồm:
a) Nộp đơn
yêu cầu và mở thủ
tục phá sản;
b) Phục hồi
hoạt động kinh
doanh;
c) Thanh lý
tài sản, các khoản
nợ;
d) Tuyên bố
doanh nghiệp, hợp
tác xã bị phá sản
- Thủ tục

3.
Đặc trưng

thanh lý tài sản

Đảm bảo

- Nhật Bản: Để giải quyết tình trạng một doanh nghiệp làm

quyền và nghĩa vụ

ăn thua lỗ. Nhật Bản yêu cầu kế hoạch tổ chức lại doanh nghiệp

của chủ nợ. Xác

phải được một tỷ lệ nhất định các chủ nợ ở mỗi nhóm chủ nợ thông

định vai trò ra quyết

qua,

định phá sản doanh

- Pháp: khuyến khích sự sống sót của doanh nghiệp lâm vào

nghiệp của Tòa án.

tình trạng phá sản, phân biệt rõ các quyền yêu cầu Toà án tuyên bố
25


×