Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Các vấn đề liên quan đến chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.94 KB, 12 trang )

Mục lục
Lời mở đầu
Giải quyết vấn đề
I.Các vấn đề liên quan đến chia tài sản chung thời kì hôn nhân
1.Thời kì hôn nhân
2.Tài sản chung
3.Vấn đề chia tài sản chung thời kì hôn nhân
3.1.Các trường hợp được phép chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân.
3.2.Các trường hợp không được chấp nhận chia tài sản chung trong thời kì hôn
nhân.
3.3.Phương thức chia tài sản trong thời kì hôn nhân .
3.4.Thời điểm có hiệu lực của chia tài sản chung.
3.5.Hậu quả pháp lí của việc chia tài sản chung
3.6.Khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng
3.7.Thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung
II. Hướng hoàn thiện
Kết luận

1


Lời mở đầu
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì vấn đề tài sản trở thành một vấn đề
quan trọng trong cuộc sống hôn nhân và gia đình trong đó chia tài sản trong thời
kì hôn nhân trở nên ngày càng cấp thiết và có thể coi đó là một giải pháp tốt
trong điều kiện phát triển kinh tế nhanh như hiện nay đảm bảo được cuộc sống
gia đình ,quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ tài sản và đảm bảo
các mối quan hệ xã hội. Xuất phát từ thực tiễn xã hội em đã chọn đề tài “ Vấn
đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân và hướng hoàn thiện
về vấn đề này“ để đi sâu tìm hiểu.
Chế độ tài sản chung của vợ chồng được qui định tại các điều 27, 28 Luật


HN&GĐ năm 2000 là chế độ tài sản pháp định với hình thức chế độ cộng đồng
tạo sản (tài sản mà vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân được xác định là
tài sản chung, trừ những tài sản theo qui định của pháp luật thuộc sở hữu riêng
của vợ, chồng). Về nguyên tắc, khi hôn nhân còn tồn tại thì tài sản chung cũng
vẫn còn tồn tại, chế độ tài sản này chỉ chấm dứt khi hôn nhân chấm dứt về mặt
pháp lý (ly hôn; một bên vợ, chồng chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết)
Tuy nhiên, trên thực tế nhiều cặp vợ chồng muốn được chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân (có thể xuất phát từ mâu thuẫn giữa vợ chồng trong quản lý sử
dụng, định đoạt tài sản chung xuất phát từ mâu thuẫn về tình cảm, song họ
không muốn ly hôn nhưng muốn được độc lập về tài sản để tránh phát triển mâu
thuẫn và được độc lập trong cuộc sống…)
Xuất phát từ thực tế trên, Luật HN&GĐ năm 2000 trên cơ sở kế thừa Luật
HN&GĐ năm 1986 (Điều 18 ) tiếp tục qui định chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân (Điều 29 và Điều 30), các qui định này được hướng dẫn
từ Điều 6 đến Điều 11 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của Chính
phủ qui định chi tiết thi hành Luật HN&GĐ năm 2000 (sau đây gọi chung là
Nghị định số 70).
Theo qui định của pháp luật HN&GĐ hiện hành, trong trường hợp có lý do
chính đáng, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể
được thực hiện thông qua thoả thuận bằng văn bản giữa vợ và chồng, hoặc bản
án, quyết định của Toà án. Khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, quan
hệ nhân thân giữa vợ và chồng không thay đổi. Đây chính là điểm khác biệt cơ
bản nhất của chế định này so với chế định ly thân được qui định trong pháp luật
của một số nước phương Tây(1). Tuy nhiên, quan hệ sở hữu giữa vợ và chồng
2


đối với tài sản đã có sự thay đổi rất nhiều. Theo Điều 30 Luật HN&GĐ và theo
Điều 8 Nghị định số 70, phần tài sản mà vợ, chồng được chia, hoa lợi, lợi tức từ
tài sản riêng, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu

nhập hợp pháp khác của vợ, chồng sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của
mỗi bên trừ khi vợ chồng có thoả thuận khác.

Giải quyết vấn đề
I.Các vấn đề liên quan đến chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân .
1.Thời kì hôn nhân.
Theo quy định của khoản 7,điều 8 bộ luật hôn nhân và gia đình năm 2000
thì thời kì hôn nhân được định nghĩa là “ Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian
tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn
nhân”
Như vậy thời kì hôn nhân theo quy định của pháp luật phải được pháp luật thừa
nhận bằng việc đăng kí kết hôn( trừ trường hợp chung sống như vợ như chồng
trước ngày 1/1/2003 ) và kể từ lúc đó họ được coi là vợ chồng và phát sinh các
quan hệ hôn nhân gia đình cho đến khi chấm dứt hôn nhân (có quyết định ly hôn
của tòa án ,một trong hai bên bị chết,hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết ).Khi
quan hệ hôn nhân còn tồn tại thì sẽ phát sinh những hệ lụy về tài sản giữa vợ và
chồng sau đây :
- Tài sản chung không phải do cả 2 cùng làm ra nhưng vẫn sẽ là tài sản
chung(như lương của vợ hoặc chồng )
- Tài sản chung không phụ thuộc vào việc vợ chồng ở chung hay ở riêng
- Quyền bình đẳng về tài sản giữa vợ và chồng khi liên quan đến tài sản
chung
2.Tài sản chung của vợ chồng
Theo quy định của điều 27,luật hôn nhân gia đình năm 2000 thì tài sản chung
của vợ chồng bao gồm :
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc
được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản
chung.Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung

của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn,
3


được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.Tài sản
chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy
định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải
ghi tên của cả vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang
có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.
Như vậy tài sản chung của vợ chồng chỉ hình thành khi có quan hệ hôn nhân
vẫn đang còn hiệu lực.
3.Vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân.
3.1.Các trường hợp được phép chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân.
Điều 29. Luật năm 2000 đã quy định về vấn đề chia tài chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân
“ Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng,
thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có
thể thoả thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn
bản; nếu không thoả thuận được thì có quyền yêu cầu Toà án giải quyết.”
Theo đó ta có thể đi vào một số trường hợp cụ thể sau
+ Trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng : Trong thời buổi kinh tế thị
trường hiện nay, nhà nước và xã hội luôn khuyến khích làm giàu vì vậy nhu cầu
về vốn đầu tư kinh doanh là rất lớn nhưng không phải vợ chồng nào cũng thuận
tình cho nhau khi vợ hoặc chồng đem tài sản chung của gia đình đi kinh
doanh .Vì vậy họ cần chia tài sản chung để đảm bảo cho cuộc sống gia đình
cũng như tránh được những ảnh hưởng tiêu cực ,rủi ro trong kinh doanh gây ra
+ Trường hợp thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng : Nếu vợ hoặc chồng phải thực
hiện nghĩa vụ dân sự riêng mà họ không có tài sản riêng để hoặc tài sản riêng

không đủ để thực hiện thì vợ hoặc chồng có thể chia tài sản chung để giúp
người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của mình.
+ Trường hợp các cặp vợ chồng già không muốn ly hôn ( vì sợ ảnh hưởng đến
con cháu,sợ dư luận…)mà chấp nhận ly thân đồng thời chia tài sản chung để
mỗi người có thể thực hiện theo ý muốn của mình hoặc vợ,chồng có ý phá hoại
4


tài sản chung thì bên kia có quyền yêu cầu chia để bảo vệ phần tài sản chung
của mình.
+Trường hợp có lý do chính đáng khác xuất phát từ các mối quan hệ xã hội
ngày càng đa dạng phức tạp của vợ hoặc chồng mà họ cần duy trì các mối quan
hệ đó liên quan đến tài sản chung của vợ chồng thì cũng có thể chia.
Ngày 03-10-2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy
định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình, tại Điều 6 quy định:
“1. Thỏa thuận chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân quy
định tại khoản 1 Điều 29 của Luật Hôn nhân và gia đình phải được lập thành
văn bản và ghi rõ các nội dung sau đây:
a) Lý do chia tài sản.
b) Phần tài sản chia (bao gồm bất động sản, động sản, các quyền tài sản);
trong đó, cần mô tả rõ những tài sản được chia hoặc giá trị phần tài sản được
chia.
c) Phần tài sản còn lại không chia, nếu có;
d) Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung; các nội dung khác, nếu
có.
2. Văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải ghi rõ ngày, tháng,
năm lập văn bản và phải có chữ ký của cả vợ và chồng; văn bản thỏa thuận có
thể có người làm chứng hoặc được công chứng, chứng thực theo yêu cầu của
vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.
3. Trong trường hợp vợ, chồng không thỏa thuận được về việc chia tài sản

chung, thì cả hai bên hoặc một bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết”.

5


3.2.Các trường hợp không được chấp nhận chia tài sản chung trong thời kì hôn
nhân.
Khoản 2 điều 29 luật năm 2000 đã quy định về các trường hợp không được chia
“Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về
tài sản không được pháp luật công nhận “.Điều đó được cụ thể hóa trong nghị
định 70/2001/NĐ-CP
Điều 11. Việc chia tài sản chung bị vô hiệu
Theo yêu cầu của những người có quyền, lợi ích liên quan thì việc chia tài
sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ về tài sản sau
đây bị Toà án tuyên bố là vô hiệu:
1. Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng người khác theo quy định của pháp luật.
2. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.
3. Nghĩa vụ thanh toán khi bị Toà án tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
4. Nghĩa vụ nộp thuế và nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước.
5. Nghĩa vụ trả nợ cho người khác.
6. Các nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của pháp luật.
3.3.Phương thức chia tài sản trong thời kì hôn nhân .
Luật hôn nhân gia dình năm 1986 quy định chia tài sản chung của vợ
chồng khi hôn nhân tồn tại như chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.Khác
với luật năm 1986 .Luật năm 2000 không quy định phương thức chia cụ thể mà
quy định’ Vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung “.Như vậy luật năm
2000 tôn trọng sự thỏa thuận của vợ chồng. Điều đó khẳng định quyền của vợ
chồng trong việc chiếm hữu ,sử dụng và định đoạt tài sản chung
3.4.Thời điểm có hiệu lực của chia tài sản chung.
Theo quy định tại Điều 7 của nghị định70/2001/NĐ-CP Thời điểm

có hiệu lực của việc chia tài sản chung được tính như sau :
1. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng
không xác định rõ thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản, thì hiệu lực được
tính từ ngày, tháng, năm lập văn bản.
6


2. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng
được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng, thì hiệu lực được
tính từ ngày xác định trong văn bản thoả thuận; nếu văn bản không xác định
ngày có hiệu lực đó, thì hiệu lực được tính từ ngày văn bản đó được công
chứng, chứng thực.
3. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng
phải công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật, thì hiệu lực được tính
từ ngày văn bản đó được công chứng, chứng thực.
4. Trong trường hợp Toà án cho chia tài sản chung theo quy định tại khoản
3 Điều 6 của Nghị định này, thì việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu
lực kể từ ngày quyết định cho chia tài sản chung của Toà án có hiệu lực pháp
luật.
3.5.Hậu quả pháp lí của việc chia tài sản chung .
Điều 8 của nghị định 70/2001/NĐ-CP Hậu quả chia tài sản chung của vợ,
chồng trong thời kỳ hôn nhân
1. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thì thuộc sở hữu riêng
của mỗi người, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác.
Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản chung còn lại vẫn thuộc sở hữu
chung của vợ, chồng.
2. Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu
nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của
vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác.
3.6.Khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng

Điều 9của nghị định 70/2001/NĐ-CP quy định về khôi phục chế độ
tài sản chung của vợ chồng
1. Trong trường hợp vợ chồng đã chia tài sản chung và sau đó muốn khôi
phục chế độ tài sản chung, thì vợ chồng phải thoả thuận bằng văn bản có ghi rõ
các nội dung sau đây:
a) Lý do khôi phục chế độ tài sản chung;
b) Phần tài sản thuộc sở hữu riêng của mỗi bên;
c) Phần tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng, nếu có;
7


d) Thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung;
đ) Các nội dung khác, nếu có.
2. Văn bản thoả thuận phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập văn bản và phải có
chữ ký của cả vợ và chồng; văn bản thoả thuận có thể có người làm chứng hoặc
được công chứng, chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định
của pháp luật.
3.7.Thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung
Điều 10.nghị định 70/2001/NĐ-CP quy định thời điểm có hiệu lực của việc khôi
phục chế độ tài sản chung
1. Trong trường hợp văn bản thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung
của vợ chồng không xác định rõ thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục chế
độ tài sản chung, thì hiệu lực được tính từ ngày, tháng, năm lập văn bản.
2. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng
được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng, thì văn bản thoả
thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng cũng phải được công chứng
hoặc chứng thực và việc khôi phục chế độ tài sản chung có hiệu lực kể từ ngày
xác định trong văn bản thoả thuận; nếu văn bản không xác định ngày có hiệu
lực đó, thì hiệu lực được tính từ ngày văn bản đó được công chứng, chứng thực.
3. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải

công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật, thì văn bản thoả thuận
khôi phục chế độ tài sản chung cũng phải được công chứng,

II.Hướng hoàn thiện .
Về phương hướng hoàn thiện có một số điểm cần lưu ý sau
đây :
1. Việc pháp luật HN&GĐ chỉ công nhận vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng có
quyền yêu cầu Toà án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, quyền khởi
kiện của người thứ ba trong trường hợp này không được thừa nhận (Điều 29
Luật HN&GĐ năm 2000), là hoàn toàn phù hợp về mặt nguyên tắc. Tuy nhiên,
nếu áp dụng quy định này vào thực tiễn vẫn còn vấn đề bất cập cần phải có sự
vận dụng linh hoạt hơn. Theo luật hiện hành, khi vợ, chồng có nghĩa vụ tài sản
riêng thì nghĩa vụ tài sản đó được thực hiện bằng tài sản riêng của họ, tài sản
chung của vợ chồng không sử dụng cho việc thanh toán các khoản nợ này trừ
8


khi vợ chồng có thoả thuận (Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2000). Vấn đề đặt ra
là, rất có thể người có nghĩa vụ tài sản không có hoặc không đủ tài sản riêng để
thanh toán các khoản nợ và vợ chồng đã không có thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa
án chia tài sản chung để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản. Trong trường
hợp này, nếu không thừa nhận quyền yêu cầu của người có quyền (chủ nợ) về
chia tài sản chung của vợ chồng để lấy phần tài sản của người có nghĩa vụ thanh
toán nợ, thì quyền lợi của họ được đảm bảo như thế nào?
Pháp luật cần quy định rõ: Trong trường hợp người có quyền có đủ chứng cứ
cho rằng, vợ chồng không có thoả thuận hoặc không yêu cầu Tòa án chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ
về tài sản, thì người có quyền có thể yêu cầu Toà án chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân để lấy phần tài sản của người vợ hoặc người
chồng có nghĩa vụ thực hiện thanh toán các khoản nợ. Yêu cầu của người có

quyền sẽ không được Toà án công nhận, nếu việc chia tài sản chung ảnh hưởng
nghiêm trọng đến lợi ích gia đình của người có nghĩa vụ hoặc bản thân vợ,
chồng có nghĩa vụ có đủ tài sản riêng để thanh toán các khoản nợ.

2. Khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ qui định, vợ, chồng có thể yêu cầu Toà án
giải quyết việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nếu không có hoặc
không thoả thuận được. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ và các văn bản hướng dẫn có
liên quan chưa qui định cụ thể nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân khi việc chia tài sản chung đó thuộc thẩm quyền của Toà án.
Do đó, trong thực tiễn áp dụng, Toà án sẽ gặp khó khăn khi vận dụng căn cứ
pháp lý để giải quyết các tranh chấp phát sinh. Trước đây, Điều 18 Luật
HN&GĐ năm 1986 đã qui định: “Khi hôn nhân còn tồn tại, nếu một bên yêu
cầu và có lý do chính đáng, thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng theo qui
định ở Điều 42 (nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn) của Luật này”. Trên cơ sở kế
thừa qui định trên của Luật HN&GĐ năm 1986, theo chúng tôi cần thiết phải
qui định một giải pháp như sau:
Khi chia tài sản chung, Toà án căn cứ vào lý do, mục đích chia tài sản chung
để quyết định phạm vi tài sản chung được chia. Việc chia tài sản chung căn cứ
vào các nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn qui định tại Điều 95 của Luật
HN&GĐ; nếu tài sản là nhà ở và quyền sử dụng đất thì áp dụng các qui định
tại các điều 97, 98 và 99 của Luật HN&GĐ.

3. Quy định trong thời kỳ hôn nhân, nếu có lý do chính đáng vợ chồng có thể
thỏa thuận chia tài sản chung bằng văn bản mà không qui định trách nhiệm của
họ đối với gia đình sau khi chia tài sản chung là một qui định quá “mở”. Giả sử,
9


ngay sau khi kết hôn với lý do kinh doanh riêng, vợ chồng có thoả thuận toàn bộ
tài sản chung được chia, tài sản của ai làm ra thuộc về người đó, thì khi đó lợi

ích gia đình được đặt ở vị trí nào? Nếu thoả thuận này được thực hiện thì quan
hệ hôn nhân chỉ còn tồn tại về mặt nhân thân, còn quan hệ tài sản giữa vợ chồng
đã được dân sự hóa, bản chất của hôn nhân XHCN vì thế không được thực hiện.
Vì vậy, để phát huy được mục đích, ý nghĩa của chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân cần bổ sung vào khoản 1 Điều 6 Nghị định số 70 một nội dung bắt
buộc trong văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng là: Tài sản bảo
đảm cho các nhu cầu chung của gia đình.
Ngoài ra cũng cần quy định cụ thể: Trong trường hợp vợ chồng không thoả
thuận được việc bảo đảm các nhu cầu chung của gia đình, thì có thể yêu cầu
Tòa án giải quyết. Toà án quyết định mức đóng góp của các bên trên cơ sở nhu
cầu thực tế của gia đình và khả năng kinh tế của các bên hoặc quyết định không
chia toàn bộ tài sản chung, phần tài sản chung không chia được sử dụng cho
nhu cầu của gia đình.

4. Luật HN&GĐ năm 2000 và Nghị định số 70 qui định các trường hợp chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà không có lý do chính đáng thì bị Toà án
tuyên bố là vô hiệu. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ lại không qui định ai là người có
thể yêu cầu Toà án hủy bỏ thoả thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
trong trường hợp thoả thuận này vi phạm các điều kiện được quy định tại Điều
29 Luật HN&GĐ hoặc gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống gia đình, đến
việc trông nom, nuôi dưõng, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, con đã
thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động
và không có tài sản để tự nuôi mình. Mặt khác, Luật HN&GĐ cũng chưa quy
định hậu quả pháp lý của việc Tòa án tuyên bố vô hiệu đối với thoả thuận chia
tài sản chung. Cần quy định rõ: “Trong trường hợp thoả thuận chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân bị Toà án tuyên bố vô hiệu, chế độ tài sản chung
của vợ chồng được khôi phục lại tình trạng trước khi có thoả thuận chia tài sản
chung “

5. Theo Điều 9 và Điều 10 Nghị định số 70 trong trường hợp vợ chồng có thoả

thuận bằng văn bản về khôi phục chế độ tài sản chung, thì kể từ ngày văn bản
thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung có hiệu lực, việc xác định phần tài
sản thuộc sở hữu riêng của mỗi bên, phần tài sản thuộc sở hữu chung căn cứ vào
sự thoả thuận của vợ chồng. Theo em, quy định này đã trao cho vợ chồng một
quyền hạn quá rộng. Việc vợ chồng có quyền chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân, đồng thời có quyền khôi phục chế độ tài sản chung mà không cần có
10


sự xem xét của Toà án đã đưa Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 trở thành hình
thức, chế độ tài sản pháp định không đảm bảo đúng bản chất pháp lý của nhà
làm luật đề .Việc khôi phục chế độ tài sản chung có nghĩa là khôi phục chế độ
tài sản pháp lý được quy định tại Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000, do đó khi
thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, những tài
sản có nguồn gốc được qui định tại Điều 27 phải được xác định là tài sản
chung của vợ chồng. Pháp luật chỉ nên trao cho vợ, chồng quyền thoả thuận về
tài sản chung đối với những tài sản riêng được qui định tại Điều 32 Luật
HN&GĐ năm 2000.
6. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo qui định
của pháp luật không làm thay đổi quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng và quan
hệ giữa cha mẹ và con. Thực tế, việc vợ chồng áp dụng chế định này đã phản
ánh những mâu thuẫn tồn tại trong quan hệ giữa họ. Sự độc lập về tài sản sau
khi chia tài sản chung, có thể dẫn đến vợ chồng sống ly thân hoặc một trong các
bên lại lẩn tránh trách nhiệm đối với gia đình, từ đó có tranh chấp về việc chăm
sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mất
năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động, không có thu nhập,
không có tài sản để tự nuôi mình. Để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
các con, pháp luật cần qui định rõ: Trong trường hợp sau khi chia tài sản
chung, vợ chồng có tranh chấp về chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chưa
thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng

lao động, không có thu nhập và không có tài sản để tự nuôi mình, thì Toà án
quyết định theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của các cá nhân, cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền. Việc giải quyết tranh chấp liên quan đến con áp dụng tương tự
qui định về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con khi ly hôn.

11


Danh mục tài liệu tham khảo
1.Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình trường Đại Học Luật Hà Nội
2.Nguyễn Phương Lan, “Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”, Tạp chí Luật học số 6/2002, Tr.
22.
3.Nghị định 70/2001/NĐ-CP
4.Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
5.Nguyễn Văn Cừ, “Một số suy nghĩ về Điều 18 Luật HN&GĐ năm
1986”, Tạp chí Luật học, số 1/1995, tr. 24

12



×