Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tìm hiểu về chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm. Phân biệt chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm và chuyển giao hợp đồng bảo hiểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.23 KB, 17 trang )

Mục lục
Trang
A. LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………….
1
B. NỘI DUNG………………………………………………………………...
1
I. Khái quát chung về hợp đồng bảo hiểm……………………………..
1
1. Khái niệm bảo hiểm………………………………………………
1
2. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm……………………………………
2
3. Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm………………………………..
3
4. Phân loại hợp đồng bảo hiểm…………………………………….
3
II. Vấn đề chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm………………………….
4
1. Khái niệm………………………………………………………..
4
5
2. Đặc điểm của chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm………………
3. Một số bất cập trong việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm….
4. Kiến nghị sửa đổi…………………………………………………

8
10

III. So sánh chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm với chuyển giao hợp

12



đồng bảo hiểm………………………………………………………..
1. Khái niệm………………………………………………………...
2. Sự giống nhau chuyển nhượng/ chuyển giao hợp đồng bảo hiểm..
3. Sự khác nhau chuyển nhượng/ chuyển giao hợp đồng bảo hiểm...
C. KẾT LUẬN………………………………………………………………..
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

12
12
13
15
16

A. LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, các ngành, các lĩnh vực đều
đóng góp nhất định và luôn tự cải tiến để vươn tới sự hoàn thiện. Bảo hiểm là một
ngành dịch vụ, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Bảo hiểm không chỉ
thực hiện việc huy động vốn cho nền kinh tế mà điều quan trọng là góp phần bảo
đảm ổn định tài chính cho các cá nhân, gia đình, cho mọi tổ chức, doanh nghiệp để
khôi phục đời sống và phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy
nhiên do đặc thù của ngành nên dù được hình thành và phát triển khá lâu đời thì vẫn
là lĩnh vực phức tạp nhận được sự quan tâm của nhiều học giả và các nhà đầu tư kinh
doanh…Đặc biệt là trong vấn đề chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm. Để hiểu thêm
về vấn đề này em xin đi vào “ Tìm hiểu về chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm.

1


Phân biệt chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm và chuyển giao hợp đồng bảo

hiểm”
B. NỘI DUNG.
I. Khái quát chung về hợp đồng bảo hiểm.
1. Khái niệm bảo hiểm.
Ngày nay, bảo hiểm không những được coi là một hoạt động quan trọng trong
nền kinh tế- xã hội mà còn phát triển mạnh mẽ với nhiều loại hình rất đa dạng, phong
phú. Mặc dù bảo hiểm đã có nguồn gốc và lịch sử phát triển khá lâu đời, nhưng do
tính đặc thù của loại hình dịch vụ này, cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống
nhất về bảo hiểm.
Theo Monique Gaullier : " Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là
người được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện
mong muốn để cho mình hoặc để cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra rủi ro sẽ
nhận được một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác- đó là người bảo
hiểm. Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại
theo các phương pháp của thống kê "1. Khái niệm này quá thiên về góc độ kinh tế, kỹ
thuật, ít nhiều cũng còn thiếu sót, chưa phải là một khái niệm bao quát, hoàn chỉnh.
Theo Luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam 2000 thì “ Kinh doanh bảo
hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh
nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo
hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ
hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.2
Như vậy, để có một khái niệm chung nhất về bảo hiểm, chúng ta có thể đưa ra
định nghĩa: “Bảo hiểm là một sự cam kết bồi thường của người bảo hiểm với người
được bảo hiểm về những thiệt hại, mất mát của đối tượng bảo hiểm do một rủi ro đã
thoả thuận gây ra, với điều kiện người được bảo hiểm đã thuê bảo hiểm cho đối
tượng bảo hiểm đó và nộp một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm ”.
1
2

Đoàn Minh Phụng & Hoàng Mạnh Cừ (2011), Giáo trình Bảo hiểm nhân thọ, Nxb.Tài chính, Hà Nội

Khoản 1, Điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000.

2


2. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm là một trong những hợp đồng dân sự thông dụng, chịu sự
điều chỉnh của Bộ luật Dân sự, đồng thời là một hợp đồng kinh doanh bảo hiểm, chịu
sự điều chỉnh của Luật kinh doanh bảo hiểm. Vì vậy, khái niệm về hợp đồng này
được nhìn nhận theo quy định của Bộ luật dân sự và Luật kinh doanh bảo hiểm. Tại
điều 567 Bộ Luật dân sự năm 2005 có quy định: “ Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa
thuận giữa các bên theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm còn bên bảo
hiểm phải trả một khoản tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện
bảo hiểm”3.
Tại điều 12 Luật kinh doanh bảo hiểm thì quy định : “ Hợp đồng bảo hiểm là
sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua
bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm
cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện
bảo hiểm”4. Phí bảo hiểm chính là khoản tiền mà bên mua bảo hiểm phải đóng cho
doanh nghiệp bảo hiểm theo thời hạn và phương thức đã thỏa thuận trong hợp đồng
bảo hiểm. Sự kiện bảo hiểm chính là sự kiện khách quan do các bên thỏa thuận hoặc
pháp luật quy định mà khi xảy ra sự kiện đó sẽ phát sinh trách nhiệm trả tiền hoặc
bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm.
3. Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm.
Bên cạnh những đặc điểm chung của hợp đồng ( là sự thỏa thuận ý chí của các
bên; nội dung của hợp đồng bao gồm các điều khoản cơ bản, điều khoản thông
thường và tùy nghi; mục đích và nội dung của hợp đồng không trái pháp luật và đạo
đức xã hội) thì hợp đồng bảo hiểm còn có những đặc điểm riêng biệt. Đó là
● Hợp đồng bảo hiểm là một loại hợp đồng có tính may rủi. Điều đó thể hiện ở
sự kiện bảo hiểm. Sự kiện bảo hiểm xảy ra vào lúc nào, mức độ ra sao thì doanh

nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm không thể biết được vào thời điểm giao

3
4

Điều 567, Bộ Luật dân sự năm 2005.
Điều 12, Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000.

3


kết hợp đồng. Vì vậy, việc bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm của doanh nghiệp
bảo hiểm chưa thể xác định được mức độ rủi ro bảo hiểm.
● Hợp đồng bảo hiểm là loại hợp đồng theo mẫu. Mẫu của hợp đồng bảo hiểm
do Bộ Tài chính ban hành hoặc phê duyệt. Theo đó bên mua chỉ có thể chấp nhận
hoặc không chấp nhận các điều khoản đó mà không được thỏa thuận và đàm phán
trực tiếp về việc sửa đổi, bổ sung nội dung của hợp đồng bảo hiểm. Nếu bên mua
đồng ý mua bảo hiểm, điều đó đồng nghĩa với việc họ chấp nhận toàn bộ nội dung
hợp đồng theo các điều khoản mẫu mà doanh nghiệp bảo hiểm đã đưa ra.
● Hợp đồng bảo hiểm là loại hợp đồng song vụ có đền bù. Các bên trong hợp
đồng bảo hiểm đều được hưởng quyền lợi và phải thực hiện nghĩa vụ tương ứng.
Quyền lợi của một bên được hưởng chính là nghĩa vụ bên kia phải thực hiện. Tính
đền bù trong hợp đồng bảo hiểm thể hiện ở chỗ người tham gia bảo hiểm muốn được
hưởng quyền lợi bảo hiểm, họ phải trả một khoản tiền theo thời hạn và phương thức
nhất định (phí bảo hiểm) cho doanh nghiệp bảo hiểm. Nếu bên mua chưa nạp phí bảo
hiểm thì hợp đồng bảo hiểm vẫn chưa có hiệu lực ( trừ trường hợp có thỏa thuận
khác) hoặc khi hợp đồng đã có hiệu lực nhưng bên mua bảo hiểm không nộp phí bảo
hiểm định kỳ sau một thời hạn nhất định do bên bảo hiểm ấn định thì hợp đồng chấm
dứt hiệu lực ( khoản 2, điều 572, BLDS năm 2005).
● Hình thức hợp đồng bảo hiểm phải được thể hiện dưới dạng văn bản. Bằng

chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm là giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm, điện
báo, telex, fax và các hình thức khác do pháp luật quy định.
4. Phân loại hợp đồng bảo hiểm.
Hiện nay, dựa vào từng tiêu chí khác nhau mà người ta phân loại hợp đồng bảo
hiểm thành nhiều loại khác nhau. Việc phân loại hợp đồng bảo hiểm có ý nghĩa quan
trọng trong quá trình áp dụng pháp luật để điều chỉnh mối quan hệ của các bên trong
từng loại hợp đồng, giúp các bên thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ của
mình theo các điều khoản trong hợp đồng.

4


● Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm thì có hợp đồng bảo hiểm con người, hợp đồng
bảo hiểm tài sản và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Cách phân loại này
mang tính cụ thể, khái quát cao, phù hợp với các hoạt động nghiệp vụ của từng
doanh nghiệp bảo hiểm trên phương diện bán sản phẩm bảo hiểm và quản lý rủi ro.
● Căn cứ vào tính chất và đặc điểm trong quan hệ hợp đồng thì bao gồm hợp
đồng nhân thọ và hợp đồng phi nhân thọ.
● Căn cứ theo mức độ thỏa thuận của các chủ thể trong quan hệ hợp đồng thì bao
gồm hợp đồng bảo hiểm bắt buộc và hợp đồng bảo hiểm tự nguyện.
II. Vấn đề chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm.
1. Khái niệm chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm.
Chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm là một trong những quyền của bên mua
bảo hiểm được ghi nhận tại Điểm đ, Khoản 1 Điều 18 Luật kinh doanh bảo hiểm
năm 2000, theo đó thì bên mua bảo hiểm có quyền : “ Chuyển nhượng hợp đồng bảo
hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm hoặc theo quy định của pháp luật” 5.
Chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm có thể được hiểu là việc bên tham gia bảo hiểm
chuyển giao tư cách pháp lý ( quyền và nghĩa vụ) cho chủ thể khác ( gọi là bên nhận
chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm). Chủ thể nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo
hiểm phải đủ điều kiện ( có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và phải có quyền lợi có

thể được bảo hiểm đối với đối tượng bảo hiểm) và bên chuyển nhượng bảo hiểm phải
có nghĩa vụ thông báo và phải được sự chấp thuận của doanh nghiệp bảo hiểm.
2. Đặc điểm của chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm.
● Về mối quan hệ trong chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm: Là mối quan hệ
giữa bên mua bảo hiểm ( tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với doanh
nghiệp bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm theo thời hạn và phương thức đã thỏa thuận
trong hợp đồng bảo hiểm) với bên nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm có đủ
điều kiện (có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và phải có quyền lợi có thể được bảo
hiểm đối với đối tượng bảo hiểm) và phải được doanh nghiệp bảo hiểm chấp thuận.
5

Điểm đ, Khoản 1 Điều 18 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000

5


● Về quyền và nghĩa vụ của bên nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm và
doanh nghiệp bảo hiểm: Khi hợp đồng bảo hiểm được chuyển nhượng thì quyền và
nghĩa vụ của người chuyển nhượng sẽ được chuyển sang cho người nhận chuyển
nhượng hợp đồng. Theo đó sẽ chấm dứt mối quan hệ quyền và nghĩa vụ của doanh
nghiệp bảo hiểm với bên chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm, người thụ hưởng hoặc
những người thụ hưởng do bên mua ban đầu chỉ định sẽ tự động bị hủy bỏ, đồng thời
làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm đối với bên nhận
chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm. Bên nhận chuyển nhượng lúc này trở thành bên
mua bảo hiểm, khi đó họ sẽ có các quyền như quyền đơn phương đình chỉ thực hiện
hợp đồng bảo hiểm trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm cố ý cung cấp thông
tin sai sự thật; quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm theo thỏa
thuận trong hợp đồng bảo hiểm….và có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm đầy đủ, theo
thời hạn và phương thức đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm; kê khai đầy đủ,
trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh

nghiệp bảo hiểm; thông báo những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát
sinh thêm trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình thực hiện hợp
đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm; thông báo cho doanh
nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo
hiểm; áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất…và các nghĩa vụ khác theo
quy định của pháp luật.
Đồng thời, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đối với bên mua bảo hiểm mới
như thu phí bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm, yêu cầu bên mua
bảo hiểm ( tức là bên nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm) cung cấp đầy đủ ,
trung thực thông tin có liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm;
từ chối trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường trong trường hợp không thuộc phạm vi
trách nhiệm bảo hiểm hoặc trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm theo thỏa thuận
trong hợp đồng bảo hiểm; quyền yêu cầu bên mua bảo hiểm áp dụng các biện pháp
đề phòng, hạn chế tổn thất; quyền yêu cầu người thứ 3 bồi hoàn số tiền bảo hiểm mà
6


doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường cho người được bảo hiểm do người thứ 3 gây
ra đối với tài sản và trách nhiệm dân sự và các quyền khác theo quy định của pháp
luật. Bên cạnh đó thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phải thực hiện những nghĩa vụ sau
đối với người nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm: Giải thích cho bên mua bảo
hiểm về các điều kiện, điều khoản bảo hiểm, quyền và nghĩa vụ của bên mua bảo
hiểm; trả tiền bảo hiểm kịp thời cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người
được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm; giải thích bằng văn bản lý do từ chối trả
tiền bảo hiểm hoặc từ chối bồi thường; phối hợp với bên mua bảo hiểm để giải quyết
yêu cầu của người thứ ba đòi tiền bồi thường về thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo
hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
● Về bản chất của chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm: Chuyển nhượng hợp
đồng nói chung và hợp đồng bảo hiểm nói riêng là một trong những nội dung không
thể thiếu được pháp luật điều chỉnh. Bản chất của việc chuyển nhượng hợp đồng bảo

hiểm là việc một chủ thể khác sẽ thay thế vị trí pháp lý (kế thừa quyền và nghĩa vụ)
của bên mua bảo hiểm trong hợp đồng theo đó, người nhận chuyển nhượng sẽ trở
thành bên mua bảo hiểm mới để tiếp tục duy trì hợp đồng và hưởng các quyền lợi
khác (nếu có) theo hợp đồng.
Về mặt lý luận, việc thay đổi bên mua bảo hiểm luôn phải đảm bảo nguyên tắc
không làm ảnh hưởng đến hiệu lực pháp lý của hợp đồng bảo hiểm. Nghĩa là, bên
nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm cũng phải thỏa mãn đầy đủ điều kiện của
bên mua bảo hiểm như có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và có quyền lợi có thể
được bảo hiểm. Điều này cũng được quy định tại Điều 235 Bộ luật Hàng hải: “người
không có quyền lợi trong đối tượng bảo hiểm thì không được chuyển nhượng đơn
bảo hiểm hàng hải”. Trong hợp đồng bảo hiểm con người, đối với trường hợp bên
mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm cho trường hợp chết của người khác thì
việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm phải được sự đồng ý của người được bảo
hiểm để tránh tình trạng trục lợi bảo hiểm có thể xảy ra từ việc chuyển nhượng hợp
đồng bảo hiểm này. Ngoài ra, việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm còn phải đáp
7


ứng các yêu cầu về trình tự, thủ tục, hình thức chuyển nhượng theo quy định của
pháp luật (nếu có).
Trong hợp đồng bảo hiểm con người thì việc chuyển nhượng hợp đồng thường
không được đặt ra vì rủi ro được bảo hiểm gắn liền với sức khỏe, tính mạng, tuổi thọ
và tai nạn của người được bảo hiểm. Trong hợp đồng bảo hiểm tài sản thì cùng với
sự chuyển dịch quyền sở hữu tài sản thường kèm theo sự chuyển nhượng hợp đồng
bảo hiểm đối với tài sản đó. Về nguyên tắc số phận của hợp đồng bảo hiểm gắn với
vật được bảo hiểm, không phụ thuộc vào chủ sở hữu vật. Việc chuyển nhượng này
có thể phát sinh tự nhiên như trong quan hệ về thừa kế, hoặc thông qua các hành vi
mua, bán, tặng, cho….khi hợp đồng bảo hiểm được chuyển nhượng, quyền và nghĩa
vụ của người chuyển nhượng sẽ được chuyển sang cho người nhận chuyển nhượng
và họ phải chấp nhận những thỏa thuận trước đây đã có trong hợp đồng.

● Thủ tục chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm: Trong thời gian hợp đồng bảo
hiểm còn hiệu lực thì bên mua bảo hiểm muốn chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm
cho chủ thể khác thì phải thông báo bằng văn bản đến doanh nghiệp bảo hiểm. Việc
chuyển nhượng chỉ có hiệu lực khi doanh nghiệp bảo hiểm có văn bản xác nhận việc
chuyển nhượng đó. Trừ trường hợp việc chuyển nhượng được thực hiện theo tập
quán quốc tế. Các loại Chứng từ để xin chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm bao gồm
Bộ Hợp đồng bảo hiểm, Đơn yêu cầu thay đổi, Bản sao CMND của bên mua bảo
hiểm, Bản sao CMND của Người được bảo hiểm, Bản sao CMND của Người được
chuyển nhượng Chứng từ chứng minh mối quan hệ giữa Người được bảo hiểm và
Bên mua bảo hiểm mới/ Người được chuyển nhượng….
3. Một số bất cập trong việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm.
● Thứ nhất, Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành chưa có quy định cụ thể về
việc chuyển nhượng từng loại hợp đồng bảo hiểm nói trên mà chỉ quy định chung
việc chuyển nhượng tất cả các loại hợp đồng bảo hiểm bao gồm hợp đồng bảo hiểm
con người, hợp đồng bảo hiểm tài sản và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự .
8


Tuy nhiên thì 3 loại hợp đồng này lại có sự khác biệt rất lớn về đối tượng bảo hiểm,
quyền lợi có thể được bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm, quyền và nghĩa vụ của doanh
nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm… do vậy việc quy định một cách chung
chung việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm như vậy là không hợp lý . Ví dụ như
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là một hợp đồng phức tạp có liên quan đến nhiều chủ
thể khác nhau và bên chuyển nhượng (Bên mua bảo hiểm hay Người tham gia bảo
hiểm) có thể không đồng thời là Người được bảo hiểm, do vậy, việc chuyển nhượng
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có nhiều vấn đề đặc thù nảy sinh cần được pháp luật
quy định riêng và cụ thể hơn. Chẳng hạn như: điều kiện đối với người nhận chuyển
nhượng như thế nào? Người nhận chuyển nhượng có cần phải có quyền lợi có thể
được bảo hiểm với Người được bảo hiểm hay không? Việc chuyển nhượng có cần sự
đồng ý của Người được bảo hiểm hay không? Doanh nghiệp bảo hiểm có trách

nhiệm như thế nào trong việc chấp nhận chuyển nhượng của bên mua bảo hiểm? Bên
mua bảo hiểm còn trách nhiệm gì đối với hợp đồng bảo hiểm sau khi hợp đồng bảo
hiểm đã được chuyển nhượng? Trường hợp sau khi bên mua bảo hiểm đã chuyển
nhượng hợp đồng cho người khác, thì doanh nghiệp bảo hiểm phát hiện tại thời điểm
giao kết hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm đã kê khai không trung thực Giấy
yêu cầu bảo hiểm mà theo Điều 19 Luật Kinh doanh bảo hiểm và điều khoản hợp
đồng, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm, đồng
thời thu phí đến thời điểm hợp đồng bị đình chỉ. Lúc này quyền lợi chính đáng của
người nhận chuyển nhượng (Người tham gia bảo hiểm mới) với tư cách là người
“ngay tình” có được bảo vệ hay không và phải giải quyết vấn đề này như thế nào?…
Rõ ràng, đây là những nội dung quan trọng nhưng Luật Kinh doanh bảo hiểm đã bỏ
ngỏ, do vậy khi có tranh chấp phát sinh không có cơ sở pháp lý để giải quyết. Thực
tế cho thấy, trong điều khoản bảo hiểm nhân thọ của các sản phẩm bảo hiểm đang
triển khai trên thị trường, các doanh nghiệp bảo hiểm đều đưa ra cam kết là “doanh
nghiệp bảo hiểm không chịu trách nhiệm về tính hiệu lực, hợp pháp, sư đầy đủ của
việc chuyển nhượng hợp đồng giữa bên mua bảo hiểm và người được chuyển
9


nhượng”. Giả sử, việc chuyển nhượng hợp đồng là không hợp pháp, trong khi doanh
nghiệp bảo hiểm lại đồng ý chuyển nhượng và sự kiện bảo hiểm xảy ra sau khi hợp
đồng đã được chuyển nhượng, vậy quyền lợi và trách nhiệm của các bên trong quan
hệ hợp đồng này (bên mua bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm, người nhận chuyển
nhượng, người thụ hưởng) sẽ được xác định như thế nào? Vấn đề này vẫn chưa có
lời giải đáp. Không chỉ có hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, việc chuyển nhượng hợp
đồng bảo hiểm tài sản và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự cũng gặp phải
vướng mắc tương tự vì sự thiếu vắng quy định của pháp luật.
Thứ hai, Luật KDBH chưa quy định hợp lý về việc chuyển nhượng hợp đồng
bảo hiểm con người. Bản chất của việc chuyển nhượng hợp đồng là việc một chủ thể
khác sẽ thay thế vị trí pháp lý của bên mua bảo hiểm trong hợp đồng. Bên mua bảo

hiểm có thể chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho người khác để tiếp tục
duy trì hợp đồng, hoặc để có một khoản tiền nhất định, hoặc không muốn hợp đồng
chấm dứt vì điều đó làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người thụ hưởng. Vấn đề này
được Luật KDBH quy định tại Điều 26, nhưng thực tế điều khoản này chỉ đủ với hợp
đồng bảo hiểm thiệt hại, khi mà bên mua bảo hiểm đồng thời là người được bảo hiểm
(vào thời điểm mua bảo hiểm). Đối với hợp đồng bảo hiểm con người, bên chuyển
nhượng (bên mua bảo hiểm) có thể không phải là người được bảo hiểm. Do vậy, quá
trình chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm con người có nhiều vấn đề nảy sinh. Ví dụ:
điều kiện đối người nhận chuyển nhượng như thế nào, có cần có sự đồng ý của người
được bảo hiểm hay không v.v.. Những bổ sung này rất quan trọng nhằm tránh những
tranh chấp có thể xảy ra sau khi hợp đồng được chuyển nhượng. Nếu không có quy
định cụ thể, sẽ khó khăn khi xem xét trách nhiệm của DNBH trong việc chấp thuận
việc chuyển nhượng của bên mua bảo hiểm. Trên thực tế, các DNBH đều thoả thuận
với bên mua bảo hiểm về việc không chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của thoả
thuận chuyển nhượng, từ đó dẫn đến tình trạng DNBH chấp nhận việc chuyển
nhượng để tiếp tục thu phí, đến khi sự kiện bảo hiểm xảy ra lại từ chối trả tiền bảo
hiểm mà chỉ hoàn lại phí bảo hiểm vì hợp đồng không còn hiệu lực.
10


Thứ ba, Theo quy định về việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm tại Điều 26
Luật Kinh doanh bảo hiểm còn quá chung chung và mới chỉ dừng lại ở việc ghi nhận
quyền của bên mua bảo hiểm trong việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm cho
người thứ ba và việc chuyển nhượng này phải được sự chấp thuận bằng văn bản của
doanh nghiệp bảo hiểm, mà chưa đề cập đến các vấn đề như: điều kiện chuyển
nhượng, thủ tục chuyển nhượng, quyền hạn và trách nhiệm của các bên trong quan
hệ chuyển nhượng; và hậu quả pháp lý của việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm.
4. Kiến nghị sửa đổi
Chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm là một trong những nội dung quan trọng, đặc
thù và khá phức tạp, đòi hòi cần có sự điều chỉnh của pháp luật. Tuy nhiên, như đã

phân tích tại phần những bất cập của pháp luật, điều này đòi hỏi nhà làm luật cần
nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định này cho phù hợp và hoàn thiện nhằm đảm bảo
sự công bằng về quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hợp đồng bảo
hiểm như Cần quy định rõ điều kiện bên nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm,
điều kiện chuyển nhượng, thủ tục chuyển nhượng, quyền hạn và trách nhiệm của các
bên trong quan hệ chuyển nhượng; và hậu quả pháp lý của việc chuyển nhượng hợp
đồng bảo hiểm…
Một kiến nghị sửa đổi điều 26 Luật kinh doanh bảo hiểm theo hướng như:
“1. Bên mua bảo hiểm có thể chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm cho người khác
gọi là người nhận chuyển nhượng hợp đồng. Người nhận chuyển nhượng phải là
người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và phải có quyền lợi có thể được bảo hiểm
đối với đối tượng bảo hiểm. Riêng đối với trường hợp bên mua bảo hiểm giao kết
hợp đồng bảo hiểm con người cho trường hợp chết của người khác, thì việc chuyển
nhượng hợp đồng phải được sự đồng ý bằng văn bản của người được bảo hiểm.
2. Việc chuyển nhượng hợp đồng được coi là có hiệu lực trong trường hợp bên
mua bảo hiểm thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc chuyển

11


nhượng và doanh nghiệp bảo hiểm có văn bản chấp thuận việc chuyển nhượng đó,
trừ trường hợp việc chuyển nhượng được thực hiện theo tập quán quốc tế.
3. Kể từ thời điểm doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận việc chuyển nhượng hợp
đồng thì mọi quyền, nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm chấm dứt; đồng thời quyền,
nghĩa vụ của người nhận chuyển nhượng theo hợp đồng bảo hiểm bắt đầu phát sinh
và được đảm bảo đầy đủ.
4. Trường hợp sau khi bên mua bảo hiểm đã chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm,
doanh nghiệp bảo hiểm phát hiện và có bằng chứng chứng minh tại thời điểm giao
kết hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm đã cung cấp thông tin sai sự thật hoặc
che giấu thông tin mà nếu biết được thông tin đó, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ từ chối

chấp nhận bảo hiểm, trì hoãn chấp nhận bảo hiểm hoặc chấp nhận bảo hiểm với các
điều kiện kèm theo, thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đình chỉ thực hiện hợp
đồng, không phải giải quyết quyền lợi bảo hiểm đối với rủi ro của đối tượng bảo
hiểm và có quyền thu phí đến thời điểm doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận việc
chuyển nhượng hợp đồng, đồng thời hoàn trả cho bên nhận chuyển nhượng hợp
đồng số phí bảo hiểm mà họ đã đóng (trừ trường hợp bên nhận chuyển nhượng biết
được hành vi cung cấp thông tin sai sự thật hoặc che giấu thông tin sai sự thật đó
của bên mua bảo hiểm)”6.
Bên cạnh đó thì cũng cần có những quy định phù hợp về chuyển nhượng hợp
đồng riêng cho từng loại bảo hiểm, đặc biệt là hợp đồng bảo hiểm con người, nhanh
chóng ban hành các văn bản hướng dẫn Luật Kinh doanh bảo hiểm liên quan đến
phần chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm để tránh những tranh chấp không đáng có.
III. So sánh chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm với chuyển giao hợp đồng bảo
hiểm.
1. Khái niệm.

6

Http://www.thongtinphapluatdansu.com.vn

12


Chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm được hiểu là việc bên tham gia bảo hiểm
chuyển giao tư cách pháp lý ( quyền và nghĩa vụ ) cho chủ thể khác có đủ điều kiện
theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
Chuyển giao hợp đồng bảo hiểm được hiểu là việc doanh nghiệp bảo hiểm
chuyển giao tư cách pháp lý ( quyền và nghĩa vụ) cho doanh nghiệp bảo hiểm khác.
2. Sự giống nhau giữa chuyển giao và chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm.
+ Nội dung quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng bảo hiểm không thay đổi cho đến

khi hết thời hạn hợp đồng. Do đó các bên tham gia hợp đồng đều được hưởng các
quyền và có nghĩa vụ đối với nhau như các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng
bảo hiểm.
+ Chuyển giao hợp đồng bảo hiểm và chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm về bản
chất là đều thay đổi vị trí pháp lý ( quyền của nghĩa vụ) của bên chuyển giao/ bên
chuyển nhượng. Chủ thể nhận chuyển giao/ chuyển nhượng sẽ thế quyền- phatsinh
trách nhiệm như đã thỏa thuận trong các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm.
+ Chủ thể nhận chuyển giao/ chuyển nhượng phải đáp ứng đủ điều kiện thì mới
được nhận chuyển giao/ chuyển nhượng. Chủ thể nhận chuyển giao thì phải đang
kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm được chuyển giao còn chủ thể nhận chuyển nhượng
thì phải có năng lực hành vi dân sự và phải có quyền lợi có thể được bảo hiểm đối
với đối tượng bảo hiểm.

3. Sự khác nhau giữa chuyển giao và chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm.
● Mối quan hệ trong chuyển nhượng/ chuyển giao hợp đồng bảo hiểm.
+ Chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm: Là mối quan hệ bên mua bảo hiểm ban
đầu ( hay còn gọi là bên chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm) với chủ thể mua bảo
hiểm khác ( hay còn gọi là bên nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm) có đủ điều
kiện (có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và phải có quyền lợi có thể được bảo hiểm
đối với đối tượng bảo hiểm) và được doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận.
13


+ Chuyển giao hợp đồng bảo hiểm: Là mối quan hệ giữa 2 doanh nghiệp bảo
hiểm cũng kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm được chuyển giao ( hay nói cách khác là
giữa doanh nghiệp chuyển giao hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp nhận chuyển
giao hợp đồng bảo hiểm).
● Bản chất pháp lý :
+ Chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm: Bản chất của việc chuyển nhượng hợp
đồng bảo hiểm là việc một chủ thể khác ( bên nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo

hiểm) sẽ thay thế vị trí pháp lý (kế thừa quyền và nghĩa vụ) của bên mua bảo hiểm
ban đầu trong hợp đồng, theo đó người nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm sẽ
trở thành bên mua bảo hiểm mới để tiếp tục duy trì hợp đồng và hưởng các quyền lợi
khác (nếu có) theo hợp đồng.
+ Chuyển giao hợp đồng bảo hiểm: Bản chất pháp lý của việc chuyển giao hợp
đồng bảo hiểm là một doanh nghiệp bảo hiểm khác ( doanh nghiệp nhận chuyển
giao hợp đồng bảo hiểm) thay thế vị trí pháp lý ( thừa kế quyền và nghĩa vụ) của
doanh nghiệp bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm (doanh nghiệp chuyển giao hợp
đồng bảo hiểm), theo đó doanh nghiệp nhận chuyển giao hợp đồng bảo hiểm sẽ trở
thành bên bán bảo hiểm mới để tiếp tục duy trì hợp đồng và hưởng các quyền lợi
khác ( nếu có) theo hợp đồng.
● Hậu quả pháp lý đối với bên mua bảo hiểm.
+ Chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm: Bản chất pháp lý của việc chuyển
nhượng hợp đồng bảo hiểm chính là thay thế vị trí pháp lý của bên mua bảo hiểm
nên khi việc chuyển giao hợp đồng có hiệu lực thì sẽ chấm dứt quyền và nghĩa vụ
của bên mua bảo hiểm ban đầu đối với doanh nghiệp bảo hiểm. Trách nhiệm pháp lý
của doanh nghiệp bảo hiểm với bên mua bảo hiểm ban đầu cũng chấm dứt. Theo đó
sẽ phát sinh mối quan hệ giữa bên nhận chuyển nhượng hợp đồng và doanh nghiệp
bảo hiểm về quyền và nghĩa vụ.
+ Chuyển giao hợp đồng bảo hiểm: Bản chất pháp lý của chuyển giao hợp
đồng bảo hiểm chỉ là thay thế vị trí pháp lý ( quyền và nghĩa vụ) của doanh nghiệp
14


bảo hiểm cho một doanh nghiệp khác nên sẽ không làm ảnh hưởng đến quyền và
nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm đối với doanh nghiệp bảo hiểm theo hợp đồng bảo
hiểm. Doanh nghiệp nhận chuyển giao hợp đồng bảo hiểm sẽ phải chịu trách nhiệm
pháp lý đối với bên mua bảo hiểm theo điều khoản của hợp đồng bảo hiểm.
● Thủ tục chuyển giao/ chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm.
+ Chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm: Bên mua bảo hiểm muốn chuyển

nhượng hợp đồng bảo hiểm cho chủ thể khác thì phải thông báo bằng văn bản đến
doanh nghiệp bảo hiểm. Việc chuyển nhượng chỉ có hiệu lực khi doanh nghiệp bảo
hiểm có văn bản xác nhận việc chuyển nhượng đó. Trừ trường hợp việc chuyển
nhượng được thực hiện theo tập quán quốc tế.
+ Chuyển giao hợp đồng bảo hiểm: Theo quy định tại điều 76 Luật Kinh
doanh bảo hiểm năm 2000 thì doanh nghiệp bảo hiểm chuyển giao hợp đồng bảo
hiểm phải có đơn đề nghị chuyển giao hợp đồng bảo hiểm gửi Bộ Tài chính nêu rõ lý
do, kế hoạch chuyển giao, kèm theo hợp đồng chuyển giao. Việc chuyển giao hợp
đồng bảo hiểm chỉ được tiến hành sau khi đã được Bộ tài chính chấp thuận bằng văn
bản. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày Bộ Tài chính chấp chấp thuận việc chuyển
giao hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp chuyển giao hợp đồng bảo hiểm phải công bố
về việc chuyển giao và thông báo cho bên mua bảo hiểm bằng văn bản.
● Trường hợp chuyển giao/ chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm.
+ Chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm: Việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm
là đương nhiên để đảm bảo quyền và lợi ích của khách hành. Bên mua bảo hiểm
được chuyển nhượng bảo hiểm trong các trường hợp: Bên mua bảo hiểm có nguy cơ
mất khả năng thanh toán; Theo thỏa thuận giữa các bên ( bên chuyển nhượng hợp
đồng và bên nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm)….
+ Chuyển giao hợp đồng bảo hiểm: Được quy định cụ thể tại điều 74 Luật Kinh
doanh bảo hiểm năm 2000, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm được thực hiện hoạt động
chuyển giao hợp đồng bảo hiểm trong các trường hợp: Doanh nghiệp bảo hiểm có
nguy cơ mất khả năng thanh toán; Doanh nghiệp bảo hiểm chia, tách, hợp nhất, sáp
15


nhập, giải thể; Theo thỏa thuận giữa các doanh nghiệp bảo hiểm. Trong trường hợp
doanh nghiệp bảo hiểm có nguy cơ mất khả năng thanh toán, giải thể mà không thỏa
thuận được việc chuyển giao hợp đồng bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm khác
thì Bộ Tài chính chỉ định doanh nghiệp bảo hiểm nhận chuyển giao.
C. KẾT LUẬN

Bảo hiểm là lĩnh vực có nhiều vai trò đối với nền kinh tế hiện nay, tuy nhiên do
đặc điểm đặc thù là tính rủi ro cao, chính vì thể để phát huy được vai trò của bảo
hiểm thì trong thời gian tới các Nhà làm luật cần phải nhanh chóng sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện các quy định có liên quan. Đặc biệt là trong việc chuyển nhượng và
chuyển giao hợp đồng bảo hiểm.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000.
2. Luật sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2011.

16


3. TS. Phạm Văn Tuyết (2007), Bảo hiểm và kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật tại
Việt Nam, Nhà xuất bản Tư pháp
4. Bộ Luật Dân sự năm 2005.
5. Http://www.thongtinphapluatdansu.com.vn
6. Một số trang web chuyên về bảo hiểm:
Bộ Tài chính: mof.gov.vn
Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam: avi.org.vn
Cổng thông tin bảo hiểm Việt Nam: webbaohiem.net.

17



×