Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên – Một số vấn đề lí luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.9 KB, 12 trang )

I/LỜI MỞ ĐẦU
Nếu quan hệ vợ chồng là quan hệ pháp lý hôn nhân thì quan hê giữa
cha, mẹ và con cái là quan hệ tràn đầy tình cảm yêu thương, chăm sóc như
một lẽ tự nhiên “ cá chuối đắm đuối vì con ”, nhưng lại đầy ý thức trách
nhiệm và nghĩa vụ trước xã hội. Có thể thấy rằng quan hệ cha, mẹ và con
vừa có ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lí, vừa có ý nghĩa quan trọng về mặt
xã hội. Trong quan hệ pháp luật giữa cha, mẹ và con; cha, mẹ có quyền và
nghĩa vụ nuôi dưỡng, dạy dỗ con. Mặt khác,con cái cũng phải có quyền và
nghĩa vụ tôn trọng, phụng dưỡng cha, mẹ. Tuy nhiên vì nhiều lí do mà đôi
khi cha, mẹ hoặc con chưa làm tròn bổn phận của mình. Trong đó phải kể
đến trường hợp cha, mẹ không làm tròn trách nhiệm của mình đối với con
cái, đặc biệt là con chưa thành niên. Để hiểu rõ vấn đề này, em xin trình bày
đề tài : “ Hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên – Một
số vấn đề lí luận và thực tiễn ”
II/ NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận của việc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con
chưa thành niên
Gia đình là sản phẩm của xã hội, đã phát sinh và phát triển cùng với sự
phát triển của xã hội. Các điều kiện kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát
triển nhất định phản ánh tính chất và kết cấu của gia đình. Do vậy, gia đình
là hình ảnh thu hẹp của xã hội, là tế bào của xã hội. Gia đình xã hội chủ
nghĩa là hình thái gia đình cao nhất trong lịch sử, khác hẳn về chất so với gia
đình của các chế độ xã hội trước kia. Có thể đưa ra một khái niệm gia đình
như sau :
Gia đình theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam là sự liên kết của
nhiều người dựa trên cơ sở hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng, có quyền và
nghĩa vụ tương ứng với nhau, cùng quan tâm giúp đỡ lẫn nhau về vật chất
và tinh thần, xây dựng gia đình, nuôi dạy thế hệ trẻ dưới sự giúp đỡ của Nhà
nước và xã hội.
Khoản 10 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 giải thích : “
Gia đình là tập hợp người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống


hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ
với nhau theo quy định của Luật này.
Trong đời sống xã hội, việc người phụ nữ ( dù có chồng hay không có
chồng ) mà sinh con, đã là cơ sở làm phát sinh mối quan hệ giữa mẹ - con,
cha – con. Đó là mối liên hệ huyết thống tự nhiên theo quy luật sinh học.
Quan hệ mẹ - con, cha - con phát sinh không phụ thuộc vào hôn nhân của
cha mẹ là hợp pháp hay không hợp pháp. Nhà nước bằng pháp luật phải quy
định nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định cha, mẹ, con vì đó là cơ sở nhằm

1


xác thực mối quan hệ mẹ - con, cha - con, từ đó mới phát sinh các quyền và
nghĩa vụ về nhân thân và tài sản trong quan hệ mẹ - con, cha - con.
Việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục các con vị thành niên là nghĩa
vụ đương nhiên của cha mẹ. Về tính chất pháp lý, nghĩa vụ ( quyền ) này của
cha mẹ đối với con mình là tuyệt đối. Tính chất tuyệt đối này vừa thể hiện
quyền của cha mẹ nuôi dạy con mình là đương nhiên “ ưu tiên ” so với các
chủ thể khác, vừa xác định phạm vi và mức độ trách nhiệm của cha mẹ đối
với mình.
Với quan điểm trẻ em là tương lai của đất nước, trong việc điều chỉnh
các quan hệ xã hội, các quốc gia đều quan tâm bảo vệ quyền lợi của trẻ em.
Trẻ em được bảo vệ trong gia đình và ngoài xã hội. Từ khi Luật hôn nhân và
gia đình năm 1959 - đạo Luật hôn nhân và gia đình đầu tiên của Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, pháp luật hôn nhân và gia đình nước ta
đã xây dựng trên cơ sở của nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của các con. Kế
thừa và phát triển Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, Luật hôn nhân và
gia đình năm 1986 và Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã được xây
dụng trên nguyên tắc bảo vệ trẻ em. Trên nguyên tắc đó, Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000 quy định : cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu,

trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
con, tôn trọng ý kiến của con, chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát
triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành những người con
hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội. Cha mẹ không được phân
biệt đối xử giữa các con, ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con, không được lạm
dụng sức lao động của con chưa thành niên, không được xúi giục, ép buộc
con làm những điều trái pháp luật, trái đạo đức xã hội ( Điều 34 ). Con có
bổn phận yêu quý , kính trọng, biết ơn, hiếu thảo với cha mẹ, lắng nghe
những lời khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ, giữ gìn danh dự truyền thống
của gia đình. Nghiêm cấm con có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm cha
mẹ ( Điều 35).
Công ước Liên hợp quốc quyền trẻ em, Luật bảo vệ chăm sóc và giáo
dục trẻ em Việt Nam đều quy định đảm bảo cho trẻ em được sống trong môi
trường gia đình và sự chăm sóc giáo dục của cha mẹ. Tuy nhiên, trong một
số trường hợp cụ thể cha mẹ không thể trực tiếp chăm sóc, nuôi dạy con, vì
người cha, người mẹ đó có ảnh hưởng không tốt đến con cái. Đồng thời với
việc quy định nghĩa vụ của cha mẹ đối với con, Luật Hôn nhân và gia đình
còn quy định biện pháp xử lý đối với các hành vi vi phạm nghĩa vụ của cha
mẹ. Tại Điều 26 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 áp dụng đối với hành
vi của cha, mẹ phạm lỗi như hành hạ, ngược đãi nghiêm trọng con chưa
thành niên, nhằm bảo vệ quyền lợi của con trong gia đình. So với Luật Hôn
nhân và gia đình năm 1986, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có quy
2


định nghĩa vụ và quyền lợi của cha mẹ đối với con rõ ràng và cụ thể hơn.
Theo Điều 41 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định : Khi cha, mẹ
đã bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm sức khỏe, nhân phẩm, danh
dự của con hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, phá tài sản của con, có lối sống đồi trụy, xúi

giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội thì tuy
từng trường hợp cụ thể Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá
nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 42 của Luật này ra quyết định
không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng
của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ một năm đến
năm năm. Tòa án có thể xem xét rút ngắn thời hạn này.
Thực chất biện pháp này là chế tài của luật hôn nhân và gia đình áp
dụng đối với hành vi có lỗi, hoặc phạm tội của cha, mẹ xâm phạm lợi ích của
con. Khi áp dung biện pháp này, Tòa án cần cân nhắc thận trọng, chỉ quyết
định tước quyền này của cha, mẹ đối với con trong trường hợp thật cần thiết
vì lợi ích của con. Tội phạm thực hiên đối với người con nào thì chỉ thực
hiện tước quyền đối với người con đó; nếu con từ 9 tuổi trở lên, Tòa án cần
tham khảo ý kiến của con xem có cần tước những quyền này của cha, mẹ với
người con đó hay không. Quy định này khẳng định trách nhiệm của cha, mẹ,
bảo đảm để cha, mẹ thực hiện tốt các nghĩa vụ của họ đối với con nhằm bảo
vệ quyền lợi của con nói chung và của con chưa thành niên nói riêng. Theo
quy định tại Điều 41 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có thể thấy Tòa án
đưa ra quyết định hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con cái phải dựa trên
các căn cứ :
- Cha, mẹ đã bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm của con.
- Cha, mẹ có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong nom, chăm
sóc giáo dục, nuôi dưỡng con.
- Cha, mẹ có hành vi phá hoại tài sản của con.
- Cha, mẹ có lối sống đồi trụy, xúi giục, ép buộc con làm những việc
trái pháp luât, trái đạo đức xã hội.
Ở trường, gia đình và xã hội luôn luôn có tính chất quyết định với sự
hình thành tính cách một con người. Hoàn toàn có thể khẳng định là trong
những năm đầu đời, gia đình đóng vai trò quan trọng nhất trong sự hình
thành tính cách. Những năm gần đây, các công trình nghiên cứu “ theo dõi ”

của giới khoa học giáo dục các nước chứng minh, giai đoạn từ khi sinh đến
bảy tuổi là thời kì phát triển tâm sinh lý, nhất là phát triển não mạnh mẽ
nhất.
Trong giai đoạn này, tiềm năng phát triển bộ não của trẻ em hình
thành tính cách và khả năng học tập, công tác sau này. Các yếu tố thái độ
3


nuôi dạy, phương pháp giáo dục của cha, mẹ, địa vị của trẻ trong gia đình,
không khí gia đình, đặc trưng tính cách và hành động thực tiễn của bản thân
cha, mẹ trong thời kì này tác dụng rất quan trọng đối với sự hình thành tính
cách của trẻ.
Như vậy, đối với con trong giai đoạn vị thành niên, cha mẹ là người
quan trọng nhất đối với sự phát triển và trưởng thành của con cái. Tuy nhiên,
trong cuộc sống nhiều nơi, nhiều lúc những giá trị vật chất được coi trọng
hơn những giá trị đạo đức, nhiều bậc cha mẹ quan tâm lo lắng đến sự phát
triển nhân cách của con em mình, ngược lại không ít những bậc cha, mẹ tỏ
ra thờ ơ, coi nhẹ trách nhiệm và các quy định của pháp luật. Nghĩa vụ chăm
sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên bị vi phạm một cách nghiêm trọng. Ở
nhiều gia đình, cha mẹ dùng uy quyền để ép buộc con mình phải nghe theo,
đồng thời khi cần cha mẹ sẵn sàng dùng vũ lực hoặc những lời lẽ có tính
chất xúc phạm, hành hạ, ngược đãi con , bỏ rơi con, mặc cho con sống một
cuộc sống “ thả nổi ” trên các đường phố… Một số trường hợp khác, cha mẹ
còn xúi giục ép buộc các con làm những việc mà pháp luật nghiêm cấm và
xã hội lên án như trộm cắp, cướp bóc, mại dâm… Đây là những hành vi phải
được xem xét và có biện pháp ngăn nhặn, trừng trị kịp thời, bảo đảm cho các
em được sống trong một môi trường giáo dục tốt để các em có thể phát triển
lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, không bị lôi kéo vào con đường
phạm tội.
Trẻ em phải được ưu tiên bảo vệ. Còn quyền và nghĩa vụ của cha mẹ

thì phải được thực hiện phù hợp với lợi ích của con. Đây là một trong những
nguyên tắc được ghi nhân trong các công ước quốc tế và trong các văn bản
pháp luật của mỗi quốc gia.
Tại Pháp, Điều 378 - Bộ luật dân sự cũng quy định việc tước toàn bộ
hay một phần quyền của cha mẹ đối với con trong những trường hợp “ cha,
mẹ bị kết tội là thủ phạm, đồng phạm hoặc tòng phạm một tội đại hình hay
tiểu hình vi phạm nhân thân con mình ”. Ngoài ra “ cha, mẹ cũng có thể bị
tước quyền trong trường hợp đối xử không tốt với con cái hoặc nêu gương
xấu hoặc thiếu chăm sóc hướng dẫn đứa trẻ ”.
Khi có yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân về hạn chế quyền cha,
mẹ đối với con chưa thành niên mà có một trong các căn cứ trên thì Tòa án
ra quyết định hạn chế quyền cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Việc này
được quy định tại Điều 42 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Điều 42. Người có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha,
mẹ đối với con chưa thành niên.
1. Cha, mẹ, người thân thích của con chưa thành niên theo quy định
của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Tòa án hoặc đề

4


nghị Viện kiểm sát yêu cầu Tòa án hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối
với con chưa thành niên.
2. Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có
quyền yêu cầu Tòa án hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa
thành niên.
3. Cơ quan , tổ chức sau đây theo quy định của pháp luật về tố tụng
dân sự có quyền tự mình yêu cầu Tòa án hoặc đề nghị Viện kiểm soát yêu
cầu Tòa án hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên :
a, Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em;

b, Hội liên hiệp phụ nữ.
4. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền đề nghị Viện kiểm sát
xem xét , yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành
niên.
Điều 43. Hậu quả pháp lý của việc cha, mẹ bị hạn chế quyền đối
với con chưa thành niên.
1. Trong trường hợp một trong hai người là cha, mẹ bị Tòa án hạn
chế một số quyền đối với con chưa thành niên thì người kia thực hiện quyền
trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của
con và đại diện theo pháp luật cho con.
2. Trong trường hợp cha, mẹ đều bị tòa án hạn chế quyền đối với con
chưa thành niên thì việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con và quản lý tài
săn riêng của con chưa thành niên được giao cho người giám hộ theo quy
định của Bộ luật Dân sự và Luật này.
3. Cha, mẹ đã bị Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên
vẫn phải thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con.
2. Thực tiễn áp dụng quy định về hạn chế quyền của cha, mẹ đối
với con chưa thành niên ở Việt Nam
Mặc dù Luật Hôn nhân và gia đình đã quy định biện pháp chế tài đối
với người cha, người mẹ có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ đối với
con chưa thành niên nhưng qua tìm hiểu tại một số Tòa án cho thấy quy định
hạn chế quyền cha, mẹ đối với con chưa thành niên ít được áp dụng trong
thực tế. Thực trạng này xuất phát từ những lí do :
Thứ nhất, các quy định này chưa nhận được sự ủng hộ của các cá
nhân, cơ quan, tổ chức
Theo quy định tại Điều 42 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì
người có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền cha, mẹ đối với con là : cha,
mẹ, người thân thích của con chưa thành niên, cơ quan bảo vệ và chăm sóc
trẻ em, hội liên hiệp phụ nữ. Nhưng trên thực tế trường hợp cha, mẹ vi phạm
nghiêm trọng nghĩa vụ đối với con chưa thành niên rất nhiều nhưng số người

yêu cầu Tòa án hoặc Tòa án tự mình ra quyết định hạn chế quyền của người
5


cha, người mẹ đó đối với con là rất hiếm. Tình trạng này xuất phát từ nhiều
lý do khác nhau. Trước hết là do quan niệm sai lệch về quyền giáo dục con.
Rất nhiều người cho rằng giáo dục mà không trừng phạt thì không đạt hiệu
quả nên khi con cái phạm lỗi hoặc không nghe lời cha mẹ thì cha mẹ thì cha,
mẹ có quyền chửi mắng, đánh đập, bỏ đói, đuổi ra khỏi nhà, bắt lao động
nặng. Do vậy, khi một đứa trẻ bị cha, mẹ đánh đập, hành hạ, ngược đãi, bóc
lột sức lao động … thì những người thân thích như ông, bà, chú , bác, cô, dì,
anh, chị của người đó lại cho rằng cha, mẹ đang thực thi quyền giáo dục con.
Từ đó đẫn đến tình trạng rất nhiều đứa trẻ bị cha, mẹ đánh đập, xua đuổi, bỏ
đói… một cách tàn nhẫn. Biết rằng quyền của những đứa trẻ này bị xâm
phạm một cách nghiêm trọng nhưng những người thân thích làm ngơ hoặc
chỉ can ngăn mà không nhờ cơ quan chức năng giúp đỡ và cũng không yêu
cầu Tòa án hạn chế quyền của người có hành vi vi phạm nghiêm trọng đối
với con. Vì vậy, thực tế số cha, mẹ có hành vi vi phạm nghiêm trọng đến
quyền và lợi ích của con chưa thành niên rất lớn nhưng số bị Tòa án hạn chế
quyền với con lại rất ít.
Bên cạnh đó việc phát huy của các cơ quan, tổ chức như hội liên hiệp
phụ nữ, cơ quan bảo vệ trẻ em trong việc bảo vệ trẻ em nói chung và con
chưa thành niên trong các gia đình nói riêng còn rất hạn chế. Có rất nhiều trẻ
chưa thành niên bị xâm phạm ngay trong gia đình nhưng không nhân được
sự can thiệp của các cơ quan, tổ chức này, chỉ khi xảy ra hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng thì các cơ quan, tổ chức này mới vào cuộc nhưng giải quyết
vấn đề như thế nào thì còn rất lúng túng.
Đồng thời, trong việc hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa
thành niên thì các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền còn chưa phát huy được
vai trò của mình. Chẳng hạn, đối với Tòa án khi xét xử các vụ án hình sự mà

người phạm tội là người chưa thành niên thì thông thường chỉ kết tội con mà
không đề cập đến lỗi của cha, mẹ. Khi con chưa thành niên phạm tội thì cha,
mẹ cũng có lỗi rất lớn trong việc giáo dục và quản lý con. Mặt khác, đối với
trường hợp Tòa án tuyên phạt cha, mẹ về một trong các tội đối với con chưa
thành niên thì Tòa án cũng có quyền tự mình ra quyết định hạn chế quyền
của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Tuy nhiên, trên thực tế, khi kết án
cha, mẹ về các hành vi phạm tội đối với con chưa thành niên thì phần lớn
Tòa án không tuyên bố hạn chế quyền của người cha, người mẹ đối với con
mặc dù pháp luật có quy định khi cha, mẹ có hành vi vi phạm nghiêm trọng
đến quyền và lợi ích của con chưa thành niên : “ Tòa án có thể tự mình ra
quyết định hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên là việc dân
sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể trực tiếp yêu cầu Tòa án giải quyết.
Nhưng phần lớn người dân không hiểu được như vậy nên khi cha hoặc mẹ
6


của con chưa thành niên thấy cần có sự can thiệp của cơ quan chức năng thì
họ rất lúng túng không biết cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết. Phần lớn
họ nghĩ rằng báo công an giải quyết, nhưng khi công an được báo thì họ cho
rằng đó là chuyện gia đình, công an chỉ xử lí về hình sự, cha mẹ “ dạy con ”
không mang tính hình sự nên họ không giải quyết.
Ví dụ : Một bà mẹ ở Cần Thơ đã ép hai con gái ( một đứa 16 tuổi và
một đứa 15 tuổi) bán dâm. Mỗi ngày các em phải tiếp 9 đến 10 lượt khách.
Khi các em kháng cự thì bị mẹ đánh đập, bỏ đói, bị nhốt trong nhà. Sau hơn
4 tháng, được sự giúp đỡ của một người khách, lợi dụng lúc mẹ ngủ say, các
em bỏ trốn. Khi người cha nhờ công an giải quyết thì công an trả lời : “ Việc
gia đình thì gia đình tự giải quyết ”. Người cha lại nhờ công an nơi mình cư
trú giải quyết thì nhận được câu trả lời : “ Con ông bị bắt ở đâu thì về nơi đó
giải quyết ”.

Thứ hai, nhiều người trong xã hội còn thiếu cách nhìn đầy đủ về
nghĩa vụ và quyền của cha, mẹ đối với con cái nên chưa có sự phân định rõ
ràng giữa quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với các hành vi của con.
Trên thực tế, nhiều người cha, người mẹ không hiểu được quyền và
nghĩa vụ của họ đối với con, cũng như không hiểu được rõ hoặc cố tình
không hiểu về quyền của con, nhất là với con chưa thành niên nên đã có
cách chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng không phù hợp dẫn đến hậu quả rất
nghiệm trọng. Tình trạng thường thấy hiện nay là cha, mẹ không quan tâm
chăm sóc con hoặc quan tâm, chăm sóc không đúng cách, đánh đập con,
giáo dục con không đúng cách, buộc con phải lao động quá sức, thậm chí
cha, mẹ la “ tấm gương tối ” đã dẫn đến con cái bị trầm cảm, bỏ nhà lang
thang, phạm tội hoặc tìm đến cái chết. Theo số liệu điều tra hơn 2200 số học
viên ở các trường giáo dưỡng, gần một nửa trong số này sống trong cảnh bị
đối xử hà khắc, thô bạo, độc ác của bố, mẹ. Số em bị bố mẹ đánh chiếm 23%
( gấp 6 lần mẹ đánh ), số em bị mẹ kế, bố dượng đánh chiếm 20,3%. Như
vậy gần 50% trẻ em phạm tội bị đối xử hà khắc.
Có thể nhận thấy điều đó qua một số ví dụ sau :
1. Trần Văn Ty ở Phù Cát, Bình Định học lớp 8 thì đòi nghỉ học vì lý
do “ con không học nổi, nhét cũng không vô ”. Thấy cảnh mình bị thất học
mà khổ nên cha mẹ Ty bắt Ty phải học tiếp. Cha Ty đã đánh đập tàn nhẫn
với mong muốn Ty trở lại trường học. Nhưng phản ứng lại những trận đòn
của cha, Ty đã bỏ nhà vào TP.Hồ Chí Minh. Rồi Ty theo bạn dùng dao đi
cướp tài sản. Ty bị kết án 5 năm tù vì tội giết người và 3 năm vì tội cướp tài
sản khi mới 16 tuổi. Khi Ty bị kết án người ta cho rằng chẳng thể nào đo
đếm được nỗi khổ của người mẹ. Người ta thương xót cho người mẹ nghèo
vì con mà khổ, nhưng ít ai nghĩ rằng người cha của Ty đã vi phạm nghĩa vụ

7



đối với con, không biết cách giáo dục, dạy dỗ con dẫn đến hậu quả đau lòng,
mà Ty lại là người trực tiếp gánh chịu.
2. Hai anh em ( đứa lớn 8 tuổi, đứa bé 6 tuổi) ăn xin tại bên xe Hà
Đông đã vài năm. Mỗi ngày chúng phải xin đủ 200.000 đồng về nộp cho mẹ,
nếu không đủ thì sẽ bị mẹ và các chị đánh đập dã man. Hàng ngày, chúng
phải đi xin từ khoảng 5h sáng đến 11h đêm. Trời rét cũng chỉ có một manh
áo mỏng, không được một bữa ăn no. Rõ ràng trường hợp này mẹ của hai
đứa trẻ đã bắt con lao động quá sức, thực chất là bóc lột sức lao động của
con. Nhưng dù tình trạng này xảy ra và nhiều năm phóng viên đã tới tận nơi
tìm hiểu và đã đưa tin nhưng không có cơ quan, tổ chức nào quan tâm bảo
vệ các em.
3. Năm 2010 Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử Trần văn Cường
16 tuổi, nạn nhân chính là cha đẻ của Cường. Do say rượu lại bị cha đuổi
đánh nên Cường đã dùng dao đâm chết cha. Tại phiên tòa chủ tọa hỏi người
mẹ về cách sống của gia đình bà thế nào thì người mẹ nhận lỗi là tại thương
con quá, dù còn nhỏ tuổi nhưng thấy con uống rượu cũng không ngăn cấm,
con còn nhỏ tuổi mà đã cho chạy xe gắn máy… Với vụ án này người ta thấy
rõ nỗi đau của người mẹ, mất chồng, con phải vào tù. Điều chắc chắn là
người ta cảm thông cho người mẹ này, nhưng mấy ai cho rằng người mẹ có
lỗi nghiêm trọng trong việc giáo dục con.
Thứ ba, thiếu cơ chế để thực hiện hạn chế quyền của cha, mẹ đối với
con chưa thành niên
Do quan niệm truyền thống và điều kiện sống của người Việt Nam
nên thông thường con chưa thành niên sống chung với cha, mẹ để cha, mẹ
thực hiện việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Như vậy,
người cha, người mẹ nào bị hạn chế quyền đối với con thì vẫn có nghĩa vụ
nuôi dưỡng con và vẫn được quyền sống chung với con. Khi cha, mẹ bị hạn
chế quyền đối với con nhưng họ vẫn sống cùng con thì rất khó hạn chế việc
thực hiện quyền trông nom, chăm sóc và giáo dục con trong thực tế. Do đó,
mặc dù pháp luật quy định về việc hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con

chưa thành niên nhưng khi Tòa án ra quyết định thì việc thi hành các quyết
định đó cũng gặp nhiều khó khăn.
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả quy định hạn chế quyền của cha,
mẹ đối với con chưa thành niên
Như vậy, trong xã hội Việt Nam hiện nay, việc Tòa án hạn chế quyền
của cha, mẹ đối với con chưa thành niên thực tế chỉ có thể hạn chế quyền đại
diện theo pháp luật cho con hoặc quyền quản lý tài sản của con. Xét cả trên
lý luận và thực tiễn thì viêc hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa
thành niên không đạt hiệu quả. Tuy nhiên, giải pháp tháo gỡ cho tình trạng
này là rất khó khăn đối với hoàn cảnh Việt Nam hiện nay. Tại một số nước
8


khi cha, mẹ có hành vi vi phạm nghiệm trọng đến quyền lợi và lợi ích hợp
pháp của con thì cơ quan bảo vệ trẻ em sẽ can thiệp và đứa trẻ đó sẽ được
đưa đến chăm sóc tại các trung tâm chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
dưới sự quản lí của cơ quan bảo vệ trẻ em. Mọi chi phí nuôi dưỡng, chăm
sóc trẻ sẽ do cha, mẹ đứa trẻ chi trả. Như vậy, để thực hiện hạn chế quyền
của cha, mẹ đối với con chưa thành niên thì phải có cơ chế pháp lí cần thiết
như cơ chế giám sát thực thi quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con
chưa thành niên để phát hiện ra những trường hợp vi phạm, xây dựng những
trung tâm chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt để bảo vệ những trẻ em bị
cha, mẹ xâm phạm nghiêm trọng đến lợi ích, có cơ chế quản lý tài chính của
cá nhân để đến khi cá nhân đó bị hạn chế quyền cha, mẹ đối với con thì có
thể khấu trừ chi phí chăm sóc từ thu nhập của họ… Thực tế nước ta hiện nay
thì tất cả các vấn đề nêu trên đều thiếu và yếu.
Trước thực trạng trên, để đưa quyết định hạn chế quyền của cha, mẹ
đối với con chưa thành niên và cuộc sống cần thực hiện tốt các giải pháp
sau:
Thứ nhất, nâng cao vai trò của Tòa án trong việc chỉ rõ những sai

phạm của cha, mẹ trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, đồng thời
áp dụng biện pháp xử lý phù hợp nhằm giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật
nói chung và tôn trọng quyền của con chưa thành niên nói riêng.
Thứ hai, tăng cường năng lực quản lý cơ quan bảo vệ trẻ em, tạo cơ
chế pháo lí cho cơ quan này có thể dễ dàng phối hợp với các cơ quan chức
năng như Tòa án, Công an, Viện kiểm sát… trong việc bảo vệ người chưa
thành niên, kể cả việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Thứ ba, cần tuyên truyền, vận động để cá nhân, tổ chức hiểu rõ quy
định của pháp luật Hôn nhân và gia đình về hạn chế quyền cha, mẹ đối với
con chưa thành niên, để các cá nhân, cơ quan, tổ chức tích cực phát hiện
những trường hợp vi phạm và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

III/ KẾT LUẬN
Qua đây có thể thấy rằng việc pháp luật quy định hạn chế quyền của
cha, mẹ đối với con chưa thành niên trong một số trường hợp là hoàn toàn
hợp lí. Điều này nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho trẻ chưa
thành niên. Mặt khác con ngăn chặn tình trạng nhiều trường hơp cha, mẹ lợi
dụng, xúi giục con cái làm chuyện xấu. Tuy nhiên hệ thống pháp luật hiện
nay quy đinh về việc hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
còn một số điểm bất cập, mong rằng các nhà làm luật nước ta sẽ có những
9


giải pháp pháp hiệu quả để quy định này trở nên thiết thực hơn để bảo vệ
quyền lợi cho trẻ em nói chung và trẻ em chưa thành niên nói riêng, những
mầm non tương lai của đất nước.

10



MỤC LỤC

11


12



×