Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.11 KB, 11 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế Việt Nam đang từng bước thực hiện công cuộc công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước, lấy phát triển kinh tế bền vững làm bàn đạp vững chắc để
phát triển đất nước. Để đạt được mục tiêu đó, nếu chỉ các hoạt động kinh tế trong
nước sẽ không thực hiện được mà còn phải có sự kết hợp với các hoạt động kinh
tế đối ngoại: xuất nhập khẩu. Đặc biệt trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay, hoạt động xuất nhập khẩu càng giữ vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
kinh tế đất nước, trong đó có Việt Nam.
Ở nước ta, hoạt động xuất nhập khẩu đã diễn ra từ lâu, và có từng bước
phát triển khác nhau qua các thời kì. Hiện nay, hoạt động ngoại thương đang
phát triển mạnh mẽ, có đóng góp rất lớn vào thu nhập của nền kinh tế quốc dân.
Bên cạnh đó, cũng mang lại không ít khó khăn, thử thách đối với nền kinh tế còn
kém phát triển như nước ta. Với ý nghĩa, tác động của hoạt động xuất nhập khẩu
như vậy, nhóm chúng em quyết định chọn đề tài: Tình hình xuất nhập khẩu của
nước ta trong những năm gần đây với mục đích là trình bày thực trạng, nguyên
nhân và một số giải pháp chủ yếu để cải thiện tình hình nhằm tăng GDP. Trong
bài viết này chúng em xin nêu lên các vấn đề được nghiên cứu, những kết quả
khái quát nhất từ việc phân tích, thống kê số liệu, những giải pháp của Nhà nước
và các chuyên gia kinh tế mà chúng em thu thập được.
Do hạn chế về sự am hiểu nên không tránh khỏi những sai sót, chúng em
mong nhận được những ý kiến đánh giá của thầy, cô để bài viết hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn !

NỘI DUNG
I. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam
trong những năm gần đây.
1. Nhân tố khách quan
Những biến động kinh tế - chính trị trên thế giới có ảnh hưởng rất lớn đến
hoạt động ngoại thương của nước ta. Nổi bật trong những năm gần đây là loạt sự
kiện diễn ra gây sự chú ý của toàn thế giới: Bắt đầu từ sự phá sản của WorldCom
năm 2003, Mardoff với vụ lừa đảo lịch sử 65 tỷ USD năm 2005, và lớn nhất là


khủng hoảng tín dụng Mỹ năm 2007, kéo theo sự sụp đổ của đế chế Lehman
Brothers, cùng khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2009, sự kiện này đã làm
chao đảo toàn bộ nền kinh tế thế giới mà Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ.
Sang năm 2010, tuy ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế đã tạm lắng nhưng vẫn còn
tiểm ẩn nhiều biến động, điển hình là khủng hoảng nợ công của Hi Lạp, các
1


nước Châu Âu như Tây Ban Nha, Ý và Bồ Đào Nha cũng đang đứng trước nguy
cơ tương tự và bong bóng tài sản ở Trung Quốc. Ngay việc Trung Quốc gia nhập
WTO cũng có tác động rất lớn tới kinh tế Việt Nam.
2. Nhân tố chủ quan
Thời kỳ 2006- 2010, hoạt động xuất nhập khẩu đạt được những bước tiến
mạnh nhờ việc Việt Nam tham gia các tổ chức quốc tế như: Tháng 1/2007 Việt
nam chính thức trở thành thành viên của WTO. Tiếp đó là đàm phán AFTA song
phương với EU, Nhật Bản, Chi Lê được khởi động và thu được những kết quả
quan trọng. Đến tháng 12/2008 Hiệp định đối tác kinh tế (EPA) với Nhật Bản
được ký kết. Việc Việt Nam tham gia các tổ chức kinh tế - chính trị, đặc biệt là
sự kiện Việt Nam ra nhập WTO đã tạo điều kiện mở rộng thị trường xuất nhập
khẩu, phát triển hợp tác giao lưu trao đổi hàng hóa, dịch vụ, trình độ quản lí kinh
tế… Mà còn nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
II. Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây.
1. Giá trị và tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu
a, Về xuất khẩu:
Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam có nhiều biến động. Nhìn chung là
đang có chiều hướng gia tăng giá trị và đạt tốc độ tăng trưởng khá cao.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thời kỳ 2006 - 2010 đạt 56 tỷ USD/năm,
bằng 2,5 lần thời kỳ 2001 - 2005 và tăng 17,2%/năm. Kim ngạch xuất khẩu các
mặt hàng ngày càng tăng, từ 4 mặt hàng có kim ngạch trên 3 tỷ USD năm 2006
tăng lên 8 mặt hàng năm 2010.

b, Về nhập khẩu:
Tỷ lệ nhập khẩu so với GDP cao và tăng nhanh dẫn đến nhập siêu ngày
càng gia tăng.
Từ 2006, kim ngạch nhập khẩu tăng trưởng rất nhanh và cao hơn mức tăng
trưởng xuất khẩu. Kim ngạch nhập khẩu năm 2006 là 44,41 tỷ USD (so với kim
ngạch nhập khẩu là 39,6 tỷ USD). Tới năm 2010 kim ngạch nhập khẩu là 82,8 tỷ
USD (so với 70,8 tỷ USD của xuất khẩu). Như vậy, trong giai đoạn 2006-2010 thì
kim ngạch nhập khẩu tăng xấp xỉ 1,9 lần, thâm hụt thương mại tăng từ 10,8% (năm
2006) lên 14,5% (năm 2010). Như vậy nước ta vẫn là nước nhập siêu và tỷ lệ nhập
siêu đang gia tăng.

2


Biểu đồ : Xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2006-2010

2. Các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu
a. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu
Một số mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu cao trong giai đoạn 2006 - 2010
là: Hàng dệt may đứng đầu với bình quân 8,6 tỷ USD/năm, tăng mạnh so với 3,5
tỷ USD của giai đoạn trước. Giày dép đạt 4,3 tỷ USD/năm, tăng so với 2,3 tỷ
USD/năm của thời kỳ trước. Hải sản đạt 4,2 tỷ USD/năm, giai đoạn trước là 2,2
tỷ USD/năm. Kim ngạch gạo xuất khẩu tăng mạnh với mức tăng 17,9%/năm.
Riêng dầu thô xuất khẩu giai đoạn 2006 - 2010 giảm đáng kể do tăng tăng nguồn
nguyên liệu cung cấp cho Nhà máy lọc dầu Dung Quất, thay thế dần hàng nhập
khẩu. Kim ngạch xuất khẩu dầu thô giai đoạn này chiếm 13,7% tổng kim ngạch
xuất khẩu, giảm nhiều so với 21% của thời kỳ trước.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng công nghệ thấp và sản phẩm
nông nghiệp có giá trị thấp. Việt Nam chỉ có lợi thế cạnh tranh trong nhóm hàng
xuất khẩu có công nghệ thấp, thâm dụng nhiều lao động và xuất khẩu tài nguyên

dạng thô. Tuy nhiên, các mặt xuất khẩu của Việt Nam vẫn giữ được ưu thế của
mình. Có thể thấy rõ điều này khi Việt nam là nước xuất khẩu hạt điều, hạt tiêu
lớn nhất thế giới , gạo, cà phê cán đích ở vị trí thứ hai….Theo đó, tốc độ tăng
trưởng trong giai đoạn 2006–2010 của các 15 mặt hàng chủ lực trong xuất khẩu
là 22,9%/năm.

3


Đối với Việt Nam, thực tế 9% gia tăng trong lượng xuất khẩu chỉ tương
đương với 26% gia tăng trong giá trị xuất khẩu. Cũng vì lý do này, mặc dù nhiều
ngành hàng của Việt Nam đứng thứ hạng cao trong xuất khẩu như hồ tiêu, điều,
gạo, cà phê, cao su, hàng dệt may..., nhưng do chưa tham gia được vào các khâu
có giá trị gia tăng cao, nên buộc phải lệ thuộc vào các trung gian thương mại
nước ngoài, vừa tăng chi phí trung gian, có trường hợp bị ép giá.
b. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu
Cơ cấu hàng nhập khẩu trọng tâm là tư liệu, nguyên liệu cho sản xuất do
sản xuất trong nước phát triển khá, đặc biệt là sản xuất hàng xuất khẩu nhưng
vẫn phụ thuộc hàng nhập khẩu là chủ yếu, cụ thể là: Nhập khẩu xăng dầu bình
quân giai đoạn 2006-2010 tăng 2,7%/năm và tăng 19,7% so với giai đoạn trước.
Sắt thép nhập khẩu bình quân tăng 15,7%/năm và tăng 71% so với giai đoạn
trước. Vải nhập khẩu bình quân tăng 16,8%/năm và tăng 140% so với giai đoạn
trước. Linh kiện điện tử nhập khẩu bình quân tăng 25,8% năm và tăng 226,3% so
với giai đoạn trước. Nhập khẩu ô tô nguyên chiếc giai đoạn 2006-2010 tăng
174% so với giai đoạn trước.
Bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, thời kỳ 2006-2010 là thời kỳ
mức nhập siêu tăng mạnh, bình quân 12,5 tỷ USD/năm, bằng 3,3 lần thời kỳ
trước và chiếm 22,3% kim ngạch xuất khẩu bình quân năm, cao hơn mức 17,3%
của thời kỳ 2001-2005.
Nhập khẩu chủ yếu máy móc, công nghệ, đồng thời tỷ trọng hàng hóa tiêu

dùng cũng đang tăng lên. Điều đó chho thấy nước ta phụ thuộc lớn vào nguồn
nguyên vật liệu và thiết bị nhập khẩu để phục vụ ngành công nghệp chế tạo.
3. Các thị trường xuất nhập khẩu chủ yếu
Về thị trường xuất khẩu giai đoạn 2006-2010. Phân theo châu lục: Thị
trường châu Á đứng đầu với 45,6% tổng kim ngạch xuất khẩu, Châu Mỹ tiếp tục
tăng mạnh và ở vị trí thứ hai với 23%; châu Âu chiếm 20,8%; châu Đại Dương
chiếm 6,2%; châu Phi tuy chiếm tỷ lệ nhỏ với 2,7% nhưng đã gấp 3,8 lần so với
thời kỳ 5 năm trước. Theo quốc gia, Mĩ và Nhật Bản luôn là thị trường xuất khẩu
hàng hóa lớn của nước ta.
Về thị trường nhập khẩu: nước ta nhập khẩu hàng hóa chủ yếu từ các nước
Trung Quốc, Singapore, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia,
Hồng Kông… ( chủ yếu là các nước Châu Á do chi phí vận chuyển ít, giá cả
hàng hóa phù hợp với điều kiện của nước ta trong khi chất lượng hàng hóa tốt và
ngày càng được nâng cao).

4


4. Xuất nhập khẩu theo khu vực kinh tế và theo nhóm hàng
Trị giá xuất khẩu hàng hóa phân theo khu vực kinh tế và phân theo nhóm hàng
Đơn vị: triệu USD
2006

2007

2008

Tỷ
trọng


Giá trị

Tỷ
trọng

39826.2 100.0

48561.
4

16764.9

42.1

23061.3

2009

2010

Giá trị

Tỷ
trọng

Giá trị

Tỷ
trọng


100.0 62685.1 100.0

57096.3

100.0

72191.9

100.0

20786.8

42.8

28162.3

44.9

32918.8

57.7

38063.0

52.7

57.9

27774.6


57.2

34522.8

55.1

24177.7

42.3

34128.9

47.3

14428.6

36.2

16646.7

34.4

23209.4

37.0

16800.0(*)

29.4(*)


27.2

16382.4

41.2

20693.6

42.6

24896.4

39.8

24445.0(*)

42.8(*)

46.0

Hàng nông sản

5352.4

13.4

7032.8

14.5


9239.6

14.7

Hàng lâm sản

297.6

0.8

408.4

0.8

468.7

0.7

Hàng thủy sản

3358.0

8.4

3763.4

7.7

4510.1


7.2

4251.3(*)

7.4(*)

6,9

0.6

( )

( )

Giá trị
TỔNG SỐ
Phân theo khu
vực kinh tế
Khu vực kinh tế
trong nước
Khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài
Phân theo nhóm
hàng
Hàng công
nghiệp nặng và
khoáng sản
Hàng CN nhẹ
và TTCN


Vàng phi tiền tệ

7.2

0.0

16.5

Giá trị

0.0

360.9

Tỷ
trọng

2600.0 *

4.5 *

( )

* Số liệu sơ bộ

Theo khu vực kinh tế
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có giá trị xuất khẩu thấp hơn
khu vực kinh tế trong nước vào những năm 2006-2008 và vượt lên trong những
năm 2009,2010. Giai đoạn này còn chứng kiến sự xuất siêu của khu vực kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài và nhập siêu của khu vực kinh tế trong nước.

Theo nhóm hàng
(1) Xuất khẩu: Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân giai đoạn 2006-2010
nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản, công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công
nghiệp, hàng nông, lâm, thủy sản lần lượt là 26.9%; 42.48% và 15,2%. Như vậy,
nhóm hàng Công nghiệp nhẹ và Tiểu thủ công nghiệp gia tăng nhanh về giá trị

5

4


và chiếm vai trò ngày càng quan trọng trong cơ cấu xuất khẩu quốc gia. Vai trò
của nhóm hàng nông, lâm thủy sản giảm đáng kể.
(2) Nhập khẩu: Tốc độ tăng trƣởng nhập khẩu bình quân của ba nhóm hàng: máy
móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng; nguyên, nhiên vật liệu; hàng tiêu dùng trong
giai đoạn 2006-2010 lần lƣợt là 27.6%; 62,8% và 8.2%. Sau 5 năm 2001-2005,
cơ cấu nhập khẩu đã có thay đổi theo hướng tăng dần tỉ trọng nhóm hàng
nguyên, nhiên vật liệu, giảm tỉ trọng hai nhóm hàng máy móc,
thiết bị và hàng tiêu dùng.
Trị giá nhập khẩu hàng hóa phân theo khu vực kinh tế và phân theo nhóm hàng
Đơn vị: triệu USD
( )

* Số liệu sơ bộ
2006

TỔNG SỐ
Phân theo khu
vực kinh tế
Khu vực kinh

tế trong nước
Khu vực có
vốn đầu tư nước
ngoài
Phân theo nhóm
hàng
Tư liệu sản xuất
Máy móc,
thiết bị, dụng cụ,
phụ tùng
Nguyên,
nhiên, vật liệu
Hàng tiêu dùng
Lương thực
Thực phẩm
Hàng y tế
Hàng khác
Vàng phi tiền tệ

2007

Giá trị

Tỷ
trọng

44891.
1

2008


Giá trị

Tỷ
trọng

100.0

62764.
7

28401.7

63.3

16489.
4

2009

Giá trị

Tỷ
trọng

100.0

80713.8

41052.3


65.4

36.7

21712.4

39504.
1

88.0

11040.8

2010

Giá trị

Tỷ
trọng

Giá trị

Tỷ
trọng

100.0

69948.8


100

84801.2

100

52831.7

65.5

43882.1

62.7

47833.3

56.4

34.6

27882.1

34.5

26066.7

38,2

36967.9


43.6

56788.6

90.5

71715.9

88.8

63121.8(*)

90.2(*)

24.6

17966.2

28.6

22566.7

28.0

20500.8(*)

29.3(*)

28463.3


63.4

38822.4

61.9

49149.2

60.9

42621.0(*)

60.9(*)

3508.4
7.2
1238.9
598.8
1663.5
1878.6

7.8
0.0
2.8
1.3
3.7
4.2

4660.1
2.5

1555.2
763.8
2338.6
1316.0

7.4
0.0
2.5
1.2
3.7
2.1

6269.9
3.8
2190.2
890.2
3185.7
2728.0

7.8
0.0
2.7
1.1
4.0
3.4

6500.0(*)

9.3(*)


6

90.2

44.6
1097.0(*)

1.56(*)

327.0(*)

0.5(*)

8.6
0

1.2


5. Tình trạng nhập siêu
Trước tình hình khả quan về nhập siêu giai đoạn 2001-2005, Việt Nam đã
đặt mục tiêu chiến lược của giai đoạn 2006-2010 là: "Tiến tới cân bằng xuất
khẩu - nhập khẩu vào những năm đầu sau năm 2010".
Tuy vậy 5 năm qua, nhập khẩu luôn tăng trưởng vượt mặt xuất khẩu, đẩy
nền kinh tế rơi vào tình trạng nhập siêu triền miên. Cụ thể, thời kỳ 2006-2010 là
thời kỳ mức nhập siêu tăng mạnh, bình quân 12,5 tỷ USD/năm, bằng 3,3 lần thời
kỳ trước và chiếm 22,3% kim ngạch xuất khẩu bình quân năm, cao hơn mức
17,3% của thời kỳ 2001-2005.
Tóm lại, tình trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam trong những năm gần
đây đang đi theo hướng tích cực, kim ngạch xuất khẩu tăng, các mặt hàng xuất

khẩu, thị trường xuất khẩu đa dạng. Tuy nhiên, chúng ta cũng gặp không ít
những thách thức lớn, tỷ lệ nhập siêu gia tăng, giá trị hàng hóa xuất khẩu thấp
chủ yếu là hàng thô, sự phân tích thị trường kém thường xuyên bị ép giá, các
mặt hàng chưa đủ sức cạnh tranh trên những thị trường lớn.
III. Nguyên nhân của tình trạng xuất nhập khẩu của nước ta hiện nay
1. Nguyên nhân của sự phát triển tích cực
Khoa học công nghệ sẽ có bước nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày
càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Toàn cầu hoá kinh tế
là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Nước ta lại
nằm ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương một trong những khu vực có tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới.
Đó là do tác động rất lớn từ đường lối kinh tế của Đảng ta là: “ Đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta
trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng thời
xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy
cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững”.
Nguyên nhân lớn nhất là sự định hướng phát triển thi trường xuất nhập
khẩu của Nhà nước.
2. Nguyên nhân của sự phát triển tiêu cực (chủ yếu xét đến nguyên nhân của
nhập siêu, vấn đề nóng bỏng hiện nay)
Có nhiều yếu tố tác động đến nhập siêu của Việt Nam. Trước hết, việc bãi
bỏ hàng rào nghạch dệt may giữa các nước thành viên của tổ chức thương mại
thế giới (WTO), các vụ kiện bán phá giá và hàng rào kĩ thuật do các nước nhập
khẩu dựng lên đã làm cho tốc độ xuất khẩu của các nghành chủ lực của nước ta
như: dệt may, giầy dép và thủy sản bị chậm lại. Nhu cầu nhập khẩu hàng hóa,
7


nguyên vật liệu, phụ liệu phục vụ cho sản xuất trong nước và sản xuất hàng xuất

khẩu những nghành này đang tăng lên nhanh. Trong đó, nhập khẩu nguyên phụ
liệu nghành dệt may chiếm 70% , nguyên liệu gỗ cũng gần như hoàn toàn nhập
khẩu từ nước ngoài. Ở các nghành này, Việt Nam chỉ tham gia vào giai đoạn
cuối là gia công nên giá trị gia tăng thu về là không nhiều.
Cơn sốt giá dầu trên thị trường thế giới cũng có tác động không nhỏ, Việt
Nam hiện phải nhập gần như 100% nhiên liệu, nhưng đồng thời cũng là nước
xuất khẩu dầu thô. Sự kiện giá dầu tăng tuy không tác động trực tiếp đến nhập
siêu nhưng lại tác động gián tiếp thông qua những nguyên liệu phụ thuộc vào giá
dầu mà Việt Nam có nhu cầu nhập lớn.
Thực tế cho thấy rằng, càng ở những nước kém phát triển thuế nhập khẩu
càng cao và nước ta cũng không phải ngoại lệ, bởi thuế đánh vào hàng nhập khẩu
phục vụ cho các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước của nước ta vẫn còn là
một khoản thu lớn của ngân sách Nhà nước. Cho nên, đây cũng chính là một
trong những nguyên nhân dẫn đến nhập siêu.
IV. Giải pháp chủ yếu để cải thiện tình hình xuất nhập khẩu trong những năm
gần đây để tăng GDP của nước ta
Trong phương pháp xác định GDP theo luồng chi tiêu, GDP được tính như sau:
GDP = C + I + G + NX
Trong đó, NX là giá trị xuất khẩu ròng tức là giá trị chênh lệch giữa giá trị
xuất khẩu và nhập khẩu. C là chi tiêu của hộ gia đình. I là đầu tư và G là chi tiêu
của Chính phủ.
• Khi NX=0, ta có cán cân thương mại cân bằng hay giá trị xuất khẩu bằng giá
trị nhập khẩu.
• Khi NX>0, ta có thặng dư trong cán cân thương mại hay tình trạng xuất siêu.
• Khi NX<0, ta có thâm hụt trong cán cân thương mại hay tình trạng nhập siêu.
Từ công thức tính GDP ở trên kết hợp phân tích hoạt động xuất nhập khẩu
cho thấy: Hoạt động sản xuất, kinh doanh xuất nhập - khẩu đóng góp một phần
quan trọng vào GDP ở Việt Nam. Khi tăng giá trị xuất khẩu sẽ là cho giá trị xuất
khẩu ròng tăng và dẫn đến GDP tăng và ngược lại. Trên thực tế, chúng ta luôn ở
trong tình trạng nhập siêu, nên phần đóng góp trực tiếp của khu vực xuất nhập

khẩu vào GDP là âm. Tuy nhiên, xét tỷ trọng hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam
có thể nhận thấy rằng, phần lớn hàng nhập khẩu là để phục vụ sản xuất và được
bù đắp bởi chi phí đầu tư (I). Bên cạnh đó, sản xuất hàng xuất khẩu tạo ra công
ăn việc làm , giải quyết thu nhập cho một bộ phận lớn dân số và gián tiếp đóng
góp vào GDP thông qua việc tiêu dùng của bộ phận dân số này (C). Vì vậy, các
8


biện pháp cải thiện tình trạng nhập siêu cũng chính là một số biện pháp để tăng
GDP.
Một số giải pháp cải thiện tình hình xuất nhập khẩu để tăng GDP
o Chính sách tỷ giá: Trong thời gian qua, Chính phủ đã tiến hành các chính
sách tỷ giá theo hướng mở rộng biên độ dao động lên ±5% và cho phép tỷ giá
VND/USD biến động theo hướng phù hợp với thực trạng cung cầu ngoại hối
trên thị trường. Trong thời gian tới, Chính phủ cần tiếp tục điều chỉnh phá giá
dần dần tiền đồng, trách gây sốc, nhưng đảm bảo theo khuynh hướng
tăng/giảm giá trị của đồng USD trên thị trường thế giới.
o Chính sách hỗ trợ tín dụng xuất khẩu: Nguồn kinh phí của một gói kích cầu
một tỷ USD cần được sử dụng đúng nơi, đúng chỗ nhằm hỗ trợ cho các doanh
nghiệp xuất khẩu. Ví dụ, chỉ tài trợ cho các khoản tín dụng liên quan trực tiếp
tới xuất khẩu: Cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu triết khấu các loại hối
phiếu thanh toán trả chậm, hoặc cấp tín dụng ngay cho các doanh nghiệp có
thể chứng minh đã hoàn thành việc giao hàng và đang làm thủ tục thanh toán
trên cơ sở bảo đảm thanh toán bằng chuyển giao chứng từ sở hữu hàng hóa
cho ngân hàng. Chính phủ có bảo lãnh các khoản thanh toán này.
o Chính sách hỗ trợ chi phí xuất khẩu: Hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất
khẩu để giảm các chi phí liên quan đến xuất khẩu như chi phí tại cảng biển,
sân bay và chi phí vận tải; giảm tối đa thủ tục hành chính gây phiền hà cho
doanh ngiệp xuất – nhập khẩu.
o Đa dạng hóa cơ cấu thị trường xuất –nhập khẩu: Cơ cấu thị trường xuất

nhập khẩu ở nước ta cho thấy, thị trường xuất nhập khẩu ở nước ta tập trung
cao độ vào một số thị trường trọng điểm đã chịu ảnh hưởng của cơn bão
khủng hoảng tài chính thế giới. Do vậy, cần huy động các cơ quan ngoại giao
và mạng lưới doanh nghiệp Việt Nam trên toàn thế giới để phát triển, mở
rộng thi trường mới như Trung Đông, châu Phi, châu Đại Dương và Mỹ
Latinh, đồng thời khôi phục lại những thị trường cũ như Đông Âu và cộng
đồng các quốc gia, dân tộc độc lập…
o Cải thiện cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu: Việc cải thiện cơ cấu mặt hàng
xuất nhập khẩu không thể thực hiện trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, cần xây
dựng lộ trình cụ thể nhằm nâng cao chất lượng hàng hóa sản xuất trong nước,
đặc biệt là các sản phẩm xuất khẩu truyền thống, đồng thời tìm thị trường cho
các sản phẩm xuất khẩu mới. Hàng hóa nhập khẩu cần tiếp tục điều chỉnh
theo hướng giảm tỷ trọng nhập khẩu nguyên, nhiên, vật liệu thô.
o Khai thác thị trường trong nước: Cần khai thác tối đa thị trường trong nước
để giảm quy mô nhập khẩu, nhằm giảm mức độ phụ thuộc của Việt Nam vào

9


các thị trường trong nguyên, nhiên, vật liệu đối với các nước trong khu vực.
Nghiên cứu, điều chỉnh công nghệ, nâng cao phần giá trị gia tăng sản xuất
trong nước thong qua việc khai thác các nguồn nguyên, nhiên, vật liệu sẵn có
trong nước. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất khẩu đặc biệt là dệt
may, giày dép, thiết bị điện tử đã đáp ứng được nhu cầu của các thị trường
khó tính như: Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, cần nỗ lực khai thác thị trường nội địa
để duy trì quy mô hoạt động trong thời kỳ khó khăn, đồng thời đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng của người dân trong nước, giảm áp lực nhập khẩu hàng tiêu
dùng của người dân trong nước, giảm áp lực nhập khẩu hàng tiêu dùng, góp
phần cân bằng cán cân thương mại, nhất là hỗ trợ cho các nhà sản xuất lúc thị
trường xuất khẩu có biến động xấu.

o Chính sách thưởng xuất khẩu và giảm thuế cho các doanh nghiệp xuất
khẩu: Có cơ chế thưởng xuất khẩu xứng đáng, đồng thời giảm thuế thu nhập
cho các doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là các doanh nghiệp giải quyết
nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
o Chính sách tài khóa khác: Để giảm tác động tiêu cực của suy giảm sản
lượng xuất khẩu, đặc biệt là vấn đề công ăn việc làm và thu nhập cho công
nhân sản xuất hàng xuất khẩu, Chính phủ cần nghiên cứu chế độ trợ cấp thất
nghiệp cho công nhân của các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh xuất
khẩu bị mất việc trên cả nước nhằm tránh vòng xoáy suy thoái kinh tế - thất
nghiệp, không có thu nhập, giảm tiêu dùng, buộc doanh nghiệp phải cắt giảm
sản xuất và sa thải công nhân dẫn đến thất nghiệp trầm trọng hơn.
o Chính sách tiền tệ: Cần nới lỏng chính sách tiền tệ một cách từ từ, nhằm tạo
thanh khoản và huy động nguồn lực cho chính sách tài khóa của Chính phủ.
Tuy nhiên, việc nới lỏng chính sách tiền tệ cần được tiến hành thận trọng trên
cơ sở giám sát chặt chẽ tỷ lệ lạm phát và thực hiện nghiêm túc các biện pháp
giám sát cẩn trọng, minh bạch trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.

KẾT LUẬN
Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2006 – 2010 dù
gặp không ít khó khăn nhưng vẫn đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều
mặt. Bên cạnh thành công, hoạt động xuất nhập khẩu vẫn tồn tại một số hạn chế,
thậm chí rất gay gắt và cần được khắc phục kịp thời. Những hạn chế như: thị
trường xuất khẩu chưa đa dạng, cơ cấu xuất nhập khẩu chậm biến đổi, khu vực
kinh tế trong nước hoạt động chưa hiệu quả như kì vọng, hiện tượng nhập
siêu… là những thách thức to lớn đối với ngành Ngoại thương Việt Nam.

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình kinh tế học vĩ mô, Nxb. Giáo dục Việt
Nam, Hà Nội, 2009, tr.36-50, 51-57.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình kinh tế học đại cương, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, 2002, tr.180-190, 204-205.
3. Website: www.customs.gov.vn
4. Website: www.docstoc.com
5. Website: www.gso.gov.vn
6. Website: www.nciec.gov.vn
7. Website: www.vietnamnet.com.vn

11



×