Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Phương hướng hoàn thiện pháp luật về việc kết hôn có yếu tố nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.49 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC

1

PHẦN MỞ ĐẦU

2

PHẦN NỘI DUNG

2

I. Khái niệm

2

II. Cơ sở lí luận và cơ sở pháp lí của vấn đề nghiên cứu

2

III. Quy định pháp luật Việt Nam về nguyên tắc, điều kiện kết hôn,
hồ sơ, thủ tục đăng ký kết hôn trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước
ngoài

4

IV. Kết hôn có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay

6



V. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về việc kết hôn có yếu tố
nước ngoài

9

PHẦN KẾT LUẬN

11

TÀI LIỆU THAM KHẢO

12

1


PHẦN MỞ ĐẦU

Hiện nay, kết hôn có yếu tố nước ngoài đang trở thành một vấn đề mang tính cấp
thiết toàn xã hội, bởi khi mà một nền kinh tế thị trường phát triển cùng với những
quan hệ kinh tế song phương, đa phương thì vấn đề hôn nhân và gia đình sẽ ngày
càng trở nên phức tạp với sự xuất hiện của yếu tố nước ngoài trong các quan hệ.
Trong những năm gần đây, số lượng các các vụ việc kết hôn có yếu tố nước
ngoài tại Việt Nam ngày càng gia tăng, xuất hiện nhiều vấn đề cần được nghiên cứu,
làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng nhằm đạt hiệu quả cao hơn nữa trong
việc giải quyết các vụ việc. Do đó việc nghiên cứu: “Kết hôn có yếu tố nước ngoài –
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” đang trở thành một yêu cầu vô cùng bức thiết.

PHẦN NỘI DUNG

I. Khái niệm
Theo Khoản 2 và Khoản 14 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm
2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010) thì:
- Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp
luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.
- Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia
đình: a) Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài; b) Giữa người nước ngoài với
nhau thường trú tại Việt Nam; c) Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác
lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan
đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Ở đây, “Người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam, bao gồm công
dân nước ngoài và người không quốc tịch”(theo Khoản 1 Điều 9 Nghị định số
68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ)
Kết hợp các khái niệm trên thì kết hôn có yếu tố nước ngoài được hiểu là: kết
hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài; kết hôn giữa người nước ngoài
với nhau thường trú tại Việt Nam;
II. Cơ sở lí luận và cơ sở pháp lí của vấn đề nghiên cứu
1. Cơ sở lí luận
2


Kết hôn là kết quả của tình yêu, là đích đến cuối cùng của một mối quan hệ nam
nữ. Kết hôn là một hiện tượng xã hội đặc biệt, trong đó các bên chủ thể gắn kết với
nhau với mục đích tạo dựng một tế bào của xã hội là gia đình, là bước đầu tiên để
thiết lập quan hệ hôn nhân.
Quyền kết hôn là một trong những quyền nhân thân của con người, gắn liền với
mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác.
Với chính sách “hòa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các
nước trên thế giới”, ở nước ta, việc kết hôn có yếu tố nước ngoài ngày càng phát triển
một cách đa dạng và phức tạp cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Việc điều chỉnh các quan

hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, đặc biệt là việc kết hôn có yếu tố nước
ngoài, trở thành một yêu cầu cấp bách, quan trọng nhằm làm ổn định và phát triển
giao lưu dân sự quốc tế, đồng thời bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của công dân
các nước có liên quan.
2. Cơ sở pháp lí
Ðiều 39 Bộ Luật Dân sự nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005
quy định về quyền kết hôn như sau: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định
của pháp luật về hôn nhân và gia đình có quyền tự do kết hôn. Việc tự do kết hôn
giữa những người thuộc các dân tộc, tôn giáo khác nhau, giữa những người theo tôn
giáo và không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn
trọng và được pháp luật bảo vệ.”
Điều 100 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm
2010) quy định như sau: “1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được tôn trọng và bảo vệ phù hợp với các
quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ký kết hoặc tham gia. 3. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài trong quan hệ
hôn nhân và gia đình phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước sở tại,
pháp luật và Tập quán Quốc tế. 4. Các quy định của Chương này cũng được áp dụng
đối với quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên
hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài”.
Điều 2 Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngoài ghi rõ: “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hôn nhân, quan hệ giữa cha mẹ
và con, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, được xác lập hoặc công nhận
theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình và Nghị định này, được tôn trọng và
bảo vệ phù hợp với pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc
gia nhập.”
3



Ngoài ra còn có một số văn bản khác cũng quy định về vấn đề kết hôn có yếu tố
nước ngoài như: Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam kí với các nước; Luật Quốc
tịch 2008, Luật Cư trú 2006, Bộ luật tố tụng dân sự 2004; Nghị định 69/2006/NĐ-CP
ngày 21/07/2006 của Chính phủ; Nghị định số 158/2005/NĐ–CP ngày 27/12/2005 về
đăng ký và quản lý hộ tịch; Chỉ thị 03/2005/CT-TTg ngày 25/02/2005 của Thủ tướng
Chính phủ về tăng cường quản lý nhà nước đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài; Chỉ thị 05/2003/CT-UB ngày 20/02/2003 của Thủ tướng Chính
phủ về việc thực hiện Nghị định số 68/2002/CP của Chính phủ qui định chi tiết thi
hành một số điều của LHNGĐ về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài;

Như vậy, có thể nhận thấy hệ thống văn bản quy định về quan hệ hôn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngoài, trong đó có việc kết hôn có yếu tố nước ngoài, được
ban hành đã tạo khung pháp lý tương đối đầy đủ, toàn diện, là cơ sở pháp lý vững
chắc cho việc giải quyết kết hôn có yếu tố nước ngoài
III. Quy định pháp luật Việt Nam về nguyên tắc, điều kiện kết hôn, hồ sơ, thủ tục
đăng ký kết hôn trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài
1. Nguyên tắc quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
Theo quy định tại Điều 2, LHNGĐ năm 2000, quan hệ hôn nhân nhân và gia
đình nói chung, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nói riêng tại Việt
Nam phải tuân thủ những nguyên tắc sau:
“1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
2. Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo, giữa
người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với
người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
3. Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.
4. Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội; con có
nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ; cháu có nghĩa vụ kính trọng,
chăm sóc, phụng dưỡng ông bà; các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ quan tâm,

chăm sóc, giúp đỡ nhau.
5. Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, giữa con
trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong giá thú và con ngoài giá thú.
6. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ
các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ”.
Đây là các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình, thể hiện những
quan điểm chủ đạo xuyên suốt trong các quy định của pháp luật. Những nguyên tắc
chung của pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình với công dân Việt Nam
đều được áp dụng trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
2. Điều kiện kết hôn trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
4


Theo quy định tại Điều 103 LHNGĐ “Trong việc kết hôn giữa công dân Việt
Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều
kiện kết hôn; nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền
của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy định của Luật này về
điều kiện kết hôn. Việc kết hôn giữa những người nước ngoài với nhau tại Việt Nam
trước cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Luật này
về điều kiện kết hôn”.
Pháp luật Việt Nam đã lựa chọn hệ thuộc luật quốc tịch để giải quyết xung đột
pháp luật về điều kiện kết hôn - trong quan hệ kết hôn mỗi bên phải tuân theo pháp
luật của nước mà mình là công dân về điều kiện kết hôn. Ngoài ra, công dân nước
ngoài đăng ký kết hôn tại Việt Nam ngoài việc tuân thủ pháp luật của nước mình còn
phải tuân thủ pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn quy định tài Điều 9, 10
LHNGĐ năm 2000.
3. Hồ sơ đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam
Theo quy định tại Điều 13 Nghị định số 68/2002/NĐ-CP, sửa đổi bổ sung tại
Nghị định số 69/2006/NĐ-CP, hồ sơ đăng ký kết hôn của mỗi bên phải có các giấy tờ
như: Tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu quy định; Giấy xác nhận về tình trạng hôn

nhân của mỗi bên, do cơ quan có thẩm quyền của nước mà người xin kết hôn là công dân
cấp chưa quá 06 tháng, tính đến ngày nhận hồ sơ, xác nhận hiện tại đương sự là người
không có vợ hoặc không có chồng; Giấy xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền của
Việt Nam hoặc nước ngoài cấp chưa quá 06 tháng, tính đến ngày nhận hồ sơ, xác
nhận hiện tại người đó không mắc bệnh tâm thần hoặc không mắc bệnh khác mà
không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình; Bản sao có công chứng hoặc
chứng thực giấy chứng minh nhân dân (đối với công dân Việt Nam ở trong nước), hộ
chiếu hoặc giấy tờ thay thế như giấy thông hành hoặc thẻ cư trú (đối với người nước
ngoài và công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài);….
Ngoài các giấy tờ trên, đối với công dân Việt Nam đang phục vụ trong các lực
lượng vũ trang hoặc đang làm việc có liên quan trực tiếp đến bí mật Nhà nước thì phải
nộp giấy xác nhận của cơ quan, tổ chức quản lý ngành cấp Trung ương hoặc cấp tỉnh,
xác nhận việc người đó kết hôn với người nước ngoài không ảnh hưởng đến việc bảo
vệ bí mật Nhà nước hoặc không trái với quy định của ngành đó.
4. Thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài
4.1. Cơ quan có thẩm quyền đăng ký
Theo quy định tại Điều 12 Nghị định số 68/2002/NĐ-CP của Chính phủ thì Ủy
ban nhân dân tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương là cơ quan có thẩm quyền
cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài thông qua cơ quan chuyên
môn của UBND là Sở Tư pháp, hồ sơ đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài được nộp
và giải quyết tại Sở Tư pháp tỉnh/thành phố.
5


Ngoài ra, Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam tại nước tiếp nhận nơi cư trú
của công dân Việt nam thực hiện đăng ký việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với
người nước ngoài cư trú tại nước đó.
4.2. Trình tự, thủ tục
Trình tự giải quyết việc đăng ký kết hôn tại Việt Nam được quy định tại Điều 16
Nghị định số 68/2002/NĐ-CP của Chính phủ (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định

số 69/2006/NĐ-CP của Chính phủ). Trình tự giải quyết việc đăng ký kết hôn tại cơ
quan ngoại giao, lãnh sự Việt Nam được quy định tại Nghị định số 69/2006/NĐ-CP
của Chính phủ (sửa đổi, bổ sung Điều 19 Nghị định số 68/2002/NĐ-CP của Chính
phủ).
Theo đó, cơ quan chức năng sau khi tiếp nhận hồ sơ, phải tiến hành các việc như:
thực hiện phỏng vấn; niêm yết việc kết hôn tại trụ sở; nghiên cứu, thẩm tra hồ sơ đăng
ký kết hôn; báo cáo kết quả phỏng vấn; tổ chức lễ đăng ký kết hôn;…
Như vậy, rõ ràng, pháp luật Việt Nam quy định tương đối chặt chẽ trong việc
giải quyết hồ sơ kết hôn, các biện pháp phỏng vấn đương sự, thẩm tra, xác minh hồ sơ
và quyền tư chối đăng ký kết hôn đã tạo cơ chế hữu hiệu cho việc kiểm soát tình trạng
hôn nhân giả mạo, vi phạm nguyên tắc hôn nhân tự nguyện.
5. Công nhận việc kết hôn đã được tiến hành ở nước ngoài
Nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, pháp luật Việt Nam đã quy
định về thủ tục công nhận việc kết hôn đã được tiến hành ở nước ngoài, theo đó:
“1. Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau hoặc với người nước ngoài đã
được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, phù hợp với pháp luật của
nước đó thì được công nhận tại Việt Nam, nếu vào thời điểm kết hôn, công dân Việt Nam
không vi phạm quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn.
Trong trường hợp có sự vi phạm pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn, nhưng
vào thời điểm yêu cầu công nhận việc kết hôn, hậu quả của sự vi phạm đó đã được
khắc phục hoặc việc công nhận kết hôn đó là có lợi để bảo vệ quyền lợi của phụ nữ
và trẻ em thì việc kết hôn đó cũng được công nhận tại Việt Nam.
2. Việc công nhận kết hôn quy định tại khoản 1 Điều này được ghi chú vào sổ
đăng ký theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch. Trong trường hợp công dân
Việt Nam vắng mặt khi làm thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của
nước ngoài thì khi có yêu cầu công nhận việc kết hôn đó tại Việt Nam, Sở Tư pháp
tiến hành phỏng vấn các bên kết hôn để làm rõ sự tự nguyện kết hôn của họ” (Nghị
định số 69/2006/NĐ-CP).
Có thể nhận thấy quy định về việc công nhận kết hôn đã được tiến hành ở nước
ngoài còn khá đơn giản, lỏng lẻo, chưa đáp ứng được yêu cầu trong thực tế.

Tóm lại, quy định pháp luật Việt Nam đã quy định khá đầy đủ những vấn đề cơ
bản về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, đặc biệt là vấn đề kết hôn có yếu tố
6


nước ngoài, thể hiện chính sách của Nhà nước Việt Nam trong việc tôn trọng quan hệ
kết hôn tự nguyện, tiến bộ, chấp hành quy định của pháp luật Việt Nam. Cùng với quá
trình phát triển kinh tế xã hội, hội nhập quốc tế sâu rộng, pháp luật về quan hệ hôn
nhân và gia đình đã tạo khung pháp lý quan trọng để ghi nhận, bảo hộ các quan hệ
hôn nhân có yếu tố nước ngoài giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa
người nước ngoài với nhau trên lãnh thổ Việt Nam.
IV. Kết hôn có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay
Bài viết xin thu hẹp vấn đề ở việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người
nước ngoài, đặc biệt là phụ nữ Việt Nam kết hôn với nước ngoài – một vấn đề đang
có rất nhiều bất cập trong xã hội hiện nay
1 Thực trạng
Quan hệ Hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài bắt đầu phát sinh và phát
triển ở Việt Nam vào khoảng thập niên 90 của thế kỷ 20 như hệ quả tất yếu của sự
phát triển, hội nhập ngày càng sâu rộng của nước ta. Trong thời gian qua, nhà nước đã
ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời điều chỉnh các quan hệ này.
Mặc dù vậy, theo đánh giá của các cơ quan chức năng, tình hình kết hôn có yếu
tố nước ngoài vẫn diễn ra khá phức tạp. Theo thống kê của Bộ Tư pháp, từ 1995 đến
hết năm 2010 vừa qua, đã có hơn 270.000 công dân Việt Nam kết hôn với người nước
ngoài hoặc kết hôn với công dân Việt Nam định cư tại nước ngoài. Có 80% trường
hợp là phụ nữ Việt Nam đã kết hôn với công dân của hơn 50 quốc gia và vùng lãnh
thổ. Nhiều nhất là Đài Loan, Hàn Quốc, Cộng hoà Liên bang Đức, Mỹ, Canada, Pháp,
Australia, Thụy Điển, Trung Quốc. 80% số này đã từng lao động và kiếm được tiền
tại Việt Nam. 85% cô dâu lấy chồng hơn mình từ 10- 19 tuổi, 15% hơn từ 20- 30 tuổi.
Theo khảo sát, có 83,5% chị em lấy chồng nước ngoài có thể tích lũy tài chính và hỗ
trợ gia đình ở Việt Nam, 83,6% số cô dâu cảm thấy hài lòng về cuộc sống tại quê

hương người chồng. 11% số cô dâu đã ly dị để hồi hương vì không có hạnh phúc và
tích lũy kinh tế nơi đất khách.
Ngoài ra, kết hôn có yếu tố nước ngoài cũng còn khá nhiều bất cập như:
- Môi giới hôn nhân bất hợp pháp: Theo số liệu thống kê thì gần 60% các cuộc
hôn nhân giữa phụ nữ Việt nam với người nước ngoài thông qua môi giới bất hợp
pháp. Điều đáng nói ở đây là thông qua các cuộc tổ chức xem mặt, tuyển lựa phụ nữ
Việt để làm vợ cho một số đàn ông nước ngoài; nhân phẩm, giá trị con người của phụ
nữ Việt Nam bị xem thường, hạ thấp. Các cô gái được người ta coi như món hàng mà
người mua được quyền chọn món hàng này, loại món hàng kia.
- Nguyên tắc kết hôn tự nguyện chưa thực sự được tôn trọng: Nhiều phụ nữ
kết hôn với người nước ngoài do sự sắp đặt của người khác, nhất là vai trò của các cá
nhân, tổ chức môi giới. Người môi giới không chỉ dụ dỗ người phụ nữ mà còn tác
động, lái sự chấp thuận đối tượng kết hôn đến những người thân, người có vai trò gây
7


ảnh hưởng nhất của người phụ nữ. Người môi giới thường vẽ ra các viễn cảnh giàu
sang phú quý ở nước ngoài nhằm lừa dối người phụ nữ quyết định việc hôn nhân với
đối tượng đàn ông nước ngoài đã được sắp đặt trước.
- Hôn nhân không dựa trên cơ sở tình yêu giữa hai người: Theo kết quả
nghiên cứu của Viện Khoa học Lao động và Xã hội thì chỉ hơn 7% phụ nữ Việt Nam
lấy chồng nước ngoài vì tình yêu. Số còn lại vì mục đích kinh tế là chủ yếu. Hôn nhân
không dựa trên tình yêu thường dẫn đến sự bất hạnh trong đời sống vợ chồng. Đối với
người phụ nữ lấy chồng nước ngoài điều bất hạnh càng nhân lên gấp bội vì cuộc sống
xa gia đình, xa Tổ quốc, khác biệt về văn hóa, bất đồng về ngôn ngữ. Nhiều chị em
lấy phải ông chồng già còn hơn cả tuổi cha của mình. Có chị em bị lừa lấy phải chồng
tàn tật, bệnh hoạn, thần kinh không bình thường.
- Cuộc sống sau khi kết hôn không có sự bảo đảm được bảo vệ: Một số chị em
còn bị bạo hành, ngược đãi, khinh thường không chỉ từ người chồng mà cả cha mẹ,
anh chị em nhà chồng. Một số trường hợp lấy chồng Trung Quốc do không chịu nổi

lao động nặng nhọc và sự kiểm soát gắt gao của gia đình nhà chồng đã bỏ trốn về kể
lại rằng các chị không được chút tự do. Suốt ngày, suốt đêm luôn có người kèm,
không được đi ra ngoài một mình (sợ trốn). Ban ngày thì ra đồng, lên nương rẫy làm
việc như đứa ở. Tối đến phải làm công việc nội trợ có khi đến nửa đêm. Tiền bạc thì
không được quản lý. Không được ra chợ, ra đường hoặc gặp gỡ bất cứ ai một mình.
Nhiều chị em bị chồng, mẹ chồng, anh chị em nhà chồng bạo hành, ngược đãi mà
không được sự quan tâm bảo vệ của bất cứ cá nhân, tổ chức nào tại địa phương nơi
chị em lấy chồng. Rào cản về ngôn ngữ là điều bất lợi nhất làm chị em không thể
phản ánh đến được các cơ quan pháp luật nước sở tại. Đấy là chưa kể đến các trường
hợp chị em ở trong cảnh kết hôn bất hợp pháp, cư trú bất hợp pháp. Đã xảy ra trường
hợp cô dâu Việt bị người chồng giết chết ở Hàn Quốc.
- Pháp luật điều chỉnh việc kết hôn có yếu tố nước ngoài cũng còn nhiều điểm
chưa cụ thể: Trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam có quy định những trường
hợp cấm kết hôn, trong đó có trường hợp vi phạm về thuần phong, mỹ tục tuy nhiên
vẫn thiếu hướng dẫn cụ thể, dẫn đến tình trạng cô dâu, chủ rể chênh lệch rất nhiều
tuổi; Nghị định 69/2006/NĐ-CP chỉ quy định Sở Tư pháp tiến hành phỏng vấn để làm
rõ sự tự nguyện kết hôn của các bên, mà không yêu cầu làm rõ khả năng giao tiếp
bằng ngôn ngữ chung, mức độ hiểu biết về hoàn cảnh của nhau,...; Pháp luật của một
số nước còn khá đơn giản và lỏng lẻo. Chẳng hạn, Hàn Quốc cho phép kết hôn có thể
vắng mặt một bên. Kẽ hở này đã làm nảy sinh hoạt động môi giới kết hôn với nhiều
hình thức trá hình, tinh vi để trục lợi, hoặc lợi dụng việc kết hôn để mua bán phụ nữ
qua biên giới; quy định về việc xác nhận tình trạng hôn nhân còn chưa chặt chẽ;…
Từ thực tế đó, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã khái quát hiện trạng của
phụ nữ Việt Nam lấy chồng nước ngoài được nhận dạng theo mô hình “4 không” và
8


“1 vì”. “4 không” là không biết văn hóa, luật pháp, ngôn ngữ; không biết hoàn cảnh
chồng tương lai; không biết mặt chồng tương lai và không có tình yêu. “1 vì” là vì
mục tiêu nhanh chóng thay đổi cuộc sống và tích lũy kinh tế.

Một số điểm bất cập nói trên đặt ra yêu cầu nghiên cứu tổng thể và kỹ càng hơn
quy định pháp luật Việt Nam về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
để bảo vệ những cuộc hôn nhân tự nguyện tiến bộ, ngăn chặn tình trạng vi phạm pháp
luật và bảo vệ hữu hiệu quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam sinh sống ở
nước ngoài.
2. Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước
ngoài, bên cạnh những lý do chính đáng như vì tình yêu, hạnh phúc, thì xã hội vẫn
còn tồn tại những cuộc hôn nhân vì mục đích kinh tế, vụ lợi.
Nguyên nhân chủ quan: Thực tế cho thấy đã có một bộ phận dân cư hình thành
quan điểm lệch lạc về mục đích, ý nghĩa của hôn nhân và gia đình, coi lấy chồng nước
ngoài là một giải pháp thoát nghèo, cải thiện kinh tế gia đình. Những phụ nữ kém hiểu
biết, trình độ văn hóa thấp dễ có ảo tưởng về cuộc sống đầy đủ khi kết hôn với người
nước ngoài. Do đó, theo thống kê, 3/4 số cô dâu đi lấy chồng người nước ngoài đều là
con của những gia đình có 5 con trở lên, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thiếu việc
làm, trình độ văn hóa thấp, thậm chí chưa biết chữ, có hoàn cảnh éo le.
Nguyên nhân khách quan: pháp luật Việt Nam vẫn còn nhiều kẽ hở như: pháp
luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài chưa đầy đủ; hệ thống phát luật nước ta
còn thiếu vắng những thỏa thuận hợp tác, Hiệp định tương trợ tư pháp với các nước
để tạo lập cơ chế hữu hiệu cho việc bảo hộ công dân Việt Nam kết hôn với người
nước ngoài và sinh sống tại nước ngoài; pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố
nước ngoài có những điểm còn khó khăn trong việc áp dụng; pháp luật về quan hệ
hôn nhân có yếu tố nước ngoài có những điểm chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống;
… Ngoài ra, các tổ chức xã hội cũng chưa quan tâm đúng mức vấn đề này, công tác tuyên
truyền, vận động, giáo dục còn kém hiệu quả.
3. Hậu quả
Việc phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài chủ yếu vì mục đích kinh tế
dẫn đến những tác động xấu đến xã hội. Việc kết hôn đó đã đẩy không ít cô gái thành
phương tiện để giúp bản thân và gia đình thoát nghèo; trình độ thấp nên dễ bị lợi
dụng; với mong muốn lấy chồng nước ngoài để được đổi đời nên gây tác động xấu,

tiêu cực về mặt đạo đức cho một lớp nữ thanh niên và trẻ em gái; những cuộc kết hôn
không thành công còn gây ra sự bất ổn cho xã hội về nhiều mặt như giải quyết hậu
quả đối với nạn nhân về tinh thần, tâm lý, thương tích trên thân thể; cuộc sống của trẻ
em bị ảnh hưởng, thiếu sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ; việc tổ chức xem mặt cô
dâu tại các nhà hàng, khách sạn đã ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, giá trị đạo đức
9


truyền thống của dân tộc; nhiều phụ nữ Việt Nam lấy chồng nước ngoài sẽ làm tăng
thêm tỷ lệ mất cân bằng giới tính ở độ tuổi kết hôn trong nước;…
V. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về việc kết hôn có yếu tố nước ngoài
1. Về phía gia đình: giáo dục gia đình, nếp sống và gia phong của mỗi nhà rất
quan trọng không chỉ với việc hình thành nhân cách của con cái, mà còn trang bị cho
con cái sự hiểu biết, bản lĩnh sống, khả năng thích ứng trước những biến động, rủi ro
của cuộc đời. Do đó, gia đình cần có những quan niệm đúng đắn, kiến thức nhất định
để giáo dục con cái, đặc biệt về việc kết hôn – việc ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống
tương lai của con cái họ.
2. Về phía xã hội: phát huy vai trò tích cực trong công tác dân vận của các tổ
chức xã hội như: Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội nông dân và các tổ chức đoàn thể
tại cộng đồng trong việc tuyên truyền, phổ biến sâu rộng pháp luật về hôn nhân và gia
đình có yếu tố nước ngoài, về sức khoẻ sinh sản và kế hoạch hoá gia đình; cảnh báo
về những hệ lụy của việc kết hôn với những người nước ngoài vì mục đích kinh tế
mang tính trào lưu thông qua môi giới trái phép; tạo điều kiện trang bị kiến thức mọi
mặt, kỹ năng nghề nghiệp việc làm để giảm nghèo, ổn định cho nữ thanh niên nông
thôn, miền núi; giúp đỡ các gia đình khó khăn và các cô gái có hoàn cảnh đặc biệt sau
ly hôn trở về trong nước sống hoà nhập cộng đồng..
Ngoài ra, cũng cần cung cấp hành trang cho các phụ nữ kết hôn với người nước
ngoài như: thông tin về thực trạng đời sống hôn nhân của những cô dâu Việt Nam ở
nước ngoài; đào tạo về việc làm vợ, làm dâu ở nước ngoài, với một số nội dung cơ
bản về Luật pháp, phong tục, tập quán của các vùng, miền của nước mà họ sẽ đến làm

dâu, về kỹ năng nội trợ, sử dụng các đồ dùng trong gia đình, về ngôn ngữ,…
3. Về phía nhà nước:
- Chính phủ cần nghiên cứu, sửa đổi các văn bản pháp luật hiện hành, thống nhất
về đăng ký, quản lý hộ tịch có yếu tố nước ngoài theo hướng đơn giản hóa quy trình,
giảm bớt các công đoạn trong quá trình giải quyết hồ sơ. Đồng thời, cũng cần củng cố
và hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên quan đến lĩnh vực hôn nhân, gia đình có
yếu tố nước ngoài. Trong đó, nên có quy định rõ ràng đối với việc ghi vào sổ hộ tịch
của công dân Việt Nam đã đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài; hướng
dẫn cụ thể việc cấp giấy chứng nhận kết hôn và giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã
tiến hành ở nước ngoài có còn phụ thuộc nhau hay không; quy định cụ thể trường hợp
kết hôn có yếu tố nước ngoài như thế nào là không phù hợp với thuần phong mỹ tục
của dân tộc để địa phương có cơ sở pháp lý từ chối đăng ký kết hôn theo quy định để
bảo đảm quan hệ hôn nhân hạnh phúc, lành mạnh, tiến bộ và bền vững. . Ngoài ra,
cũng cần thực hiện việc phân cấp và trao quyền chủ động cho Sở Tư pháp xem xét,
giải quyết các hồ sơ đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài.
10


- Bên cạnh đó, lãnh đạo các cơ quan tư pháp cũng không được xem nhẹ việc
nghiêm khắc yêu cầu cán bộ tự trau dồi, nâng cao trình độ và phải có biện pháp đối
với những cán bộ thụ động, máy móc trong xử lý công việc, ưu tiên lựa chọn cán bộ
chuẩn mực đạo đức, chuyên sâu nghiệp vụ, kiên quyết thuyên chuyển những cán bộ
kém phẩm chất. Nghị định 158/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 quy định danh mục các
vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi đối với cán bộ công chức viên chức.
Thực tế giải quyết việc kết hôn có yếu tố nước ngoài cũng cho thấy nhiều cán bộ lãnh
đạo có biểu hiện tiêu cực. Vì vậy, Nghị định 158 cũng cần phải sửa đổi, bổ sung theo
hướng cán bộ lãnh đạo (trưởng, phó phòng hộ tịch) cũng phải được định kỳ chuyển
đổi vị trí công tác.
Như vậy, hiện nay, vấn đề phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài nói
riêng và vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài nói chung vẫn còn tồn tại nhiều những

bất cập, làm xã hội xuất hiện những vấn đề phức tạp không dễ giải quyết. Việc có
những quy định pháp luật phù hợp, đúng đắn, chính xác là điều hết sức cần thiết, góp
phần bảo vệ quyền lợi cho công dân Việt Nam cũng như người nước ngoài trong việc
kết hôn, đồng thời, giảm thiểu tối đa những hậu quả không mong muốn do việc kết
hôn vì mục đích kinh tế, vụ lợi gây ra.

PHẦN KẾT LUẬN
Qua phần phân tích trên đây, chúng ta có thể nắm được một số nội dung cơ bản,
cả lý luận và thực tiễn, của vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài. Rõ ràng, pháp luật
Việt Nam có những quy định khá đầy đủ về việc kết hôn có yếu tố nước ngoài như:
nguyên tắc quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; điều kiện kết hôn
trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; thủ tục đăng ký kết hôn có
yếu tố nước ngoài;…Tuy nhiên, do thực tiễn cuộc sống có nhiều tình huống phức tạp,
nên vẫn còn tồn tại những kẽ hở pháp luật, tạo điều kiện cho hoạt động môi giới hôn
nhân bất hợp pháp phát triển cũng như những cuộc hôn nhân vì mục đích kinh tế,
không tuân thủ pháp luật.
Do đó, để góp phần hạn chế những bất cập trên đây, Đảng, Nhà nước, Chính
phủ, các cơ quan chức năng, các tổ chức xã hội cần hành động tích cực hơn nữa trong
việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật hôn nhân gia đình
cho phụ nữ nói chung và phụ nữ các vùng nông thôn, miền núi nói riêng. Đồng thời,
mỗi cá nhân, mỗi gia đình cũng cần chủ động trong công tác thoát nghèo, kế hoạch
hóa gia đình,…
11


12


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, Nxb. CAND, Hà

Nội, 2009
2. Luật hôn nhân và gia đình năm 1986
3. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010)
4. Bộ Luật Dân sự nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005
5. Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình
có yếu tố nước ngoài
6. Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân
và gia đình có yếu tố nước ngoài
7. Pháp luật Việt Nam về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, Lê Thị Hoàng
Thanh và Trương Hồng Quang, Tạp chí Luật học số tháng 9/2011
8. Một số website:
www.baodientu.chinhphu.vn
www.thuvienphapluat.vn
www.moj.gov.vn
www.luathoc.vn
www.giadinh.vn

13



×