Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tạm giam trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211 KB, 16 trang )

Mục Lục
Mục Lục............................................................................................................................................................................1
I. Những khái niệm cơ bản...........................................................................................................................................3
1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn ...........................................................................................................................3
2. Khái niệm tạm giam .............................................................................................................................................3
II. Biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự...............................................................................................................4
1.Mục đích áp dụng biện pháp tạm giam.................................................................................................................4
2.Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam............................................................................................................4
3.Thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam............................................................................................................5
4.Thủ tục áp dụng biện pháp tạm giam....................................................................................................................6
5.Chế độ tạm giam...................................................................................................................................................7
6.Những biện pháp bảo hộ của pháp luật đối với thân nhân và tài sản của người bị tạm giam. (Điều 90 BLTTHS)..7
7.Thời hạn tạm giam................................................................................................................................................7
8. Về biện pháp tạm giam trong thủ tục rút gọn....................................................................................................10
II. Thực trạng và hướng hoàn thiện pháp luật về biện pháp tạm giam.......................................................................11
1.Thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam.............................................................................................................11
2. Hướng hoàn thiện pháp luật về biện pháp tạm giam.........................................................................................12
Danh mục tài liệu tham khảo.........................................................................................................................................16

A. LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đã và đang xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân - một nhà nước mà ở đó, quyền con người được tôn trọng và bảo vệ không chỉ dừng lại ở
các tuyên bố chính trị, ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật mà còn được bảo vệ trong thực tế.
Điều đó thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống, trong đó có lĩnh vực tố tụng hình sự . Có thể
1


nói quyền con người trong tố tụng hình sự rất dễ bị xâm phạm, bị tổn hại khi nó tác động đến
quyền được sống, quyền tự do và sinh mệnh chính trị của một cá nhân thông qua biện pháp
cưỡng chế nhà nước. Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, biện pháp ngăn
chặn Tạm giam là biện pháp ngăn chặn được áp dụng khá phổ biến. Tạm giam có một vị trí đặc


biệt quan trọng và nghiêm khắc trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm, việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn ảnh hưởng to lớn đến cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, giải
quyết các nhiệm vụ của Tố tụng hình sự nói riêng đồng thời gắn liền với việc hạn chế các quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, nhất là các quyền tự do cá nhân đã được ghi nhận và bảo đảm
trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật về lĩnh vực tạm giam. Chính từ vị trí và vai trò đặc biệt
quan trọng của biện pháp tạm giam đã thúc đẩy em tìm hiểu, nghiên cứu về nó một cách chủ
động và sâu sắc hơn.
Sau một quá trình tìm hiểu, thu thập và chọn lọc thông tin, em xin trình bày những hiểu biết,
quan điểm của mình về đề tài “Tạm giam trong tố tụng hình sự”. Vì trình độ còn nhiều hạn chế
nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự chỉ bảo, giúp đỡ từ phía
quý thầy cô để em có thể hoàn thiện kiến thức của mình hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

B. NỘI DUNG
I. Những khái niệm cơ bản
1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn
Biện pháp ngăn chặn là một trong những biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp
dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố về hình sự bị bắt trong những trường hợp
2


khẩn cấp hoặc quả tang nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa
họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây cản trở cho việc điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án hình sự.
Việc quy định những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự có ý nghĩa rất lớn trong đảm
bảo việc đấu tranh, phòng chống tội phạm đạt hiệu quả cao.Bên cạnh đó, còn đảm bảo sự hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi, thể hiện sự chuyên chính của nhà nước.
Sử dụng biện pháp ngăn chặn nhằm đảm bảo sự dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của
công dân được hiến pháp quy định như : quyền tự do ngôn luận, quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, quyền tự do cư trú và đi lại... thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Từ mục đích trên, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn không thể áp dụng tràn lan, tuỳ tiện
mà khi áp dụng phải tuân theo những căn cứ nhất định và khi cần thiết mới áp dụng để ngăn
chặn tội phạm hoặc có dấu hiệu của tội phạm bỏ trốn, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét
xử hay tội phạm sẽ tiếp tục phạm tội, nhằm đảm bảo cho việc thi hành án.
Các biện pháp ngăn chặn trong Tố tụng hình sự bao gồm : bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi
khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
2. Khái niệm tạm giam
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng hay bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự
(BLHS) quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc
cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội (khoản 1 Điều 88 BLTTHS).
Tạm giam là một biện pháp ngăn chặn hình sự nghiêm khắc nhất, thể hiện ở chỗ nó tước đi
tự do của bị can, bị cáo ngay cả khi bản án kết tội của tòa án vẫn chưa ra đời và chưa có hiệu lực
pháp luật.Trong quá trình tiến hành tố tụng, để đảm bảo cho việc phát hiện, tìm ra kẻ phạm tội,
không để lọt kẻ phạm tội và phục vụ công tác xét xử người phạm tội được chính xác, nghiêm
minh, các cơ quan và những người có thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp tạm giam theo quy
định của pháp luật.
Tạm giam là biện pháp thể hiện sự bắt buộc của nhà nước đối với bị cán bị cáo, sự bắt buộc
đó thể hiện ở chỗ biện pháp tạm giam được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của
Nhà nước, do các cơ quan có chức năng thẩm quyền thực hiện. Mặt khác nó còn thể hiện việc
hạn chế các quyền tự do của người bị áp dụng biện pháp tạm giam trong một khoảng thời gian
3


nhất định. Từ đó, biện pháp tạm giam trong Tố tụng hình sự đã thể hiện tính chất ngăn chặn một
cách rõ nét.
Khi áp dụng biện pháp tạm giam, mục đích là để ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội và
ngăn chặn tội phạm có thể xảy ra, phục vụ cho việc đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả
cao. Vì là biện pháp ngăn chặn có tính nghiêm khắc nhất nên những người áp dụng pháp luật

càng cần phải cẩn trọng khi áp dụng trong thực tế từng vụ án cụ thể.
II. Biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự
1.Mục đích áp dụng biện pháp tạm giam.
Tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các giai đoạn khác nhau của tố tụng
hình sự. Vì vậy, ngoài việc có mục đích chung của biện pháp ngăn chặn là ngăn chặn không để
bị can, bị cáo có điều kiện tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ
án thì ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định, việc áp dụng biện pháp tạm giam còn có mục đích riêng
nhằm đảm bảo thực hiện tốt chức năng tố tụng của cơ quan áp dụng.
2.Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam.
Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo. Những người không
phải là bị can, bị cáo thì không bị áp dụng biện pháp tạm giam. Theo quy định tại khoản 1 Điều
88 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS) thì tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị
cáo trong những trường hợp sau đây:
- Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng;
- Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình
phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy
tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội mới.
Tiếp đó tại khoản 2 Điều 88 lại quy định riêng đối với bị can, bị cáo là “phụ nữ có thai hoặc
đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú rõ
ràng” thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác trừ những trường hợp sau vẫn
bị xem xét áp dụng biện pháp tạm giam:
- Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
- Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý
gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
- Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không
tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
4


Như vậy, có thể thấy rằng biện pháp tạm giam theo quy định của pháp luật tố tụng Việt Nam

chỉ được áp dụng đối với bị can, bị cáo (tức là trong cả ba giai đoạn: điều tra, truy tố, xét xử).
BLTTHS quy định việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội
tại một điều khoản riêng trong chương XXXII BLTTHS(Thủ tục tố tụng đối với người chưa
thành niên). Cụ thể Điều 303 BLTTHS quy định:
“1. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ
quy định tại các Điều 80,81,82,86,88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường
hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ
quy định tại các Điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường
hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng.
3. Cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phải thông báo cho gia
đình, người đại diện hợp pháp của họ biết ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm giam.”
Việc quy định một điều khoản riêng về tạm giam đối với đối tượng là người chưa thành niên
phạm tội là một việc làm cần thiết, phù hợp với quy định chung của pháp luật là bảo vệ quyền
của người chưa thành niên, thể hiện tính nhân đạo trong pháp luật nước ta.
3.Thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam.
Theo Khoản 3 Điều 88 BLTTHS “Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt được quy định
tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam”. Như vậy, theo Điều 80 BLTTHS thì
những người sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
- Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp;
- Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp;
- Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao;
Hội đồng xét xử;
- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp (có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát
cùng cấp).
Theo đó, pháp luật Việt Nam trao thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam cho những người
có thẩm quyền ở ba cơ quan: Viện kiểm sát, Tòa án, Cơ quan điều tra. Đây cũng chính là ba cơ
quan tiến hành tố tụng trong hoạt động tố tụng được quy định trong BLTTHS.


5


4.Thủ tục áp dụng biện pháp tạm giam.
Trong pháp luật tố tụng, những người có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam sẽ ra lệnh
bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Khoản 2 Điều 80 BLTTHS quy định “Lệnh bắt phải ghi rõ ngày,
tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh bắt, họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt.
Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và có đóng dấu. Người thi hành lệnh bắt phải đọc
lệnh, giải thích lệnh, quyền nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt”. Đồng
thời, khi tiến hành bắt người phải có sự chứng kiến của chính quyền địa phương hoặc cơ quan, tổ
chức nơi người đó làm việc. Chú ý không được bắt người vào ban đêm, trừ những trường hợp
đặc biệt (khoản 3 Điều 80 BLTTHS). Khoản 4 Điều 88 BLTTHS quy định “Cơ quan ra lệnh
tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình của
người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị
tạm giam cư trú hoặc làm việc biết”.
Như vậy, sau khi ra lệnh tạm giam, Cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của
người bị tạm giam nhằm xác định chính xác đối tượng cần tạm giam, tránh trường hợp nhầm lẫn.
Đồng thời phải thông báo cho gia đình người bị tạm giam và chính quyền xã, phường, thị trấn và
cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú và làm việc biết nằm mục đích giúp họ biết việc gì
đã xảy ra với người thân của họ, tránh việc họ phải tiến hành tìm kiếm gây tốn kém.
Một bất cập trong vấn đề thủ tục áp dụng biện pháp tạm giam hiện nay là theo quy định tại
khoản 4 Điều 88 BLTTHS những vấn đề về thủ tục áp dụng biện pháp tạm giam chưa được quy
định một cách đầy đủ; đặc biệt là chưa có quy định cụ thể về những vấn đề cơ bản mà một quyết
định hay lệnh tạm giam cần phải có, dẫn đến sự áp dụng không thống nhất trên thực tế. Do đó,
gây khó khăn cho Viện kiểm sát khi quyết định phê chuẩn lệnh tạm giam của cơ quan điều tra,
cũng như khi kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giam của Tòa án trong những trường hợp mẫu
lệnh tạm giam do Bộ công an ban hành, mẫu lệnh tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
ban hành và mẫu lệnh tạm giam, quyết định tạm giam do Tòa án nhân dân tối cao ban hành có
những phần không thống nhất về hình thức và nội dung văn bản.
5.Chế độ tạm giam.

Tạm giam không phải là hình phạt mà là một biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự.
Việc áp dụng biện pháp tạm giam không phải nhằm trừng trị người phạm tội mà là để ngăn chặn

6


tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án của người phạm
tội. Vì vậy, Điều 89 BLTTHS đã quy định rõ rằng:
“Chế độ tạm giữ, tạm giam khác với chế độ người đang chấp hành hình phạt tù.
Nơi tạm giữ, tạm giam, chế độ sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình và các chế độ khác
được thực hiện theo quy định của Chính phủ”.
6.Những biện pháp bảo hộ của pháp luật đối với thân nhân và tài sản của người bị tạm giam.
(Điều 90 BLTTHS)
Khi áp dụng biện pháp tạm giam, nếu người bị tạm giam có con chưa thành niên dưới 14
tuổi hoặc người thân thích là người tàn tật, già yếu mà không có người chăm sóc thì cơ quan ra
lệnh tạm giam giao những người đó cho người thân thích chăm nom. Trường hợp người bị tạm
giam không có người thân thích thì cơ quan ra lệnh tạm giam giao cho những người đó cho
chính quyền sở tại chăm nom. Trong trường hợp người bị tạm giam có nhà hoặc tài sản khác mà
không có người trông nom bảo quản thì cơ quan đã ra lệnh tạm giam phải áp dụng những biện
pháp trông nom, bảo quản thích đáng.
Sau khi áp dụng những biện pháp bảo hộ đối với thân nhân và tài sản, cơ quan đã ra lệnh tạm
giam có trách nhiệm phải thông báo cho người bị tạm giam biết những biện pháp đã được áp
dụng để bảo hộ nhân thân và tài sản của họ.
7.Thời hạn tạm giam.
Theo quy định của BLTTHS thì tạm giam được áp dụng trong các giai đoạn tố tụng hình sự:
điều tra, truy tố, xét xử. Thời hạn tạm giam bị can, bị cáo được quy định theo nhiều căn cứ khác
nhau phụ thuộc vào nhiều giai đoạn tố tụng để bảo đảm cho cơ quan tố tụng thực hiện tốt nhiệm
vụ của mình.
Theo quy định của BLTTHS thời hạn tạm giam không được quy định tập trung ở một số
điều luật mà được quy định tách rời theo từng giai đoạn của quá trình tố tụng.


 Thời hạn tạm giam để điều tra quy định tại Điều 120 BLTTHS:
“1.Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm
trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội
phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
2.Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho
việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là
7


mười ngày trước khi hết hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát
gia hạn tạm giam.”
Việc gia hạn tạm giam được quy định như sau:
+ Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá một
tháng;
+ Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không
quá hai tháng và lần thứ hai không quá một tháng;
+ Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất
không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng;
+ Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần
không quá bốn tháng.”

 Thời hạn tạm giam để truy tố
Khoản 2 Điều 166 BLTTHS quy định: “Thời hạn tạm giam không được quá thời hạn quy
định tại khoản 1 Điều này” tức là thời hạn tạm giam để truy tố là trong thời hạn hai mươi ngày
đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, ba mươi ngày đối với tội phạm rất
nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng.
Trong trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn tạm giam theo quy
định của pháp luật đối với từng loại tội phạm, cụ thể:
+ Không quá mười ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng;

+ Không quá mười lăm ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng;
+ Không quá ba mươi ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
 Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử sơ thẩm
Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử sơ thẩm được quy định tại Điều 177 BLTTHS: “Thời
hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 176
của Bộ luật này” tức là thời hạn tạm giam để xét xử sơ thẩm cụ thể đối với từng loại tội phạm
như sau: “Trong thời hạn ba mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày
đối với tội phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Đối với những vụ án có tính chất phức tạp, Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời
hạn tạm giam, cụ thể: không quá mười lăm ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm
nghiêm trọng, không quá ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng.
8


Ngoài ra, đối với bị cáo đang bị tạm giam và đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã
hết, nếu xét thấy cần thiết thì tòa án có thể ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa.
 Thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm: Theo quy định tại Điều 243 BLTTHS “Thời hạn
tạm giam không được quá thời hạn xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 242 của Bộ luật này.”
 Thời hạn tạm giam để bảo đảm thi hành án
Ngay sau khi xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm, hội đồng xét xử có thể quyết định việc tạm
giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án. Đối với giai đoạn xét xử sơ thẩm Điều 228 BLTTHS
quy định bắt tạm giam bị cáo sau khi tuyên án:
“1. Đối với bị cáo đnag bị tạm giam mà bị phạt tù nhưng đến ngày kết thúc phiên tòa thời
hạn tạm giam đã hết thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án,
trừ trường hợp được quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 227 của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp bị cáo không bị tạm giam nhưng bị phạt tù thì họ chỉ bị bắt tạm giam
để chấp hành hình phạt khi bản án đã có hiệu lực pháp luật. Hội đồng xét xử có thể ra quyết
định bắt tạm giam ngay bị cáo nếu có căn cứ cho thấy bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội.

3. Thời hạn tạm giam bị cáo quy định ại khoản 1 và khoản 2 Điều này là bốn mươi lăm
ngày, kể từ ngày tuyên án.
…”
Khoản 2, khoản 3 Điều 243 quy định Việc Tòa án cấp phúc thẩm có quyền áp dụng thay đổi
hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn để đảm bảo thi hành án:
“2. Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết,
nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì Tòa án ra lệnh tạm giam cho
đến khi kết thúc phiên tòa.
3. Đối với bị cáo đang bị tạm giam bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn
tạm giam đã hết thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án,
trừ trường hợp được quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 227 của Bộ luật này.
Đối với bị cáo không bị tạm giam, nhưng bị xử phạt tù thì Hội đồng xét xử có thể ra quyết
định bắt tạm giam bị cáo ngay sau khi tuyên án, trừ các trường hợp quy định tại Điều 261 của
Bộ luật này.”
Như vậy, ta thấy rằng thời hạn tạm giam và gia hạn tam giam đa phần đều được xác định
theo cách phân loại tội phạm trong BLHS. Theo em, điều này là rất hợp lí, hữu ích cho những
người áp dụng pháp luật để họ có thể có những quyết định đúng đắn, nhanh chóng, chính xác đối
với từng trường hợp phạm tội cụ thể trong thực tế. Đồng thời việc gia hạn thời hạn tạm giam và
số lần gia hạn tạm giam cũng được quyết định căn cứ vào việc vụ án đó thuộc thẩm quyền giải
9


quyết của cấp Tòa án nào. Như vậy, sẽ có sự phân nhiệm rõ ràng, tránh chồng chéo trong thủ tục
tố tụng.
Ngoài ra, pháp luật tố tụng còn có quy định những thời hạn được tính vào thời hạn tạm giam
tại khoản 4 Điều 87 BLTTHS:“Thời hạn tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm
giữ được tính bằng một ngày tạm giam.”
Tuy nhiên, cần nhận thấy rằng một hạn chế làpháp luật nước ta vẫn chưa quy định các
trường hợp khác như: Thời gian bắt buộc chữa bệnh, thời gian bị bắt giam trên lãnh thổ nước
khác,… là những thời hạn được trừ vào thời hạn tạm giam. Như vậy, các nguyên tắc cơ bản của

luật tố tụng hình sự (nguyên tắc nhân đạo, công minh) vẫn chưa được thực thi một cách triệt để.
8. Về biện pháp tạm giam trong thủ tục rút gọn
Theo quy định tại Điều 322 khoản 3 của Bộ luật tố tụng hình sự quy định về thời hạn tạm
giam trong giai đoạn điều tra, truy tố theo thủ tục rút gọn thì "thời hạn tạm giam để điều tra,
truy tố không được quá mười sáu ngày".
Theo quy định này, luật không quy định rõ trong mười sáu ngày đó thời hạn tạm giam để
điều tra là bao nhiêu ngày, thời hạn tạm giam để truy tố là bao nhiêu ngày, Cơ quan điều tra ra
lệnh tạm giam cho cả mười sáu ngày hay ở giai đoạn tố tụng nào thì cơ quan tố tụng đó ra lệnh
tạm giam, vì vậy dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau trong quá trình áp dụng.
Theo quan điểm của cá nhân em, mặc dù khoản 3 Điều 322 chỉ quy định quy định chung
"thời hạn tạm giam để điều tra, truy tố không được quá 16 ngày", nhưng khi áp dụng biện pháp
tạm giam Cơ quan điều tra chỉ được đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh tạm giam bị can mười
hai ngày (tính cả ba ngày tạm giữ). Khi hồ sơ chuyển sang giai đoạn truy tố, nếu lệnh tạm giam
của Cơ quan điều tra đã hết mà xét thấy cần thiết phải tạm giam thì Viện kiểm sát phải trực tiếp
ra lệnh tạm giam bốn ngày trong thời hạn truy tố. Về mặt căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng
vẫn được thực hiện theo trình tự thông thường mà BLTTHS quy định (khoản 1 Điều 322
BLTTHS). Hồ sơ ở giai đoạn tố tụng nào thì cơ quan tố tụng đó ra lệnh tạm giam. Với cách hiểu
như vậy, ở giai đoạn tố tụng nào thì cơ quan tố tụng đó ra lệnh tạm giam, phù hợp với tính chất,
nội dung công việc từng giai đoạn tố tụng.

10


II. Thực trạng và hướng hoàn thiện pháp luật về biện pháp tạm giam
1.Thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam.
Nhìn chung, tiến độ giải quyết án từ điều tra, truy tố đến xét xử được các cơ quan tiến hành
tố tụng giả quyết cơ bản trong hạn luật định, nhiều địa phương đã quan tâm giải quyết dứt điểm
án tồn đọng có bị can, bị cáo bị tạm giam kéo dài. Chất lượng xử lí trong tạm giam được nâng
cao, các trường hợp tạm giam rồi đình chỉ điều tra giảm nhiều, số người tạm giam bị Tòa án các
cấp xét xử rồi tuyên phạt mức hình phạt bằng hoặc ngắn hơn thời hạn tạm giam cũng giảm. Viện

kiểm sát các cấp trả tự do theo khoản 6 Điều 23 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1992 cho
những người bị tạm giam không có căn cứ pháp luật cũng giảm dần.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy việc lạm dụng
các biện pháp ngăn chặn, nhất là lạm dụng việc bắt, tạm giữ, tạm giam trong quá trình tố tụng
vẫn còn. Đã xảy ra nhiều trường hợp tạm giam không có căn cứ, để quá hạn tạm giam hoặc hết
thời hạn điều tra nhưng vẫn không chứng minh được người bị tạm giam đã thực hiện hành vi
phạm tội hay không.
Theo thống kê năm 2005, tổng người gia hạn tạm giam là 1.371 người trong đó có 355 người
quá hạn thuộc trách nhiệm của Cơ quan điều tra, 147 người quá hạn thuộc trách nhiệm của Viện
kiểm sát, 869 người quá hạn thuộc trách nhiệm của Tòa án.
Bên cạnh đó, cũng còn có những tồn tại trong công tác quản lý tạm giam. Năm 2005 có tới
95 người trốn được khỏi trại tạm giam, 124 người chết trong trại tạm giam ( 54 người chết do tự
sát và 17 người chết do đánh nhau).
Nguyên nhân của những tồn tại trên có thể kể đến như:
- Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác tạm giam còn kém. Hiện tại trên cả nước, thực tế các
trại giam ở trong tình tạng xuống cấp và quá tải.
- Về công tác áp dụng tạm giam: thực tế áp dụng biện pháp tạm giam còn nhiều hạn chế, còn
vướng mắc và tồn tại, phổ biến nhất là vướng mắc trong việc áp dụng các quy định về thời hạn
tạm giam, thẩm quyền phê chuẩn tạm giam.
Vì những nguyên nhân trên, việc hoàn thiện pháp luật về biện pháp tạm giam là vô cùng cần
thiết nhằm tránh gây thiệt hại về quyền và lợi ích hợp pháp của những người bị áp dụng biện
pháp này trong thực tế.
11


2. Hướng hoàn thiện pháp luật về biện pháp tạm giam
Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã
xác định một trong những nhiệm vụ của cải cách tư pháp là: “Xác định rõ căn cứ để tạm giam;
hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm; thu hẹp đối tượng người
có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp tạm giam”.

Trước những đòi hỏi của thực tế và để thực hiện nhiệm vụ trên, chúng ta phải rà soát lại các
quy định của BLTTHS hiện hành, xác định những điểm bất hợp lý để quy định chặt chẽ hơn các
căn cứ, điều kiện áp dụng biện pháp tạm giam và thu hẹp một cách hợp lý thẩm quyền ra quyết
định biện pháp tạm giam.
2.1.Về căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam.
Cùng với căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung được quy định tại Điều 79 thì Điều
88 và Điều 303 BLTTHS quy định về các điều kiện để tạm giam. Xem xét các quy định này có
thể thấy một số điểm chưa phù hợp:
- Thứ nhất, theo quy định tại khoản 1 Điều 88 BLTTHS, tạm giam có thể đươc áp dụng đối
với bị can, bị cáo trong trường hợp bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất
nghiêm trọng. Về nguyên tắc, việc có áp dụng tạm giam trong trường hợp bị can, bị cáo phạm tội
đặc biệt nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng hay không, phải căn cứ vào cả quy định
tại Điều 79 BLTTHS. Tuy nhiên, vì Điều 79 BLTTHS là quy định về những căn cứ chung để áp
dụng cho tất cả các biện pháp ngăn chặn nên thông thường người áp dụng pháp luật chỉ dựa vào
Điều 88 BLTTHS để xác định có quyết định tạm giam đối với bị can, bị cáo hay không. Trên
thực tế, nhiều trường hợp khi xem xét, quyết định việc tạm giam người phạm tội khó có thể xác
định chính xác người đó phạm tội rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng không ( thường thì
việc xác định chính xác phải trải qua quá trình điều tra, chứng minh, xác định sự thật khách quan
của vụ án). Ngay cả trong trường hợp tại thời điểm xem xét, quyết định việc tạm giam đã xác
định được chính xác một người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng,
nhưng nếu không có căn cứ để cho rằng người đó có thể sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy
tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc sẽ bỏ trốn, thì cũng không cần thiết phải tạm giam. Như
vậy, nếu coi một người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng là điều

12


kiện để có thể tạm giam thì có thể xảy ra những trường hợp lạm dụng quy định này để tạm giam
cả đối với người không cần thiết phải tạm giam.
- Thứ hai, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 88 BLTTHS, tạm giam có thể được áp

dụng đối với bị can, bị cáo trong trường hợp bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít
nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có
thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Quy định này
cần được xem xét lại vì vào thời điểm xem xét, tạm giam một người có thể chưa xác định được
tính chất tội phạm mà người đó thực hiện là tội phạm gì. Trường hợp đã xác định được chính xác
một người phạm tội ít nghiêm trọng, nhưng BLHS quy định hình phạt tù từ hai năm tù trở xuống
và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể
tiếp tục phạm tội và không thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác, thì theo quy định tại điểm
b khoản 1 Điều 88 BLTTHS, cũng không thể áp dụng biện pháp tạm giam. Đây là quy định
không phù hợp vì gây khó khăn cho việc điều tra và giải quyết vụ án, nhất là đối với những
trường hợp người phạm tội không có nơi cư trú, làm việc ổn đinh hoặc không xác định được nơi
cư trú, làm việc của người phạm tội.
- Thứ ba, theo quy định tại khoản 2 Điều 303 BLTTHS, người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi
có thể bị tạm giam trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm
trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Quy định này cũng cần được xem xét lại vì tại thời
điểm xem xét, quyết định tạm giam một người, cơ quan có thẩm quyền khó có thể xác định
chính xác ngay tính chất tội phạm mà người đó đã thực hiện.
Trong trường hợp xác định được chính xác tính chất tội phạm mà người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi thực hiện không thuộc trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất
nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn
hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội và không thế áp dụng các
biện pháp ngăn chặn khác, thì theo quy định tại khoản 2 Điều 303 cũng không thể áp dụng biện
pháp tạm giam. Đây là điều không phù hợp. Trên thực tế, đã xảy ra những trường hợp người từ
đủ 16 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng do cố ý hoặc tội nghiêm
trọng do vô ý, ví dụ như phạm tội cố ý gây thương tích (khoản 1 Điều 104 BLHS), tội trộm cắp
tài sản (khoản 1 Điều 138 BLHS), tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (khoản 1 Điều 139 BLHS),…
13


Đối với những trường hợp này, mặc dù xác định được người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi

không có nơi cư trú, làm việc ổn định hoặc không xác định được nơi cư trú, làm việc của người
phạm tội và có căn cứ cho rằng người đó có thể người đó trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố,
xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội và cũng không thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác thì
các cơ quan tiến hành tố tụng cũng không thể áp dụng biện pháp tạm giam với họ.
Như vậy, vấn đề đặt ra là do hạn chế của của các quy định của BLTTHS mà nhiều trường
hợp người phạm tội không thể bị áp dụng bất cứ biện pháp ngăn chặn nào, họ phạm tội nhưng
vẫn ở ngoài xã hội và có thể tiếp tục phạm tội. Việc không áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối
với họ cũng đã gây không ít khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án mà bị can, bị cáo
thuộc các đối tượng người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Từ những phân tích trên, các quy định về tạm giam trong BLTTHS cần được xem xét lại, bổ
sung theo hướng sau:
- Thứ nhất, không nên dựa trên cách phân loại tội phạm tại Điều 8 BLHS để quy định điều
kiện áp dụng biện pháp tạm giam. Về nguyên tắc, người phạm tội đủ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự theo quy định tại Điều 12 BLHS thì đều có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn nếu có căn cứ
quy định tại Điều 79 BLTTHS, trong đó có biện pháp tạm giam.
- Thứ hai, để hạn chế việc áp dụng tạm giam, cần quy định chặt chẽ hơn các căn cứ để tạm
giam, nhưng về nguyên tắc không được làm nản lòng các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc
giải quyết các vụ án hình sự. Theo đó, chỉ được ra quyết định tạm giam trong trường hợp có căn
cứ chứng tỏ bị can, bị cáo có thể trốn hoặc sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc
sẽ tiếp tục phạm tội và không thể áp dụng biện pháp ngăn chặn ít nghiêm khắc hơn với họ. Trong
trường hợp bị can, bị cáo đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác mà vi phạm nghĩa vụ đã cam
kết thì có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam (bảo đảm sự phù hợp, tính đồng bộ với các quy
định về các biện pháp ngăn chặn khác).
- Thứ ba, sửa đổi, bổ sung căn cứ, điều kiện áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác ngoài
biện pháp tạm giam để có thể mang tính khả thi, thay thế được biện pháp tạm giam.
2.2.Về thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam và ra lệnh tạm giam.
Trong số các biện pháp ngăn chặn thì biện pháp tạm giam là biện pháp nghiêm khắc nhất, nó
tác động đến một trong những quyền cơ bản nhất của công dân là quyền tự do về thân thể. Pháp
14



luật tố tụng hình sự nước ta cũng như nhiều nước khác đều quy định đối tượng được quyền quyết
định áp dụng biện pháp này rất hạn chế (nhiều nước quy định việc có áp dụng biện pháp tạm
giam hay không phải được đưa ra Tòa án xét xử và quyết định).
Theo quy định tại khoản 1 Điều 80 và khoản 3 Điều 88 BLTTHS, những người có thẩm
quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam và ra lệnh tạm giam bao gồm cả Thủ trưởng, Phó
Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án, Phó
Chánh án Tòa án các cấp. Tuy nhiên, quy định phạm vi chủ thể được ra lệnh tạm giam như vậy
là quá rộng. BLTTHS cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng thu hẹp phạm vi đối tượng chủ thể
được ra lệnh tạm giam.
Trong giai đoạn điều tra, việc ra lệnh bắt bị can để tạm giam và ra lệnh tạm giam chỉ nên
giao cho Viện trưởng Viện kiểm sát. Thay vì việc Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra
có quyền ra lệnh bắt bị can để tạm giam và ra lệnh tạm giam như quy định của BLTTHS hiện
hành thì chỉ nên quy định cho các chủ thể này có nghĩa vụ thu thập các tài liệu, chứng cứ để đề
nghị Viện trưởng Viện kiểm sát ra quyết định bắt bị can để tạm giam và ra lệnh tạm giam. Vì
biện pháp tạm giam là biện pháp ngăn chặn đặc biệt nên cũng không nên giao cho Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát được quyền ra lệnh bắt bị can để tạm giam và ra lệnh tạm giam mà chỉ nên
giao thẩm quyền này cho Viện trưởng Viện kiểm sát. Chỉ trong trường hợp Viện trưởng Viện
kiểm sát vắng mặt thì một Phó Viện trưởng được Viện trưởng ủy nhiệm mới được được quyền ra
lệnh bắt bị can để tạm giam và ra lệnh tạm giam.
Trong giai đoạn hồ sơ vụ án chuyển Tòa án chuẩn bị xét xử thì chỉ nên quy định cho Thẩm
phán giữ chức vụ Chánh án Tòa án các cấp và Chánh tòa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao
được quyền ra lệnh bắt bị cáo để tạm giam và ra lệnh tạm giam. Tại phiên tòa xét xử, thẩm
quyền này thuộc về Hội đồng xét xử.

C. KẾT LUẬN
Biện pháp tạm giam đã và đang chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống các biện pháp
ngăn chặn được quy định trong BLTTHS. Để phục vụ có hiệu quả cho cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm đang ngày càng diễn biến một cách phức tạp và tinh vi hơn, đòi hỏi cần phải tiếp
tục hoàn thiện hơn nữa pháp luật về biện pháp tạm giam nói riêng và những quy định của

BLTTHS nói chung
15


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà
Nội, 2010.
2. Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001.
3. Võ Khánh Linh (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003,
Nxb.CAND, Hà Nội, 2004.
4. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
5. Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
6. Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020.

16



×