Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tạm giam trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.54 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU.
II. NỘI DUNG CHÍNH.
1. Khái quát chung về BPNC tạm giam.
1.1.Khái niệm.
1.2.Ý nghiã.
2. BPNC tạm giam theo quy định của pháp luật TTHSVN hiện hành.
2.1.Đối tượng bị tạm giam.
2.2.Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.
2.3.Thẩm quyền ra lệnh tạm giam.
2.4.Thủ tục tạm giam.
2.5.Thời hạn tạm giam.
2.6.Một số quy định chung khác về tạm giam.
3. Thực trạng tình hình tạm giam, những bất cập, tồn tại, nguyên nhân và giải
pháp.
3.1.Thực trạng.
3.1.1. Những kết quả đạt được.
3.1.2. Những khó khăn, bất cập.
3.2.Nguyên nhân của những khó khăn, bất cập.
3.3.Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC tạm giam.
III. KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Một số cụm từ viết tắt.
BPNC : Biện pháp ngăn chặn BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
VKS : Viện kiểm sát CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng
CQĐT: Cơ quan điều tra TA : Tòa án
BÀI LÀM
I. MỞ ĐẦU.
Trong hệ thống các BPNC được quy định trong BLTTHS, tạm giam là BPNC có tính
cưỡng chế nghiêm khắc nhất và có tầm quan trọng đặc biệt. Việc áp dụng BPNC này
tạo điều kiện thuận lợi cho các CQTHTT trong việc giải quyết các vụ án, ngăn chặn


bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội. Tuy nhiên thực tế cho thấy việc áp dụng
chế định tạm giam còn nhiều vướng mắc cần được tháo gỡ, khắc phục. Nhận thức
1
được ý nghĩa và tầm quan trọng của chế định tạm giam trong TTHS cùng với mong
muốn tìm hiểu thêm vấn đề này, em đã chọn để tài: “Tạm giam trong tố tụng hình sự
và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này”.
II. NỘI DUNG CHÍNH.
1. Khái quát chung về BPNC tạm giam.
1.1. Khái niệm.
Căn cứ vào Điều 88 BLTTHS 2003 có thể đưa ra khái niệm về BPNC tạm giam như
sau: Tạm giam là BPNC do CQĐT, VKS hoặc Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc bị can, bị cáo phạm
tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai
năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét
xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội và người phạm tội quả tang bị bắt trong trường hợp
khẩn cấp nhằm mục đích ngăn chặn bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc cản trở việc điều tra,
truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
1.2. Ý nghĩa.
Với ý nghĩa là một BPNC, tạm giam có ý nghĩa rất lớn trong việc đấu tranh phòng và
chống các loại tội phạm cũng như việc bảo đảm các quyền tự do dân chủ của công
dân. Cụ thể:
Thứ nhất, tạm giam góp phần nâng cao hiệu lực quản lí nhà nước, củng cố tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự kiên quyết của nhà nước trong việc đấu
tranh phòng chống tội phạm. Với việc áp dụng biện pháp tạm giam sẽ đảm bảo cho
trật tự xã hội được ổn định, pháp luật được giữ vững, chế độ xã hội chủ nghĩa được
bảo vệ, các quyền cũng như lợi ích hợp pháp của công dân được tôn trọng.
Thứ hai, tạm giam là biện pháp hữu hiệu bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án đạt hiệu quả cao nhất. Bởi đây là biện pháp đảm bảo sự có mặt của
bị can, bị cáo theo Giấy triệu tập của CQTHTT, đảm bảo sự chính xác, khách quan
của hoạt động tố tụng, ngăn ngừa các đối tượng tiếp tục phạm tội hoặc tìm cách xóa

bỏ dấu vết phạm tội, chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án. Ngoài ra, tạm giam còn
đảm bảo cho việc thi hành án đúng pháp luật và hiệu lực của bản án đã được tuyên.
Thứ ba, tạm giam tạo cơ sở pháp lí vững chắc nhằm đảm bảo sự tôn trọng các quyền
cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận. Đảm bảo không một
công dân nào có thể bị tạm giam trái pháp luật, khi bị áp dụng biện pháp tạm giam
không đúng luật định công dân có quyền khiếu nại đến các chủ thể có thẩm quyền.
Thứ tư, tạm giam thể hiện tính ưu việt của nhà nước ta. Đó là biện pháp đảm bảo cho
mọi công dân được sống trong một xã hội mà quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi
người được tôn trọng và bảo vệ, tránh được sự tấn công xâm hại từ phía các đối
tượng nhất định, bảo đảm cho mọi người dân yên tâm sinh sống, học tập, làm việc,
tham gia vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu quả cao nhất.
2
2. BPNC tạm giam theo quy định của pháp luật TTHSVN hiện hành.
2.1. Đối tượng bị tạm giam.
Khoản 1 Điều 88 BLTTHS quy định: “1. Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị
can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;
b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS
quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn
hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội”.
Theo quy định trên thì đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam chỉ có thể là
bị can, bị cáo. Bị can là những người đã bị khởi tố về hình sự (khoản 1 Điều 49
BLTTHS 2003), tức là những người đã có quyết định khởi tố bị can về một tội phạm
cụ thể trong BLHS. Còn bị cáo là những người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử
(khoản 1 Điều 50 BLTTHS 2003). Tuy nhiên không phải tất cả bị can, bị cáo đều bị
áp dụng biện pháp tạm giam mà chỉ áp dụng biện pháp tạm giam đối với họ trong hai
trường hợp sau:
- Trường hợp thứ nhất: Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất
nghiêm trọng. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn
cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm

tù, tù chung thân hoặc tử hình; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại
rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười
lăm năm tù (khoản 3 Điều 8 BLHS 1999). Nếu bị can, bị cáo thuộc những trường hợp
này, những người có thẩm quyền ra lệnh tạm giam có thể tạm giam ngay mà không
cần có thêm căn cứ khác.
- Trường hợp thứ hai: Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng
mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể
trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Theo quy
định của BLTTHS, tạm giam chỉ áp dụng đối với những bị can, bị cáo phạm tội ít
nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm. Đối với bị can, bị cáo
phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù từ hai năm trở xuống hoặc
hình phạt khác không phải là hình phạt tù thì không bị áp dụng BPNCTG. Nếu cần
thiết, CQTHTT có thể áp dụng BPNC khác như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Trong trường hợp bị can, bị cáo phạm tội
nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định tù trên hai năm, để tạm
giam họ cần phải có thêm điều kiện thứ hai, đó là có căn cứ cho rằng bị can, bị cáo có
thể bỏ trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Để có thể xác định được thế nào là có căn cứ cho rằng bị can, bị cáo có thể bỏ trốn
hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội, chúng ta phải căn cứ
3
vào nhân thân bị can, bị cáo, thái độ của họ sau khi phạm tội hoặc những vi phạm
nghĩa vụ của bị can, bị cáo khi được áp dụng BPNC khác ít nghiêm khắc.
Thể hiện tinh thần nhân đạo xã hội chủ nghĩa khoản 2 Điều 88 BLTTHS 2003 quy
định những trường hợp không áp dụng BPNC tạm giam bao gồm:
+) Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi;
+) Bị can, bị cáo là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng.
Tuy vậy những đối tượng này có thể bị áp dụng BPNC tạm giam trong những trường
hợp đặc biệt đó là:
+) Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
+) Bị can, bị cáo được áp dụng BPNC khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây

cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
+) Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu
không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Với quy định này, BLTTHS ở nước ta đã thể hiện khá rõ nguyên tắc nhân đạo xã hội
chủ nghĩa, tôn trọng quyền con người, bảo vệ quyền trẻ em. Với điều kiện sinh hoạt
trong các trại giam thì không thể đảm bảo những nhu cầu thiết yếu của phụ nữ mang
thai, phụ nữ nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, người già yếu và người bị bệnh
nặng. Hơn nữa trong những trường hợp này thì bị can, bị cáo đã có nơi cư trú rõ ràng,
nếu họ không thuộc các trường hợp đặc biệt kể trên, các CQTHTT có thể áp dụng
BPNC khác để đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của
CQTHTT.
2.2. Căn cứ áp dụng BPNC tạm giam.
BLTTHS 2003 không trực tiếp quy định các căn cứ áp dụng BPNC tạm giam mà chỉ
quy định các căn cứ áp dụng BPNC nói chung. Điều 79 BLTTHS 2003 quy định các
căn cứ áp dụng BPNC bao gồm:
- Để kịp thời ngăn chặn tội phạm.
- Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy
tố, xét xử.
- Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội.
- Để đảm bảo thi hành án.
Trong số các căn cứ áp dụng BPNC kể trên, căn cứ “để kịp thời ngăn chặn tội phạm”
chỉ áp dụng cho các trường hợp bắt người phạm tội quả tang theo khoản 1 Điều 82
hoặc bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo điểm a khoản 1 Điều 81 BLTTHS
nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, không để tội phạm xảy ra hay không để
người phạm tội kết thúc hành vi phạm tội của mình, gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã
hội. Căn cứ này không thể là căn cứ áp dụng BPNC tạm giam vì đối tượng áp dụng
BPNC tạm giam là bị can, bị cáo, hành vi phạm tội của họ là hành vi đã được thực
hiện trong quá khứ. Căn cứ áp dụng BPNC tạm giam bao gồm:
4
+) Căn cứ thứ nhất: Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt

động điều tra, truy tố, xét xử.
Hành vi gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thể hiện qua việc sau
khi thực hiện hành vi phạm tội, người thực hiện tội phạm có thể bỏ trốn, tiêu hủy,
làm giả hoặc thay đổi chứng cứ, xóa các dấu vết của vụ án, bàn bạc nhau trốn tránh
pháp luật, mua chuộc, dụ dỗ, cưỡng ép, khống chế người làm chứng, người bị hại…
gây khó khăn phức tạp cho việc xác định, làm rõ sự thật khách quan vụ án. Trong các
giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử có thể áp dụng căn cứ này để tạm giam.
+) Căn cứ thứ hai: Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội.
Căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội có thể được thể hiện qua các yếu
tố phản ánh về nhân thân của các bị can, bị cáo: bị can, bị cáo là những phần tử xấu,
tái phạm, tái phạm nguy hiểm, là những tên tội phạm có tính chất chuyên nghiệp,
những tên côn đồ hung hãn coi thường pháp luật; bị can, bị cáo có hành vi đe dọa trả
thù người làm chứng, người bị hại và sự đe dọa đó có khả năng trở thành hiện thực.
+) Căn cứ thứ ba: Để đảm bảo thi hành án.
Khi cần bảo đảm thi hành án, tùy theo tính chất cụ thể của từng vụ án, tùy theo nhân
thân của người bị kết án, Tòa án có thể áp dụng BPNC thích hợp trong đó Tòa án có
thể sử dụng BPNC tạm giam đối với bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án, còn nếu
có đủ cơ sở cho rằng bị cáo sẽ không bỏ trốn, không gây cản trở khó khăn cho việc
thi hành án thì không cần áp dụng BPNC tạm giam mà chỉ cần áp dụng các BPNC
khác ít nghiêm khắc hơn.
2.3. Thẩm quyền ra lệnh tạm giam.
Khoản 3 Điều 88 BLTTHS 2003 quy định: “Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt
được quy định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam
của những người này được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải
được Viện kiểm sát cúng cấp phê chuẩn trước khi thi hành”.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 80 BLTTHS 2003, những người sau đây có quyền ra
lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
- Viện trưởng, Phó viện trưởng VKSND và VKSQS các cấp;
- Chánh án, Phó chánh án TAND và TAQS các cấp;
- Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó chánh tòa phúc thẩm TANDTC; Hội

đồng xét xử;
- Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT các cấp. trong trường hợp này, lệnh tạm
giam phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Như vậy, thẩm quyền áp dụng BPNC tạm giam được quy định cho nhiều cơ quan với
nhiều chủ thể khác nhau tùy thuộc vào các giai đoạn tố tụng. VKS với chức năng là
cơ quan kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ kiểm tra, giám sát hoạt động này, đặc biệt
5
với lệnh tạm giam của thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT các cấp phải được VKS
cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
2.4. Thủ tục tạm giam.
Với tính chất là BPNC nghiêm khắc nhất, hạn chế tự do của người bị áp dụng trong
một khoảng thời gian nhất định, vì vậy việc áp dụng BPNC tạm giam cần phải tuân
theo một trình tự, thủ tục rất chặt chẽ.
Theo quy định của BLTTHS 2003 thì việc tạm giam bị can, bị cáo phải có lệnh tạm
giam. Lệnh này phải do những người có thẩm quyền kí. Lệnh tạm giam phải ghi rõ
ngày, tháng, năm; họ tên, chức cụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị tạm
giam; lí do tạm giam, thời hạn tạm giam và giao cho người bị tạm giam một bản.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 88 BLTTHS lệnh tạm giam của CQĐT phải được
Viện trưởng VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Tạm giam không chỉ hạn chế quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do và
danh dự của công dân mà còn ảnh hưởng đến cả nhân thân của họ. Chính vì vậy, sau
khi ra lệnh tạm giam cơ quan đã ra lệnh tạm giam cần phải thông báo ngay cho gia
đình người bị tạm giam và cho cơ quan chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ
quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú, làm việc biết. Bên cạnh đó, khi tiến hành
tạm giam một người cần phải đảm bảo các thủ tục liên quan khác như: thực hiện việc
chăm nom người thân thích, bảo quản tài sản của người bị tạm giam (Điều 90
BLTTHS 2003).
2.5. Thời hạn tạm giam.
Trong BLTTHS 2003 thời hạn tạm giam không được quy định tập trung ở một điều
luật mà được quy định theo từng giai đoạn của quá trình tố tụng. Cụ thể:

- Thời hạn tạm giam để điều tra.
Điều 120 BLTTHS 2003 quy định thời hạn tạm giam để điều tra không quá 2 tháng
đối với tội ít nghiêm trọng, không quá 3 tháng đối với tội nghiêm trọng, không quá 4
tháng đối với tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng. Trường hợp vụ án có
nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không
có căn cứ để thay đổi, hủy bỏ BPNC tạm giam thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết
thời hạn tạm giam, CQĐT phải có văn bản đề nghị VKS gia hạn tạm giam. Việc gia
hạn tạm giam được quy định như sau: Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được
gia hạn tạm giam một lần không quá 1 tháng. Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể
được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá 2 tháng và lần thứ hai không
quá 1 tháng. Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần,
lần thứ nhất không quá 3 tháng, lần thứ hai không quá 2 tháng. Đối với tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần không quá 4 tháng.
6

×