Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành - phát triển nhân cách và nêu ví dụ thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.29 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
Trang
Đặt vấn đề............................................................................................1
Giải quyết vấn đề.................................................................................1
I.

Khái niệm về nhân cách.......................................................1

II.

Vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành - phát triển
nhân cách và nêu ví dụ..........................................................2

1. Yếu tố di truyền.........................................................................2
2. Yếu tố hoàn cảnh.......................................................................3
a. Hoàn cảnh tự nhiên....................................................................3
b. Hoàn cảnh xã hội.......................................................................4
3. Yếu tố giáo dục..........................................................................6
4. Yếu tố hoạt động........................................................................7
5. Yếu tố giao tiếp..........................................................................8
III.

Việc rèn luyện – phát triển nhân cách trong thực tiễn........ 10

Kết luận...............................................................................................11
Danh mục tài liệu tham khảo............................................................12


ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay khi xã hội ngày càng phát triển thì con người ta càng hiểu rõ hơn
về chính mình. Con người của chúng ta gồm có hai phần là sinh học và tâm


lý. Phần sinh học chính là phần thể xác của mỗi người chúng ta mà ai cũng
có thể nhìn thấy rõ, còn phần tâm lý là phần nằm ở trong não con người chỉ
biểu lộ ra ngoài qua hành vi. Nhân cách là một thuộc tính của tâm lý người,
nhân cách quyết định giá trị của một con người là tốt hay xấu, giỏi hay ko
giỏi. Muốn có một nhân cách tốt là không hề dễ dàng vì không phải khi
chúng ta sinh ra thì nhân cách đã hoàn thiện mà nó phải trải qua một quá
trình hình thành và phát triển lâu dài. Trong quá trình đó thì nhân cách bị rất
nhiều tác động làm cho nó có thể không theo ý muốn. Trong số các ảnh
hưởng đó thì có ảnh hưởng như là: di truyền, môi trường, hoạt động, giáo
dục, giao tiếp... Sự đan xen giữa giá trị và phản giá trị trong những chuẩn
mực về nhân cách hiện nay làm cho nhân cách khó khăn trong sự xác định
phương hướng, lựa chọn và thực hiện hành vi. Chính vì vậy, việc nghiên cứu
các yếu tố liên quan đến sự hình thành và phát triển nhân cách cũng như vai
trò của chúng là rất cần thiết. Bởi có sự hiểu biết đó thì mỗi cá nhân có thể
dễ dàng hơn trong sự định hướng nhân cách cho mình.
GIAI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.

Khái niệm về nhân cách.

- Nhân cách là: “tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân biểu
hiện ở bản sắc và giá trị xã hội của người ấy”.
- Nhân cách bao gồm nhiều thuộc tính tâm lý của một con người cụ thể
nào đó, nó biểu hiện giá trị xã hội của một cá nhân. Khi đánh giá một
con người thì điều đầu tiên mà người ta nghĩ đến đó là nhân cách của
người đó và tiếp theo mới đên các yếu tố khác. Trong quá trình sống
của mình, con người đã làm biến đổi các phẩm chất tự nhiên của


mình, nhưng những biến đổi đó không tạo ra nhân cách. Nhân cách

được hình thành và phát triển như những quan hệ xã hội. Chính trong
quá trình hình thành và phát triển nhân cách của con người, các đặc
điểm của họ với tư cách là cá tính được biến đổi và trở thành những
đặc điểm mang tính người đích thực, tíh xã hội – đạo đức. Nói cách
khác, sự hình thành con người như một nhân cách là nguyên nhân của
sự biến dổi và phát triển các đặc điểm của con người.
II.

Vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành - phát triển nhân
cách và nêu ví dụ thực tiễn.
Nhân cách là một cấu tạo tâm lý được hình thành và phát triển trong

quá trình sống, hoạt động và giao tiếp của mỗi người. Trong quá trình
hình thành, nhân cách bị chi phối bởi nhiều yếu tố như di truyền, môi
trường, giáo dục.... Cụ thể như sau:
1. Nhân tố di truyền – bẩm sinh..
- Ngay từ khi sinh ra, con người đã có những đặc điểm hình thái sinh lý
của con người, bao gồm những đặc điểm bẩm sinh và di truyền. Theo
sinh vật học hiện đại, di truyền là mối liên hệ kế thừa của cơ thể sống
bảo đảm sự tái tạo ở thế hệ mới những nét giống nhau về mặt sinh vật
đối với thế hệ trước và đảm bảo năng lực đáp ứng những đòi hỏi của
hoàn cảnh theo một cơ chế đã định sẵn. Bất cứ một chức năng tâm lý
nào mang bản chất con người của nhân cách chỉ có thể được phát triển
trong hoạt động của bản thân cá nhân đó và trong điều kiện của xã hội
loài người.
- Để nhận thức đúng vai trò của bẩm sinh – di truyền trong sự phát triển
tâm lý nhân cách ta cần phải thừa nhận một thực tế là mọi cơ thể bình
thường đều có thể phát triển tốt đẹp đời sống tinh thần của mình. Hơn
thế, hoạt động tâm – sinh lý của con người lại có khả năng bù trừ: sự



thiếu hụt của giác quan này có thể làm tăng tính nhạy cảm của một
giác quan khác, một chức năng tâm lý bị hủy hoại có thể được khôi
phục bằng cách luyện tập để thiết lập một hệ thống chức năng mới
trên vỏ não ứng với chức năng sinh lý đó. Ngoài ra, sự tác động của
yếu tố di truyền đối với từng giai đoạn phát triển lứa tuổi và đối với
từng hoạt động cụ thể là khác nhau.
- Có rất nhiều ví dụ cụ thể về vai trò của di truyền – bẩm sinh đối với
sự hình thành và phát triển nhân cách. Nhiều khiếm khuyết di truyền
về gen, về mặt cơ thể... đã có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển
của con người. Hay những năng khiếu bẩm sinh, những tài năng...
chính là do các yếu tố sinh học chi phối, như: tai cảm nhận về âm
nhạc của Moza và Bethoven...
- Như vậy, di truyền đóng vai trò đáng kể trong sự hình thành và phát
triển tâm lý nhân cách, nó là tiền đề vật chất, mầm mống của sự phát
triển tâm lý, nhân cách. Nó nói lên chiều hướng, tốc độ, nhịp điệu của
sự phát triển. Nó đã tham gia vào sự hình thành cơ sở vật chất của các
hiện tượng tâm lý – những đặc điểm giải phẫu và sinh lý của cơ thể,
trong đó có hệ thần kinh.
2. Nhân tố hoàn cảnh sống.
Hoàn cảnh là hệ thống các điều kiện tự nhiên và xã hội xung quanh
cần thiết cho hoạt động sống và sự phát triển của con người. Có thể
phân thành 2 loại: hoàn cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xã hội.
a. Hoàn cảnh tự nhiên.
- Mỗi dân tộc sống trên một lãnh thổ nhất định với những nét độc đáo
riêng về hoàn cảnh địa lý. Những điều kiện ấy quy định đặc điểm của
các dạng, các ngành sản xuất, đặc tính của nghề nghiệ và một số nét
riêng trong phạm vi sáng tạo nghệ thuật. Nhân cách cũng như là một



thành viên xã hội, chịu ảnh hưởng của các điều kiện tự nhiên thông
qua những giá trị vật chất và tinh thần, qua phong tục tập quán của
dân tộc, của địa phương, của nghề nghiệp – những cái vốn có liên hệ
với điều kiện tự nhiên ấy và qua phương thức sống của chính bản thân
nó.
- Hoàn cảnh tự nhiên là những gì tồn tại xung quanh chúng ta, không
phải do con người tạo ra mà là những thứ có sẳn. Ví dụ như: không
khí, nước, gió, nắng mưa, cây cối… đó là môi trường tự nhiên, nó ảnh
hưởng tới đời sống hằng ngày của con người và chúng ta rất cần có nó
để có thể tồn tại được, ví dụ như: con người luôn cần có nước để uống
và khí để thở thì mới có thể sống được.
- Xét cho cùng thì hoàn cảnh tự nhiên cũng góp phần không nhỏ tới
việc hình thành và phát triến nhân cách con người. Có thể thấy trong
thực tế đời sống hàng ngày, nhiều thói hư, tật xấu hay những đức tính
tốt đẹp, cao quý của mỗi cá nhân cũng do một phần về điều kiện hoản
cảnh sống, đặc biệt là hoàn cảnh gia đình tác động vào. Hoặc ví như
con người chúng ta khi sinh ra không sống trong môi trường tự nhiên
mà mọi người đang sống, con người có thể sinh hoạt và phát triển
bình thường; mà khi sinh ra ta lại sống trong rừng với những bầy khỉ
và động vật khác thì ta cũng không thể phát triển nhân cách theo kiểu
người được.
b. Hoàn cảnh xã hội.
- Môi trường xã hội là môi trường không phải có sẵn trong tự nhiên mà
nó là do con người chúng ta tạo ra. Môi trường xã hội phong phú hơn
và ảnh hưởng tới chúng ta nhiều hơn, nó bao gồm rất rộng, rất nhiều
lĩnh vực như: văn hóa, gia đình, kinh tế , chính trị… môi trường xã
hội có ảnh hưởng tới con người rất nhiều từ khi con người ta sinh ra


cho đến khi chết. Ảnh hưởng của môi trường xã hội tới mỗi người là

khác nhau vì mỗi người sống trong một môi trường xã hội khác nhau.
- Môi trường xã hội đầu tiên mà mỗi người khi sinh ra đã được tiếp xúc
đó là gia đình. . Chúng ta thường hay nói gia đình là một tế bào của xã
hội vì thế muốn cho toàn bộ xã hội phát triển tốt thì từng tế bào này
phải phát triển vững mạnh. Còn đối với mỗi con người thì gia đình là
một môi trường quan trọng nhất, nó là nơi mà con người sinh ra và
phát triển từ lúc đầu tiên và cho đến khi họ chết đi cũng tại gia đình.
Gia đình có vai trò và ảnh hưởng rất nhiều tới sự phát triển của con
người đặc biệt là sự phát triển nhân cách. Thông qua sự giao tiếp với
người thân trong gia đình mà một đứa trẻ dần dần hình thành nhân
cách của mình. Khi lớn lên thì bắt đầu được tiếp xúc với mọi người
xung quanh và cả xã hội, từ đó giúp mỗi người phát triển và hoàn
thiện nhân cách của mình.
- Nếu con người ít tiếp xúc, trao đổi với người xung quanh hoặc sống
trong môi trường xã hội quá đơn điệu thì sẽ nghèo nàn về tâm lý, kém
sự linh động. Một ví dụ cụ thể về việc nghiên cứu của bác sỹ Sing
người Ấn Độ về trường hợp cô bé Kamala được chó sói nuôi từ nhỏ ở
trong rừng, khi được đưa ra khỏi rừng thì lúc đó cô bé đã 12 tuổi.
Bình thường, cô ngủ trong xó nhà, đêm đến thì tỉnh táo và đôi khi sủa
lên như chó rừng. Cô đi lại bằng hai chân, nhưng khi bị đuổi thì chạy
bằng bốn chi khá nhanh. Người ta dạy nói cho Kamala trong bốn năm,
nhưng cô chỉ nói được hai từ. Cô không thể thành người và chết ở tuổi
18. Đó là một ví dụ sinh động cho chúng ta thấy được vai trò của xã
hội trong sự hình thành nhân cách con người.
- Ngoài ra, còn nhiều yếu tố khác trong hoàn cảnh xã hội của con người
trong việc hình thành và phát triển nhân cách, đó là: quan hệ sản xuất,


quan hệ chính trị và pháp luật, tâm trạng chung, thi đua, bắt chước...
Quan hệ sản xuất quy định nội dung của nhiều nét tâm lý cơ bản của

nhân cách. Tâm lý nhân cách phụ thuộc vào quan hệ chính trị và pháp
luật. Vị trí giai cấp của cá nhân sẽ kích thích tính tích cực của nó ở
mức độ này, mức độ khác trong vai trò xã hội. Tâm trạng chung bao
trùm lên bầu không khí lạc quan hay bi quan, sức phấn đấu chung của
cả nhóm hay cá nhân đều chịu ảnh hưởng của tâm trạng chung đó,
tình cảm của nhân cách được kết tinh dần dần từ đó. Thi đua là
phương thức tác động qua lại gữa các cá nhân, nhóm và tập thể làm
tăng kết quả hoạt động của nhau, qua đó nhiều phẩm chất nhân cách
được phát triển.
3. Nhân tố giáo dục.
- Giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong sự hình thành và phát triển nhân
cách qua các hoạt động như: tổ chức, hướng dẫn điều khiển, điều
chỉnh sự phát triển nhân cách. Giáo dục vạch ra chiều hướng và dẫn
dắt cho sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. Giáo dục
có thể mang lại cái mà các yếu tố bẩm sinh – di truyền hay hoàn cảnh
không thể đem lại được. Ví dụ như: một đứa trẻ sinh ra không bị
khuyết tật thì theo sự tăng trưởng và phát triển của cơ thể, đến một
giai đoạn nhất định đứa trẻ sẽ biết nói. Nhưng nếu muốn đọc đơcj
sách báo thì nhất thiết đứa trẻ phải học.
- Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật đem lại cho con
người. Ví dụ: bằng những phương pháp giáo dục đặc biệt trẻ em và
người lớn bị khuyết tật (mù, câm, điếc...) có thể đực phục hồi những
chức năng đã mất, hoặc có thể phát triển tài năng và trí tuệ một cách
bình thường. Người mù có thể học tập bằng loại chữ nổi, người câm
và người điếc có thể học bằng các ký hiệu đặc biệt khác sử dụng bằng


ngón tay. Giáo dục có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu do tác
động tự phát của môi trường xã hội gấy nên và làm cho nó phát triển
theo chiều hướng mong muốn của xã hội.

- Như vậy, giáo dục một mặt cung cấp cho con người những tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo; mặt khác, hình thành trong nhân cách họ những phẩm
chất tâm lý cần thiết theo yêu cầu của sự phát triển xã hội. Giáo dục
như là một quá trình tác động có ý thức, có mục đích và có kế hoạch
về mọi tư tưởng, đạo đức và hành vi trong tập thể học sinh, trong gia
đình và trong cơ quan giáo dục ngoài nhà trường.
4. Nhân tố hoạt động.
- Mọi tác động tới thế hệ trẻ sẽ không có hiệu quả nếu như bản thân cá
nhân học sinh không tiếp nhận, không hưởng ứng những tác động đó,
không trực tiếp tham gia vào các hoạt động nhằm phát triển tâm lý,
hình thành nhân cách. Bởi vậy, hoạt động là nhân tố quyết định trực
tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân. Hoạt
động của con người là hoạt động có mục đích, mang tính xã hội, cộng
đồng, được thực hiện bằng những thao tác nhất định, với những công
cụ nhất định. Thông qua hai quá trình đối tượng hóa và chủ thể hóa
mà nhân cách được bộc lộ và hình thành. Con người lĩnh hội kinh
nghiệm xã hội lịch sử bằng hoạt động của bản thân để hình thành nhân
cách. Mặt khác, cũng thông qua hoạt động, con người đóng góp lực
lượng bản chất của mình vào việc cải tạo thế giới khách quan.
- Sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người phụ thuộc vào
hoạt động chủ đạo ở mỗi thời kỳ nhất định. Thông qua hoạt động mà
con người có thể cải tạo được những nét nhân cách đang bị thoái hóa
để hoàn thiện chúng theo chuẩn mực đạo đức xã hội. Hoạt động của
cá nhân nhằm để thỏa mãn những nhu cầu tự nhiên hay nhu cầu xã


hội, vật chất hay tinh thần của đời sống riêng hay đời sống xã hội là
những biếu hiện phong phú về tính tích cực của nhân cách. Thông qua
hoạt động, con người có thể tiếp thu được những kỹ năng xã hội và
biến thành vốn riêng của mình, vận dụng chúng vào cuộc sống, làm

cho nhân cách ngày càng phát triển.
5. Nhân tố giao tiếp.
- Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người, nhu cầu
giao tiếp là một trong những nhu cầu cơ bản, xuất hiện sớm nhất ở
con người. Sự phát triển cả một cá nhân được quy định bởi sự phát
triển của tất cả các cá nhân khác mà nó giao tiếp trự tiếp hoặc gián
tiếp với họ. Khác với hoạt động, đối tượng của giao tiếp là những
chỉnh thể tâm lý sống động, những nhân cách hoàn chỉnh.
- Nhờ giao tiếp, con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh
hội nên văn hóa xã hội, chuẩn mực xã hội, đồng thời thông qua giao
tiếp, con người đóng góp năng lực của mình vào kho tàng chung của
nhân loại. Nhờ giao tiếp, con người không chỉ nhận thức người khác,
nhận thức quan hệ xã hội, mà còn nhận thức được chính bản thân
mình, tự đối chiếu so sánh mình với người khác, với chuẩn mực xã
hội, tự đánh giá bản thân mình như là một nhân cách.
- Ông cha ta đã đúc kết được nhiều bài học kinh nghiệm thông qua quá
trình giao tiếp, như: gần mực thì đen, gần đèn thì rạng...Thực tế cũng
cho thấy, nếu một người nào đó sống trong môi trường không lành
mạnh, giao tiếp với những người xấu thì thì người đó sẽ dễ dàng bị
ảnh hưởng bởi nhiều thói hơ tật xấu xung quanh mình và ngược lại.
Mặt khác, con người khi sinh ra và lớn lên không ai là không thể tồn
tại mà không có giao tiếp. Người bình thường giao tiếp với nhau bằng
lời nói, nhưngc người bị khuyết tật như câm, điếc... cũng có thể giao


tiếp với nhau qua nhiều hình thức đặc biệt khác. Qua đó, chúng ta có
thể thấy được vai trò của giao tiếp trong sự phát triển nhân cách của
mỗi con người.
III.


Việc rèn luyện – phát triển nhân cách trong thực tiễn.

- Đặt trong bối cảnh nước ta, khi mà ta đã mở cửa nền kinh tế thị
trường, khi mà ta đã gia nhập rất nhiều tổ chức thế giới như WTO,
ASEAN... thì những vấn đề nhân cách cần được đặt ra một cách
cấp thiết. Bước vào thời kỳ mới thì những giá trị chuẩn mực về nhân
cách của ta trước đây cũng dần thay đổi. Trong môi trường toàn cầu
hoá, chúng ta có thể nói nhiều hơn đến sự tự do với tính cách là dấu
hiệu của sự phát triển nhân cách một cách đầy đủ. Nhưng môi trường
ấy cùng với sự ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố từ bên ngoài vào cũng
rất dễ dẫn đến sự phát triển méo mó về nhân cách gây khó khăn cho
việc xây dựng và phát triển nhân cách. Vì vậy, mỗi con người chúng
ta cần rèn luyện cho mình về mọi mặt để hoàn thiện và phát triển nhân
cách của bản thân, đặc biệt là thế hệ trẻ.
- Ở trường thì được trau dồi kiến thức và kỹ năng, ngoài lớp thì được
rèn luyện đạo đức và nhân cách. Gia đình, nhà trường, môi trường
sống xung quanh và các hoạt động, giao tiếp giúp chúng ta rèn luyện
được rất nhiều kỹ năng như: kỹ năng sống, kỹ năng nghề nghiệp, kỹ
năng sáng nghiệp.... Sinh viên sẽ tích lũy được một nền tảng ký năng
vững chắc khi ra trường nếu họ biết cách tìm tòi, học hỏi và năng
động tham gia các hoạt động tập thể, cộng đồng... Học cách làm việc
nhóm, tập thể có hiệu quả cao, biết lên những kế hoạch học tập và giải
trí một cách khoa học. Vận dụng khả năng của mình không chỉ vào
học tập mà cả trong các hoạt động xã hội khác để hoàn thiện mình
hơn...


KẾT LUẬN
Nhân cách là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau,
như triết học, xã hội học, kinh tế - chính trị học, luật học, tâm lý học, y học,

giáo dục học… Trong đó, quan điểm về nhân cách của tâm lý học về cơ bản
có những nét khác biệt so với quan điểm khoa học khác. Nhân cách được
hình thành và phát triển dực trên 5 nhân tố cơ bản đó là: di truyền – bẩm
sinh, hoàn cảnh sống, giáo dục, hoạt động và giao tiếp. Mỗi nhân tố có
những ảnh hưởng và vai trò nhất định đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách con người. Con người muốn hoàn thiện được bản thân mình trước
hết phải xây dựng, phát triển và rèn luyện nhân cách của chính mình. Có như
vậy thì mới đầy đủ kỹ năng để bước vào cuộc sống với nhiều khó khăn và
cám dỗ của xã hội.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình tâm lý học đại cương, Trường đại học Luật Hà Nội.
2. Giáo trình tâm lý học đại cương, Nguyễn Quang Uẩn.
3. tailieu.vn.
4. thuvien ebook



×