Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.95 KB, 14 trang )

A. MỞ ĐẦU
Quan hệ tố tụng hình sự là quan hệ luôn có một bên là quyền lực cơ
quan Nhà nước có trách nhiệm và quyền hạn giải quyết các vụ án hình sự.
Trong tố tụng hình sự, các cơ quan có thẩm quyền có quyền áp dụng các biện
pháp cưỡng chế để tác động tới đối tựợng. Các biện pháp cưỡng chế là sự tác
động một chiều không phụ thuộc vào ý trí của bên bị tác động, xuất phát từ
những căn cứ điều kiện do pháp luật quy định.
Tùy thuộc vào mục đích áp dụng, đối tượng áp dụng hoặc những tiêu
chuẩn khác mà các nhà làm luật phân chia các biện pháp cưỡng chế thành
những nhóm khác nhau: nhóm các biện pháp ngăn chặn và nhóm các biện
pháp điều tra. Trong mỗi nhóm lại có những biện pháp khác nhau, với những
trình tự thủ tục khác nhau.
Điều 79 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) 2003 quy định nhóm biện
pháp ngăn chặn bao gồm các biện pháp sau: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi
khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Phần sau
đây sẽ đi vào nghiên cứu biện pháp ngăn chặn tạm giữ.
B. NỘI DUNG
I. Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong tố tụng hình sự
1. Khái quát về biện pháp ngăn chặn tạm giữ
a. Mục đích tạm giữ
Mục đích của biện pháp ngăn chặn tạm giữ là biện pháp ngăn chặn hạn
chế một số quyền của công dân, quyền con người của người bị tạm giữ nhằm
ngăn chặn hành vi phạm tội hoặc hành vi cản trở việc điều tra khám phá tội
phạm của người bị nghi là thực hiện hành vi phạm tội, tạo điều kiện cho cơ
quan có thẩm quyền đủ thời gian để xác định tính chất, mức độ của hành vi,
nhân thân của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội để từ đó có thể
quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can hoặc không khởi tố vụ án
hình sự, khởi tố bị can hoặc các quyết định pháp lý cần thiết khác như: tạm
giam, áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác hay trả tự do cho người bị bắt…



Khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003: “Tạm giữ có thể được áp dụng đối
với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người
phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.”
Dù trong BLTTHS không quy định rõ mục đích của việc tạm giữ
nhưng qua các điều luật về tạm giữ thì chúng thấy việc tạm giữ người bị bắt
trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, người tự thú, đầu thú là
nhằm có điều kiện để tiếp tục xác minh thêm về hành vi phạm tội của người
bị bắt, người ra tự thú, đầu thú để làm rõ thêm căn cứ của việc khởi tố vụ án
cũng như khởi tố bị can đối với người họ.
Tạm giữ đối với người bị bắt theo lệnh truy nã là nhằm tạo điều kiện về
thời gian để cơ quan nơi đã ra lệnh truy nã đến nhận lại người bị bắt theo lệnh
hoặc theo yêu cầu truy nã của họ.
b. Đối tượng tạm giữ
Nhìn chung là đối tượng của tạm giữ được quy định như khoản 1 Điều
86 BLTTHS, tuy nhiên không phải mọi người bị bắt trong trường hợp khẩn
cấp, phạm tội quả tang, hoặc khi người phạm tội ra đầu thú, tự thú đều bị tạm
giữ, họ không bị tạm giữ nếu rơi vào các trường hợp sau đây:
- Các cơ quan có thẩm quyền xác đinh được ngay việc bắt khẩn cấp
hoặc bắt quả tang đối với họ là không có căn cứ.
- Ngay sau khi bắt người khẩn cấp hoặc bắt người phạm tội quả tang,
ngay sau khi có người ra tự thú, đầu thú các cơ quan có thẩm quyền đã xác
định được đầy đủ căn cứ để có thể khởi tố vụ án hoặc khởi tố bị can đối với
người bị bắt, người tự thú, đầu thú nên đã ra các quyết định khởi tố cần thiết
và cũng đã xác định được ngay căn cứ để có thể tạm giam đối với họ nên đã
gia lệnh tạm giam đối với bị can mà không cần tạm giữ.
- Ngay sau khi bắt khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, ngay sau khi có
người ra tự thú, đầu thú đã xác định đầy đủ căn cứ để khởi tố vụ án và khởi tố
bị can nên cơ quan có thẩm quyền không ra quyết định tạm giữ, rồi sau khi đã
ra quyết định khởi tố cần thiết nhưng xét thấy không cần thiết phải tạm giam



bị can nên cơ quan có thẩm quyền để cho bị can được tại ngoại mà không cần
thiết phải tạm giam bị can.
- Nếu sau khi bắt khẩn cấp hoặc bắt quả tang, các cơ quan có thẩm
quyền bắt đã gửi lệnh bắt cho Viện kiểm sát và Viện kiểm sát không phê
chuẩn lệnh đó thì cũng không được ra quyết định tạm giữ đối với người bị
bắt.
Lưu ý về trường hợp đối tượng của tạm giữ là người chưa thành niên,
chỉ khi họ phạm tội theo như quy định tại khoản 1, 2 Điều 303 BLTTHS thì
mới bị tạm giữ:
“1. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm
giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ
luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố
ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm
giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ
luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý,
phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.”
c. Thẩm quyền ra quyết định tạm giữ.
Khoản 2 Điều 86 BLTTHS: “ Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn
cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này, Chỉ huy trưởng vùng cảnh
sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ”.
Theo khoản 2 Điều 86 quy định về thẩm quyền ra lệnh bắt người trong
trường hợp khẩn cấp thì có bốn nhóm người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp,
gồm nhóm người sau đây:
- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp (cơ quan điều
tra trong công an nhân dân, cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân, cơ quan
điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao…)
- Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương
đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới.



- Người chỉ huy tàu bay, sân bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời
sân bay, bến cảng.
- Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển.
Như vậy theo quy định BLTTHS 2003 thì cơ quan điều tra cấp huyện
trở lên có quyền ra quyết định tạm giữ. Thực hiện quyết định này, khi nhận
người bị bắt trong từng trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn phải tiến hành lập biên bản phạm tội
quả tang, biên bản bắt người đang bị truy nã và giải quyết ngay tới cơ quan
thẩm quyền.
d. Thủ tục tạm giữ
Khoản 3 Điều 86 BLTTHS: “Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết
định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Nếu xét thấy việc tạm giữ không căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm
sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ
phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Quyết định tạm giữ phải ghi rõ lí do tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và
phải giao cho người bị tạm giữ một bản”.
BLTTHS quy định muốn tạm giữ người phải có quyết định của người
có thẩm quyền. Quyết định này không đòi hỏi phải có sự phê chuẩn của Viện
kiểm sát trước khi thi hành. Trong thời hạn 12 giờ, quyết định này phải được
gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Quyết định tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ,
ngày hết hạn tạm giữ và phải giao cho người bị tạm giữ một bản.
Không phải cứ nhận được quyết định tạm giữ là Viện kiểm sát phê
chuẩn ngay, mà Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ lệnh tạm giữ trong những
trường hợp sau đây:
- Người bị tạm giữ không phải là người bị bắt quả tang trong trường
hợp khẩn cấp, trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã và không
phải là người phạm tội tự thú, đầu thú.



- Người bị tạm giữ chỉ có những vi phạm nhỏ, tính chất nguy hiểm cho
xã hội không đáng kể, chưa đến mức phải truy cứu trách nhỉệm hình sự:
- Người bị tạm giữ trong trường hợp phạm tội quả tang nhưng sự việc
phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị tạm giữ có nơi cư trú rõ ràng
và không có biểu hiện sẽ trốn hoặc cản trở công việc điều tra.
Đối với trường hợp tạm giữ đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn
cấp hoặc phạm tội quả tang, sau khi bắt người hoặc nhận người bị bắt, Cơ
quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24h phải ra quyết định
tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt.
Đối với trường hợp tạm giữ đối với người bị bắt theo quyết định truy nã
thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo
ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã để nhận người bị truy nã.
Ngoài ra, đối với tạm giữ người chưa thành niên, thì “Cơ quan ra lệnh
bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phải thông báo cho gia đình,
người đại diện hợp pháp của họ biết ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm giam.”
(khoản 3 Điều 303 BLTTHS).
e. Thời hạn tạm giữ
Điều 87 BLTTHS. Thời hạn tạm giữ
“1. Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi cơ quan điều
tra nhận người bị bắt.
2. Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể ra
hạn tạm giữ nhưng không được quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt,
người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng cũng
không được quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ phải được Viện
kiểm sát cùng cấp phê chuẩn. Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố
bị can thì phải trả tự do ngay cho người đã bị tạm giữ. Thời hạn tạm giữ
được tính vào thời hạn tạm giam. Việc tạm giữ đối với người chưa thành niên
phạm tội không có quy định khác về thời hạn tạm giữ.”



Để đạt được mục đích của việc tạm giữ, thời điểm tính thời hạn tạm giữ
không phải là thời điểm bắt người. Mặt khác, để hạn chế việc giữ người trái
pháp luật thời điểm tính thời hạn tạm giữ cũng không được tính từ lúc ra lệnh
tạm giữ mà được tính từ khi Cơ quan điều tra nhận được người bị bắt. Thời
điểm Cơ quan điều tra nhận được người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp tính
từ khi người bị bắt bị giải tới trụ sở Cơ quan điều tra. Trong trường hợp người
bị bắt phạm tội quả tang hoặc người bị truy nã thời điểm tính từ khi công dân
nhận hoặc tổ chức giao người bị bắt cho Cơ quan điều tra.
Theo quy định tại khoản 1 và 2 trên, thì thời hạn tạm giữ tối đa là
không quá 9 ngày. Luật quy định mọi trường hợp ra hạn đều phải có sự phê
chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành. Trong thời hạn 12 giờ
kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm
giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Nếu
Viện kiểm sát không phê chuẩn thì cơ quan đã ra lệnh tạm giữ phải trả tự do
ngay cho người bị tạm giữ sau khi hết hạn tạm giữ trước đó.
Cách tính thời hạn trong TTHS đã quy định khi tính thời hạn theo ngày
tháng thì thời hạn sẽ hết vào lúc 24 giờ, do vậy trong cách tính thời han tạm
giữ, thời điểm ra lệnh tạm giữ chỉ có ý nghĩa để tính ngày bị tạm giữ chứ
không có ý nghĩa tính giờ bị tạm giữ, nói cách khác mặc dù các cơ quan có
thẩm quyền ra quyết định tạm giữ vào lúc mấy giờ nhưng thời hạn tạm giữ chỉ
hết vào lúc 24 giờ của ngày hết hạn.
“3. Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả
tự do ngay cho người bị tạm giữ.”
Đây là trường hợp không cần gia hạn tạm giữ hoặc đã gia hạn tạm giữ
lần thứ nhất hoặc lần thứ hai nhưng vẫn không đủ căn cứ để xác định người bị
tạm giữ đã thực hiện tội phạm thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
“4. Thời hạn tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm
giữ được tính bằng một ngày tạm giam.”



Khoản 4 Điều 87 BLTTHS quy định thời hạn tạm giữ được tính vào
thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam.
Quy định này có mục đích nhân đạo, do vậy cho phép nếu sau đó người bị
tạm giữ bị khởi tố bị can và họ tạm giam thì được trừ đi thời hạn họ đã bị tạm
giữ vào thời hạn tam giam. Tuy nhiên sau này, nếu như người phạm tội bị Tòa
án kết án tù có thời hạn thì pháp luật Việt Nam vẫn cho phép trừ thời hạn tạm
giữ, tạm giam vào thời hạn họ phải chấp hành hình phạt tù với cách tính một
ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tù.
2. Phân biệt tạm giữ trong tố tụng hình sự và tạm giữ hành chính
So với tạm giữ người theo thủ tục hành chính thì tạm giữ người theo
thủ tục tố tụng hình sự có những điểm khác sau đây:
Một là, đối tượng có thể bị tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự là
những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người
phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.
Còn đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ theo thủ tục hành chính là những
người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hành chính. Đó là các hành vi gây
rối trật tự công cộng, gây thương tích cho người khác hoặc những hành vi vi
phạm hành chính khác mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp
luật phải bị xử phạt hành chính.
Hai là, mục đích áp dụng biện pháp tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự
là để xác định căn cứ khởi tố bị can đối với người bị bắt hoặc giao người đang
bị truy nã bị bắt cho cơ quan đã ra lệnh truy nã. Còn mục đích tạm giữ người
theo thủ tục hành chính là ngăn chặn, đình chỉ ngay những hành vi gây rối trật
tự công cộng, gây thương tích cho người khác hoặc để thu thập, xác minh
những tình tiết quan trọng làm căn cứ để ra quyết định xử lý vi phạm hành
chính.
Ba là, nhìn chung thẩm quyền tạm giữ người theo thủ tục tố tụng hình
sự hạn chế hơn thẩm quyền tạm giữ người theo thủ tục hành chính.



Bốn là, về thủ tục thì cả tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự và tạm giữ
người theo thủ tục hành chính đều phải có quyết định tạm giữ của người có
thẩm quyền. Nhưng sau khi ra quyết định tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình
sự, thì người có thẩm quyền phải gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời
hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ. Còn quyết định tạm giữ người
theo thủ tục hành chính không phải gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Người bị tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự bị tạm giữ ở Nhà tạm giữ,
hoặc buồng tạm giữ của Trại tạm giam. Còn người bị tạm giữ theo thủ tục
hành chính không bị giữ ở Nhà tạm giữ, hoặc buồng tạm giữ của Trại tạm
giam.
Năm là, thời hạn tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự là ba ngày và có
thể gia hạn hai lần mỗi lần không quá ba ngày. Còn thời hạn tạm giữ theo thủ
tục hành chính là 12 giờ và có thể kéo dài đến 24 giờ, đối với người vi phạm
quy chế biên giới hoặc vi phạm hành chính ở vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh,
hải đảo thì thời hạn tạm giữ có thể kéo dài hơn nhưng không được quá 48 giờ,
kể từ thời điểm bắt đầu giữ người vi phạm.
Việc kéo dài, gia thời hạn tạm giữ theo thủ tục hành chính không cần
phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành.
Thời hạn tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự được trừ vào thời hạn tạm
giam, cứ một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam. Nếu sau đó
người đã bị tạm giữ bị kết án và phạt tù có thời hạn, thì thời hạn tạm giữ, tạm
giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giữ, tạm
giam bằng một ngày tù (Điều 33 BLHS năm 1999). Còn thời hạn tạm giữ theo
thủ tục hành chính không được trừ vào thời hạn tạm giam và do vậy cũng
không được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt.
II. Một số bất cấp trong quy định về biện pháp ngăn chặn tạm giữ
và biện pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
1. Một số bất cập còn tồn tại trong quy định về biện pháp tạm giữ

trong BLTTHS 2003


a. Về đối tượng bị áp dụng đối với biện pháp tạm giữ.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003 thì tạm giữ có thể áp
dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú. Tự thú là việc một hay nhiều
người sau khi thực hiện hành vi phạm tội, nhưng hành vi đó chưa bị phát hiện
hoặc họ chưa bị phát hiện có hành vi phạm tội mà đã ra trước cơ quan bảo vệ
pháp luật khai nhận về hành vi phạm tội của mình hoặc thực hiện cùng đồng
bọn. Đầu thú là việc một hay nhiều người đã thực hiện hành vi phạm tội, vụ
án đã được khởi tố, họ có thể đã bị khởi tố bị can, nhưng có thể chưa hoặc đã
bị bắt, tạm giữ, tạm giam mà trốn tránh nay đang bị truy nã, sau một thời gian,
họ đã ra trước cơ quan bảo vệ pháp luật khai nhận về hành vi phạm tội của
mình. Nhưng vô hình chung chúng ta đã gộp họ là một, khi họ phạm tội với
mức độ nguy hiểm, hoàn cảnh, nhân thân… khác nhau. Điều này chưa thực sự
hợp lí.
b. Về thẩm quyền ra lệnh tạm giữ:
Lực lượng Cảnh sát biển đã được thành lập, đảm bảo kịp thời đấu tranh
chống tội phạm trên các vùng biển của đất nước, nhưng cũng chưa có quy
định cụ thể về việc Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có thẩm quyền quyết
định tạm giữ trong những trường hợp nào? Với những đối tượng nào?
Mặt khác, theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành thì các cơ quan
Hải quan, cơ quan Kiểm lâm được tham gia vào một số hoạt động TTHS như
khởi tố vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu như: “…ra quyết
định khởi tố vụ án, lấy lời khai…Xét cần ngăn chặn ngay người có hành vi
phạm tội chạy trốn thì tạm giữ ngay người đó và xin lệnh tạm giữ của cơ
quan có thẩm quyền”. Tuy nhiên, cũng chưa có quy định chính thức nào trong
BLTTHS cho phép cơ quan Hải quan, Kiểm lâm có quyền bắt khẩn cấp hoặc
tạm giữ và như vậy thì người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội vẫn
được tự do, tẩu tán tang tài vật, trốn tránh pháp luật…

c. Về thời hạn tạm giữ


Thứ nhất: Thời hạn tạm giữ được tính từ thời điểm cơ quan điều tra
nhận người bị bắt. Luật dùng từ “cơ quan điều tra”, như vậy thì những chủ thể
có quyền ra quyết định tạm giữ khác như chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp
trung đoàn, người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới, người chỉ
huy máy bay, tàu bay trên biển khi máy bay tàu biển đã rời khỏi sân bay bến
cảng (không phải cơ quan điều tra) thì thời hạn tính thế nào?
Thứ hai: cũng như thế, thời hạn tạm giữ được tính từ khi cơ quan điều
tra nhận người bị bắt. Mà theo quy định tại khoản 1 Điều 86 BLTTHS thì tạm
giữ có thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú. Và như đã trình
bày ở trên thì họ không phải là người bị bắt. Vậy thời hạn tạm giữ đối với họ
được tính từ thời điểm nào?
Thứ ba: Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS thì thời hạn tạm
giữ không được quá ba ngày. Vậy câu hỏi đặt ra là từ “ngày” được hiểu thế
nào? Ngày được tính là 24 giờ hay chỉ là 12 giờ hay tính thế nào?
Thứ tư: Khoản 1 Điều 87 BLTTHS năm 2003 chưa dự tính hết các
trường hợp có thể xảy ra trong thực tiễn. Ví dụ như những người bị bắt trên
tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng Việt Nam
hoặc những người bị bắt ở biên giới, hải đảo. Những người bị bắt trong
trường hợp này có thể một thời gian khá lâu sau khi bị bắt mới giải đến cho
Cơ quan điều tra, vậy khoảng thời gian đó họ sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn
chặn nào? Bắt hay tạm giữ? Bắt thì không phải vì biện pháp bắt kết thúc ngay
sau khi họ thực hiện hành vi phạm tội bị bắt, mà tạm giữ cũng không đúng vì
sau khi bị bắt Cơ quan điều tra chưa nhận được người này.
Thứ năm: hết thời hạn tạm giữ tối đa 9 ngày nhưng cơ quan ra lệnh truy
nã vẫn chưa đến nhận người bị bắt thì cần phải giải quyết thế nào? Nếu cứ giữ
thì vi phạm pháp luật còn nếu không giữ thì lại để lọt tội phạm.
d. Về gia hạn tạm giữ

Khoản 2 Điều 87 BLTTHS quy định: “Trong trường hợp cần thiết,
người ra quyết định tạm giữ có thể ra hạn tạm giữ nhưng không được quá ba


ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn
tạm giữ lần thứ hai nhưng cũng không được quá ba ngày” nhưng chưa giải
thích rõ được khi nào là “cần thiết”, khi nào là “đặc biệt”. Theo cách hiểu
hiện nay, những trường hợp cần thiết là những trường hợp sự việc xảy ra có
nhiều tình tiết phức tạp, việc xác minh phải thực hiện ở nhiều địa phương
khác nhau hoặc cần phải có thêm thời gian để làm rõ về hành vi, làm rõ căn
cước, lý lịch của người bị tạm giữ; những trường hợp đặc biệt là trường hợp
đối với vụ án xâm phạm an ninh quốc gia và một số vụ án hình sự khác có
nhiều người tham gia, sự việc cần xác minh rất phức tạp mặc dù đã gia hạn
tạm giữ lần thứ nhất vẫn chưa làm rõ được sự việc. Tuy vậy cách hiểu này
vẫn quá chung chung, chưa cụ thể rõ ràng.
e. Việc trả tự do cho người bị tạm giữ
Khoản 3 Điều 87 BLTTHS 2003 quy định: “Trong khi tạm giữ, nếu
không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.”
Việc luật quy định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ nếu không có đủ căn
cứ khởi tố bị can là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên luật lại không quy định về
thẩm quyền trả tự do và thủ tục trả tự do cho người bị tạm giữ. Do đó đặt ra
câu hỏi là: trong trường hợp người phải trả tự do cho người bị tạm giam thì ai
có thẩm quyền trả tự do cho họ? Phải chăng là những người có thẩm quyền ra
lệnh bắt tạm giữ theo khoản 2 Điều 86 thì cũng là người có thẩm quyền ra
lệnh trả tự do cho người tạm giữ hay là một chủ thể khác? Và thủ tục trả tự
do luật cần có quy định rõ.
f. Vấn đề bảo đảm quyền con người trong tạm giữ
Theo quy định của pháp luật, việc tạm giữ người bị tạm giữ được thực
hiện trong nhà tạm giữ của Công an cấp huyện, hoặc một số phòng tạm giữ
của các trại tạm giam cấp tỉnh. BLTTHS cũng quy định rõ quyền và nghĩa vụ

của người bị tạm giữ, chế độ đối với người bị tạm giữ. Tuy nhiên, trên thực tế
cho thấy, các cơ quan có liên quan chưa thực sự tôn trọng và bảo đảm thực
hiện các quyền của người bị tạm giữ. Nhiều trường hợp người bị tạm giữ bị


đối xử không đúng, bị bỏ đói, bỏ rét hoặc bị buộc làm những công việc nặng
nhọc bẩn thỉu, nhiều người bị tạm giữ không được biết lý do tạm giữ, công tác
phân loại những người bị tạm giữ để xử lý chưa đúng bản chất của sự việc,…
Có 1 vụ việc thực tế như sau: vì nghi ngờ Hắc Thị Bạch Tuyết và em
gái là Hắc Thị Bạch Thủy tráo vàng giả mà chủ tiệm vàng Mỹ Kim đã dẫn
giải hai cô tới công an thị trấn Chợ Lầu; và tại đây, được công an thị trấn cho
phép, chủ tiệm vàng đã tự tiện “giữ” chị em cô Tuyết từ 16 giờ ngày 21/1 đến
2 giờ ngày 22/1/2006, thậm chí còn cởi hết quần áo của các cô để khám xét.
Vụ việc này là điển hình cho việc tạm giữ làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, chủ yếu
nguyên nhân do người thi hành công vụ chưa có trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ vững vàng.
3. Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ.
a. Giải pháp trong công tác hoàn thiện pháp luật TTHS
- Bổ sung, sửa đổi các quy định còn thiếu sót hay chưa hợp lý về biện
pháp ngăn chặn tạm giữ trong BLTTHS hiện nay; quy định lại về trường hợp
tạm giữ đối với người tự thú, đầu thú; quy định cụ thể về thẩm quyền ra quyết
định tạm giữ của Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển; nên quy định cho Cơ
quan Hải quan, Kiểm lâm có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ.
- Sửa đổi các quy định về thời hạn tạm giữ sao cho phù hợp với thực
tiễn, dự liệu được trước các tình huống có thể xảy ra; đề ra biện pháp xử lí sau
khi hết thời hạn tạm giữ tối đa, phân biệt cụ thể trường hợp nào được coi là
“cần thiết”, trường hợp nào là “đặc biệt” trong khoản 2 Điều 87 BLTTHS. Bổ
sung thêm quy định về những trường hợp đã có gia hạn tạm giữ thì việc hủy

bỏ quyết định tạm giữ để trả tự do cho người bị tạm giữ nên do Viện kiểm sát
quyết định.
- Kiến nghị về việc ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện các quy
định của BLTTHS về các biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tập trung vào những


vấn đề sau: về thẩm quyền áp dụng tạm giữ của những người có thẩm quyền
trong Cơ quan điều tra về chế độ tạm giữ,…
b. Giải pháp về việc nâng cao năng lực cũng như phẩm chất đạo đức
của chủ thể áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ
- Tăng cường kiểm tra, giám sát việc chấp hành nghiêm túc các tiêu
chuẩn đối của các chức danh: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, đồng
thời sửa đổi, bổ sung những quy định chưa phù hợp.
- Thường xuyên kiện toàn đội ngũ và tập huấn luyện nghiệp vụ cũng
như nâng cao ý thức pháp luật cho các cơ quan và những người có thẩm
quyền trong hoạt động bắt, tạm giữ nói riêng và trong hoạt động tiến hành tố
tụng nói chung, cần phải thường xuyên học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn, ý thức chính trị, đề cao ý thức tổ chức kỷ luật. nắm chắc các quy
định của pháp luật về tạm giữ; hiểu rõ tính chất, mục đích của các biện pháp
tạm giữ; đảm bảo khi thực hiện bắt giữ người phải có lệnh và có sự phê chuẩn
của Viện kiểm sát, hạn chế tình trạng “tiền trảm hậu tấu” khi bắt giữ người;
tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ; phối
hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia quá trình tạm giữ khi giải
quyết vụ án.
- đối với Viện kiểm sát chỉ phê chuẩn lệnh bắt khi đã xác định rõ căn
cứ chứng tỏ bị can bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động tố tụng. Viện kiểm
sát phải phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra, nghiên cứu kỹ tài liệu vụ án,
gặp trực tiếp hỏi kỹ càng điều tra viên, những người có liên quan đến vụ án,
và cả người bị bắt về các tình tiết của vụ án để quyết định phê chuẩn hay
không phê chuẩn lệnh bắt. Trong trường hợp bắt người không có căn cứ thì

Viện kiểm sát kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt. Mỗi kiểm sát viên cần
phải luôn đề cao trách nhiệm, ý thức pháp luật, ý thức chính trị trong quá trình
thực thi công vụ của mình.
c. Tăng cường sự lãnh đạo, kiểm tra, giám sát.


Quốc hội cần bám sát thực tiễn cuộc sống, nắm bắt tâm tư nguyện vọng
của nhân dân, kịp thời thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng thành pháp
luật để bảo vệ các giá trị nhân văn của con người. Tích cực tiếp nhận sự phản
hồi từ các cơ quan thực thi pháp luật, các nhà nghiên cứu, ý kiến đóng góp
của nhân dân để sửa đổi, bổ sung cho hệ thống pháp luật ngày một hoàn thiện
đảm bảo tốt các quyền con người, quyền công dân. Tăng cường công tác giám
sát đối với các cơ quan nhà nước đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng.
Hội đồng nhân dân cần thực hiện tốt chức năng giám sát và hoạt động
chất vấn đối với các cơ quan tiến hành tố tụng tại địa phương để đảm bảo cho
các cơ quan này hoạt động có hiệu quả, đúng pháp luật.
d. Tổ chức tuyên truyền giáo dục thức pháp luật nhằm nâng cao trình
độ dân trí, hiểu biết và tuân thủ pháp luật của người dân, tránh tình trạng các
cơ quan có thẩm quyền áp dụng sai các quy định của pháp luật về tạm giữ đối
với họ.
e. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho
việc bắt, tạm giữ. Cải thiện chất lượng của Nhà tạm giữ, buồng tạm giữ của
Trại tạm giam.
C. KẾT LUẬN
Biện pháp ngăn chặn thể hiện sự chuyên chính của Nhà nước xã hội
chủ nghĩa trong việc đấu tranh trong chống tội phạm. Các biện pháp này bảo
đảm cho các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi; góp
phần quan trọng nâng cao hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng chống tội
phạm. Tuy vậy các biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp ngăn chặn
tạm giữ nói riêng ít nhiều còn nhiều hạn chế, làm cho hiệu quả áp dụng trong

thực tế chưa được cao. Cần sớm hoàn thiện các quy định để biện pháp ngăn
chặn tạm giữ và các biện pháp khác phát huy tích cực vai trò của nó trong
thực tiễn.



×