Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Thực trạng công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoai tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.35 KB, 11 trang )

LỜI MỞ ĐẦU :
Cùng với xu thế hội nhập, giao lưu kinh tế văn hoá xã hội giữa các quốc gia
ngày nay, số lượng các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngòai nói chung và số
lượng các bản án, quyết định được tuyên ở Tòa án của một nước nhưng cần
được thi hành ở một nước khác ngày càng tăng. Điều này dẫn đến nhu cầu
hợp tác giữa các nước để thoả thuận công nhận và cho thi hành của nhau các
bản án, quyết định dân sự, thương mại của Toà án nước ngoài. Việt Nam
cũng không nằm ngòai dòng chảy chung của thế giới, số lượng các bản án,
quyết định nước ngòai được yêu cầu công nhận và thực thi tại Việt Nam
ngày càng nhiều. Thực trạng những năm qua ở nước ta đã phản ánh công tác
này có những điểm tích cực và hạn chế nhất định. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là
phải tiếp tục hòan thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này cũng như
thực thi nghiêm túc trên thực tế những qui định đó.
NỘI DUNG :
1. Lí luận chung về Công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của
tòa án nước ngòai :
Theo qui định của Bộ luật tố tụng dân sự 2004, điều 342 : “1. Bản
án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài là bản án, quyết định về dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, quyết định về
tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Toà án nước ngoài
và bản án, quyết định khác của Toà án nước ngoài mà theo pháp luật của
Việt Nam được coi là bản án, quyết định dân sự.”
Xuất phát từ nguyên tắc chủ quyền quốc gia trong luật quốc tế các bản án,
quyết định dân sự của tòa án chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ quốc gia
nơi tòa án đã đưa ra các bản án, quyết định đó. Tuy nhiên, trên thực tế có
trường hợp người phải thực thi bán án, quyết định đó không có mặt trên lãnh
thổ quốc gia nơi tòa án ra quyết định hoặc tài sản phải được thi hành án đang
nằm trên lãnh thổ quốc gia khác. Vì vậy, yêu cầu bán án, quyết định đó phải
được công nhận và thi hành trên lãnh thổ quốc gia khác được đặt ra.
Khái niệm về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của nước
ngoài đã hình thành từ lâu trong tư pháp quốc tế, có thể hiểu đó là : một thủ


tục tố tụng đặc biệt do cơ quan có thẩm quyền của nước có bên phải thi hành
án tiến hành nhằm xem xét để công nhận tính hiệu lực của bản án, quyết
định dân sự của Toà án nước ngoài trên phạm vi lãnh thổ của nước mình.
Theo từ điển Luật học thì đó là : “Thừa nhận và cho phép thi hành bản án,
quyết định dân sự về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định
hình sự, hành chính của tòa án nước ngòai theo những nguyên tắc và trình
tự pháp lí nhất định”. Sau khi bản án, quyết định của nước ngoài đó đã được
xem xét và công nhận tính hiệu lực, nó sẽ được đảm bảo cưỡng chế thi hành
1


trên lãnh thổ của nước đã công nhận như bản án, quyết định của tòa án quốc
gia đó. Mục đích của việc yêu cầu Công nhận là ngăn ngừa một bên tranh
chấp tiếp tục khởi kiện vụ việc đã được giải quyết, mục đích của việc yêu
cầu Thi hành là công cụ hữu hiệu để buộc bên có trách nhiệm thi hành phải
thi hành đảm bảo khả năng thi hành các bản án, quyết định đã được cơ quan
tài phán nước ngoài tuyên.
Việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định về dân sự (hiểu
theo nghĩa rộng) của Toà án nước ngoài có một ý nghĩa quan trọng. Nó vừa
khẳng định chủ quyền của quốc gia vừa tăng cường hợp tác quốc tế giữa các
quốc gia trên lĩnh lực pháp luật; nó còn có ý nghĩa trong việc khắc phục
những khiếm khuyết của hệ thống pháp luật quốc gia và qui định này nhằm
đảm bảo những quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.
Đặc điểm của pháp luật về công nhận và thi hành bản án, quyết định
dân sự nước ngòai là nó vừa là một chế định luật tố tụng dân sự, mang đặc
điểm của pháp luật tố tụng, nó vừa là chế định trong các điều ước quốc tế về
tương trợ tư pháp nên nó mang đặc điểm của tư pháp quốc tế. Ngòai ra nó
còn có những đặc điểm riêng biệt : chế định này chỉ đặt ra sau khi đã có bản
án, quyết định có hiệu lực của tòa án nước ngòai; cả người được thi hành
hay buộc phải thi hành đều có thể nhận được sự trợ giúp của tòa án (tòa án

xem xét cả yêu cầu công nhận, cho thi hành và yêu cầu không công nhận và
thi hành của các bên); đây là thủ tục đặc biệt trao hiệu lực cho bản án, quyết
định được yêu cầu công nhận; nếu bản án, quyết định đã được công nhận và
thi hành thì nó có giá trị chứng cứ và chứng minh tại quốc gia đó.
Công nhận và thi hành bản án dân sự nước ngoài là cần thiết, tuy
nhiên để thực thi công tác này cần phải tuân theo những điều kiện riêng biệt
được qui định chặt chẽ trong các hiệp định quốc tế mà các quốc gia kí kết,
tham gia và pháp luật quốc gia.
2. Thực trạng công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa
án nước ngòai tại Việt Nam :
2.1. Thực trạng pháp luật về công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản
án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài :
Để bản án dân sự nước ngòai được công nhận và thi hành tại Việt Nam thì
cần có những điều kiện nhất định (về nội dung cũng như thủ tục, trình tự)
được qui định trong các văn bản pháp lí của Việt Nam. Có hai loại nguồn cơ
bản : các hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước; các văn
bản qui phạm pháp luật trong nước.
2.1.1. Các Hiệp định song phương về tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và
các nước.

2


Cho đến nay, Việt Nam đã ký kết với 14 nước Hiệp định song phương về
tương trợ tư pháp. Tất cả các Hiệp định song phương này đều có quy định về
công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của toà án nước ngoài.
a/ Phạm vi công nhận và thi hành: các bản án, quyết định của nước ngoài
được công nhận và cho thi hành bao gồm: bản án, quyết định dân sự; phần
dân sự trong bản án hình sự; các quyết định của Trọng tài thương mại. Đặc
biệt trong một số các Hiệp định tương trợ tư pháp ký với các nước còn phân

biệt các bản án, quyết định dân sự có tính chất tài sản và bản án, quyết định
không mang tính chất tài sản trong việc công nhận và cho thi hành. Ở đây có
thể hiểu việc Toà án xem xét công nhận và cho thi hành chủ yếu đặt ra đối
với các bản án, quyết định có tính chất tài sản và trong tương lai sẽ phải áp
dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành nếu người phải thi hành án không tự
nguyện thi hành.
b/ Điều kiện công nhận và thi hành: các Hiệp định đều quy định rất cụ thể
các điều kiện đặt ra đối với một bản án, quyết định để có thể được công nhận
và cho thi hành. Tựu chung lại có 3 điều kiện chính:
Thứ nhất, bản án, quyết định phải có hiệu lực pháp luật trên lãnh thổ nước
tuyên bản án, quyết định đó.
Thứ hai, bản án, quyết định được cơ quan có thẩm quyền tuyên.
Thứ ba, các thủ tục tố tụng (liên quan đến luật hình thức) phải được đảm
bảo.
c/ Đơn yêu cầu: việc công nhận và cho thi hành chỉ đặt ra khi có yêu cầu.
Việt Nam sẽ chỉ đặt ra việc xem xét công nhận và cho thi hành bản án, quyết
định của nước ngoài tại nước mình nếu có yêu cầu của đương sự có liên
quan hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước đã ra bản án, quyết định đó.
Theo các Hiệp định tương trợ tư pháp, đơn yêu cầu có thể gửi qua hai kênh:
- Qua kênh ngoại giao hoặc qua cơ quan tư pháp có thẩm quyền
- Các đương sự trực tiếp gửi đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành.
d/ Thủ tục xem xét đơn công nhận và thi hành: tất cả các Hiệp định đều quy
định Toà án là cơ quan xem xét và ra quyết định công nhận và thi hành bản
án, quyết định của nước ngoài. Ở đây, Toà án không xem xét lại nội dung
bản án, quyết định. Thẩm quyền tài phán của Toà án đã tuyên bản án, quyết
định được tôn trọng và bảo đảm. Thủ tục công nhận chỉ nhằm xem xét tính
khánh quan của quá trình ra bản án, quyết định đó.
e/ Các vấn đề về thi hành bản án, quyết định: Các Hiệp định tương trợ tư
pháp chủ yếu chỉ đề cập đến trình tự, thủ tục, điều kiện công nhận và thi
hành bản án, quyết định của các Bên ký kết. Các nội dung liên quan đến việc

cưỡng chế thi hành bản án, quyết định được hiểu là do pháp luật của nước
thi hành bản án, quyết định đó quy định.
2.1.2. Pháp luật trong nước.
3


Vấn đề công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự
của Toà án nước ngoài và quyết định của Trọng tài nước ngoài hiện đã được
điều chỉnh trong Bộ Luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004. Bộ luật đã
luật hoá hai Pháp lệnh trước đây điều chỉnh về vấn đề này. Phần thứ sáu của
Bộ luật tố tụng dân sự “Thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản
án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước
ngoài” với 31 điều (từ Điều 342 đến Điều 373) quy định một cách chi tiết
không chỉ về thủ tục, trình tự xét công nhận và cho thi hành mà cả các quy
định mang tính nguyên tắc cơ bản của việc công nhận và cho thi hành.
a. Về nguyên tắc công nhận và cho thi hành.
Theo quy định tại Điều 343 BLTTDS thì Toà án Việt Nam xem xét đơn yêu
cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của
Toà án nước ngoài và quyết định của Trọng tài nước ngoài theo 2 nguyên
tắc cơ bản:
- Thứ nhất,dựa trên cơ sở điều ước quốc tế: “a) Bản án, quyết định dân sự
của Toà án của nước mà Việt Nam và nước đó đã ký kết hoặc gia nhập điều
ước quốc tế về vấn đề này;” (Điểm a, Khoản 1 Điều 343 BLTTDS); “Toà
án Việt Nam xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của
Trọng tài nước ngoài trong trường hợp quyết định được tuyên tại nước hoặc
của Trọng tài của nước mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc
tế về vấn đề này.” (Khoản 2 Điều 343 BLTTDS).
- Thứ hai, dựa trên nguyên tắc có đi có lại: “Bản án, quyết định dân sự của
Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài cũng có thể được
Toà án Việt Nam xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam trên cơ sở

có đi có lại mà không đòi hỏi Việt Nam và nước đó phải ký kết hoặc gia
nhập điều ước quốc tế về vấn đề đó. (Khoản 3, Điều 343 BLTTDS). Đây là
nguyên tắc mới đối với việc công nhận và cho thi hành các bản án, quyết
định của Toà án nước ngoài. Trước đây, nguyên tắc có đi có lại mới chỉ đặt
ra cho việc công nhận và cho thi hành các quyết định dân sự của Trọng tài
nước ngoài
b. Về thủ tục và trình tự xem đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngòai :
- Giai đoạn nhận đơn, thụ lý đơn, yêu cầu giải thích và chuẩn bị việc xét đơn
yêu cầu (qui định tại điều 350, 352 BLTTDS)
- Phiên toà xét đơn:
Điều 355 BLTTDS qui định về những người tham gia tố tụng và tiến hành tố
tụng tại phiên tòa.
Sau khi xem xét đơn và các giấy tờ kèm theo, nghe ý kiến của người triệu
tập, của kiểm sát viên, Hội đồng xét đơn yêu cầu thảo luận và quyết định
(theo đa số) công nhận và cho thi hành hoặc quyết định không công nhận
4


bản án, quyết định của nước ngoài. Sau phiên toà sơ thẩm, quyền kháng cáo
của đương sự được đảm bảo theo quy định của pháp luật Việt Nam. Các đơn
kháng cáo, kháng nghị sẽ được Toà án nhân dân tối cao xem xét lại theo thủ
tục phúc thẩm.
c. Chú ý :
Điểm đặc biệt lưu ý là theo quy định tại Khoản 4 Điều 355 BTTDS là khi
xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của
Toà án, quyết định của Trọng tài nước ngoài, Toà án Việt Nam không được
xét xử lại vụ kiện mà chỉ xem xét xem các thủ tục về mặt tố tụng của việc
tuyên bản án,quyết định đó có đảm bảo không (chỉ xem xét các quy định của
luật hình thức mà không xem xét các quy định của luật nội dung).

2.2. Thực trạng công tác công nhận và thi hành bản án, quyết định dân
sự của Toà án nước ngoài tại Việt Nam :
Những năm gần đây, cùng với việc mở rộng và phát triển quan hệ quốc tế
nước ta đã và đang xuất hiện ngày một nhiều các vụ tranh chấp về dân sự mà
một bên đương sự là công dân, pháp nhân Việt Nam. Nhiều vụ án đã được
tòa án nước ngòai giải quyết và gửi bản án, quyết định đến Việt Nam kèm
theo đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.
2.2.1. Số liệu thống kê :
Theo thống kê của Bộ tư pháp (cơ quan đầu mối nhận hồ sơ) từ năm
1994 đến năm 2004, có khỏang 150 hồ sơ xin công nhận và cho thi hành bản
án, quyết định dân sự nước ngòai. Các đơn yêu cầu chủ yếu là của các công
dân Việt Nam đang làm ăn sinh sống tại Nga, Ucraina, Đức…đã được tòa án
Nga, Đức, Ucraina…xét xử cho ly hôn, nay một trong hai bên về nước làm
đơn yêu cầu công nhận bản án, quyết định của tòa án nước ngòai để kết hôn
với người khác ở Việt Nam. Các đơn này đã không được công nhận và cho
thi hành tại Việt Nam. Từ ngày có BLTTDS đến ngày 15.9.2008 Bộ tư pháp
thụ lí được 35 đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân
sự của tòa án nước ngòai (cụ thể là năm 2005 có 5 đơn, năm 2006 có 5 đơn,
năm 2007 có 16 đơn và năm 2008 có 9 đơn), nhìn chung, các đơn xin công
nhận còn rất hạn chế về số lượng. Trên thực tế cho thấy các đơn yêu cầu chủ
yếu là về công nhận và cho thi hành các bản án ly hôn của công dân Việt
Nam ở nước ngòai. Các bản án ly hôn thường là của các nước Trung Quốc,
Đài Loan, Mỹ, Đức, Nga.
2.2.2. Những hạn chế :
Pháp luật Việt Nam đã qui định khá cụ thể và phù hợp với những văn bản
pháp lí quốc tế về vấn đề công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự
nước ngòai. Tuy nhiên trên thực tế thực thi vẫn còn tồn tại những điểm hạn
chế nhất định, một phần do qui định của pháp luật vẫn còn chưa thực sự

5



hòan thiện, một phần do nhận thức và quá trình thực thi pháp luật của các
chủ thể có thẩm quyền còn hạn chế.
+ Trên thực tế xảy ra một vụ việc là : Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
đã nhận được đơn công nhận và cho thi hành quyết định công nhận thỏa
thuận ly hôn của Sở Sự vụ hành chính hộ tịch thị trấn Bắc Cảng, huyện Vân
Lâm, Đài Loan giữa anh Su Chia Lin và chị Nguyễn Thị Huệ ngày
26/8/2008. Trong vụ việc trên đặt ra một số vấn đề : giữa Việt Nam và Đài
Loan chưa có hiệp định tương trợ tư pháp, pháp luật Việt Nam chưa có qui
định về vấn đề tòa án Việt Nam có được công nhận và cho thi hành quyết
định của các cơ quan hành chính ở nước ngòai hay không ? Vì vậy, nếu ở
đây tòa án muốn công nhận và cho thi hành quyết định này thì có được áp
dụng tương tự pháp luật thông qua những qui định về vấn đề này trong
những hiệp định tương trợ tư pháp hay không (khỏan 2 điều 56 hiệp định với
Belarut, khỏan 2 điều 51 hiệp định với Nga, khỏan 2 điều 41 hiệp định với
Ucriaina…).
+ Hiện nay, khi xét đơn yêu cầu ở một số vụ việc xem xét công nhận
và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài và quyết
định của Trọng tài nước ngoài, một số Hội đồng xét đơn yêu cầu đã xem xét
luôn lại nội dung vụ kiện đó. Lỗi thường hay gặp phải là Hội đồng xét đơn
yêu cầu so sánh việc áp dụng luật của nước ngoài với pháp luật trong nước,
để xem lại nội dung vụ kiện có đúng với pháp luật của Việt Nam hay không,
sau đó mới ra quyết định công nhận và cho thi hành hay không công nhận.
+ Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong thủ tục xét đơn
yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của nước ngoài theo
pháp luật hiện này cũng còn lỏng lẻo. Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối, trực
tiếp tiếp nhận hồ sơ từ đương sự, thu lệ phí và có trách nhiệm như là “cầu
nối” giữa các cơ quan có thẩm quyền trong nước với cá nhân, tổ chức yêu
cầu thi hành án (phần lớn là ở nước ngoài). Tuy vậy, khi các Toà án tiến

hành thụ lý đơn cũng như trong quá trình xét xử, có một thực tế là các Toà
án hoàn toàn không có thông báo cũng như báo cáo Bộ Tư pháp về các hoạt
động của mình, dẫn đến việc Bộ Tư pháp hoàn toàn bị động trước các vấn đề
mà cá nhân, tổ chức nước ngoài hỏi hoặc yêu cầu. Về hướng dẫn giải quyết
các vụ việc này, Toà án nhân dân tối cao hiện nay cũng chưa quan tâm đúng
mức, dẫn đến tình trạng mỗi toà án giải quyết theo một kiểu, không nhất
quán và gây tâm lý không tốt cho các cá nhân, tổ chức nước ngoài.
+ Pháp luật Việt Nam qui định công tác công nhận và thi hành bản án
dân sự nước ngòai có thể dựa trên nguyên tắc có đi có lại (mà không cần
hiệp định tương trợ tư pháp) tuy nhiên, trên thực tiễn còn vướng mắc do
pháp luật chưa định ra được thẩm quyền, trình tự cũng như thủ tục cho việc
áp dụng nguyên tắc này.
6


Về vấn đề nêu trên, mặc dù pháp luật nước ta đã có quy định, song
nhận thức của các cơ quan nhà nước, cán bộ thực thi pháp luật, đặc biệt của
đại bộ phận nhân dân không thống nhất. Nhiều người cho rằng, nếu Nhà
nước cho phép (thậm chí cưỡng chế) chuyển tiền của công dân (pháp nhân)
Việt Nam ra nước ngoài để thi hành án, tức là chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi của
người nước ngoài mà không chú ý bảo vệ quyền lợi về tài sản của công dân
(pháp nhân) Việt Nam. Có thể nói, do bị ảnh hưởng bởi tư tưởng bao cấp,
nên lâu nay nhiều người vẫn quen với tâm lý được nhận hơn là phải trả. Cho
nên trên thực tế, trong thập kỷ 80 và 90, có nhiều bản án, quyết định của Toà
án nước ngoài được gửi đến Việt Nam yêu cầu công dân Việt Nam (chủ yếu
là đàn ông) thi hành quyết định về cấp dưỡng nuôi con, song chưa có một vụ
nào được thi hành. Thậm chí có người còn cho rằng, việc không phải chuyển
ra nước ngoài tiền và tài sản của công dân Việt Nam, là phù hợp với nguyên
tắc tôn trọng, bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, công dân và pháp nhân Việt
Nam. Đây là một sự nhận thức sai lầm, xuất phát từ tư tưởng “hại người lợi

mình”, ích kỷ, cần xem xét lại. Điều nguy hại hơn là nhiều Thẩm phán của
Toà án nhân dân cũng cùng một nhận thức như vậy. Vì thế nên đến nay, hầu
như chưa có một hoạt động chuyển tiền và tài sản nào từ Việt Nam ra nước
ngoài để thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài và quyết
định của Trọng tài nước ngoài theo các quy định nêu trên của pháp luật Việt
Nam.
Hoạt động công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án
nước ngoài và quyết định của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam trong thời
gian tới chắc chắn sẽ có phát sinh nhiều vụ việc đòi hỏi phải có sự thay đổi
cả về mặt quy định của pháp luật cũng như thực tiễn thực hiện để đáp ứng
nhu cầu thực tiễn của xã hội.
3. Các biện pháp hòan thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực công
nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngòai :
Trên cơ sở nhận thức những hạn chế còn tồn tại ở trên chúng ta có thể tham
khảo một số phương hướng hòan thiện sau :
3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật.
+ Hướng dẫn rõ nội hàm khái niệm “bản án, quyết định của tòa án nước
ngòai”. Thực tế cho thấy rằng, tại Việt Nam, “bản án, quyết định của tòa án
nước ngòai” không chỉ giới hạn là các bản án, quyết định trong lĩnh vực dân
sự của tòa án nước ngòai mà tòa án Việt Nam còn tiến hành công nhận và
cho thi hành cả những quyết định hành chính, tư pháp của cơ quan có thẩm
quyền khác của nước ngòai. Do vậy nội hàm của khái niệm “bản án, quyết
định của tòa án” được công nhận rộng hơn so với qui định tại điều 342
khỏan 2 BLTTDS. Trong các hiệp định tương trợ tư pháp, khái niệm này
cũng có nội hàm rộng hơn so với qui định của BLTTDS. Vì vậy, khái niệm
7


bản án, quyết định của tòa án nước ngòai cần phải được mở rộng hơn và qui
định cụ thể hơn trong các văn bản hướng dẫn về vấn đề này.

+ Hướng dẫn cụ thể nội dung một số nguyên tắc của công nhận và cho thi
hành bản án, quyết định của tòa án nước ngòai tại Việt Nam.
Tòa án Việt Nam có thể công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của
tòa án nước ngòai trên cơ sở “có đi có lại”, tuy nhiên việc áp dụng nguyên
tắc này không phải là điều dễ dàng. Vì vậy, bộ Ngọai Giao phải cùng phối
hợp với các cơ quan khác ban hành văn bản xác định nội dung, cơ chế, điều
kiện áp dụng nguyên tắc này cũng như danh sách các quốc gia có áp dụng
nguyên tắc “có đi có lại” với Việt Nam.
Về mặt lí luận cũng như thực tế, nội hàm của nguyên tắc không được trái với
trật tự công, trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam chưa
được làm rõ trong bất cứ văn bản pháp luật nào của Việt Nam. Nguyên tắc
này là một nội dung quan trọng trong pháp luật về công nhận và thi hành bản
án, quyết định nước ngòai ở Việt Nam, vì vậy, tòa án nhân dân tối cao cần
giải thích, hướng dẫn rõ hơn về nội hàm, tiêu chí của nguyên tắc này.
+ Cần phải qui định cụ thể hơn về lệ phí giải quyết yêu cầu công nhận và thi
hành bản án, quyết định của tòa án nước ngòai : qui định cụ thể về khỏan lệ
phí kháng cáo quyết định công nhận, cho thi hành; về lệ phí đã nộp trong
trường hợp đình chỉ giải quyết vụ việc hay trả lại đơn yêu cầu cho đương
sự…tránh tình trạng hiện nay do không có qui định cụ thể nên mỗi tòa lại có
cách thu khác nhau.
+ Hướng dẫn cụ thể về nội dung sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu, trả lại đơn,
khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với trả lại đơn. BLTTDS còn thiếu sót
khi chưa qui định rõ về việc trả lại đơn của tòa án. Trong khi pháp luật cho
phép Bộ tư pháp được trả lại đơn khi chưa có đầy đủ giấy tờ thì lại chưa qui
định rõ tòa án được quyền từ chối thụ lí trong những trường hợp nào. Việc
giải quyết khiếu nại cũng chưa được qui định rõ là sẽ giải quyết theo qui
định nào của BLTTDS. Vì vậy những nội dung này cần phải được làm rõ
trong những văn bản pháp luật hướng dẫn về công nhận và cho thi hành bản
án, quyết định của tòa án nước ngòai.
3.2. Tiếp tục kí kết mới các điều ước quốc tế và nội luật hóa những điều ước

quốc tế về lĩnh vực này :
Những vướng mắc trong công tác công nhận và thi hành bản án,quyết định
nước ngòai trong những năm qua chủ yếu là do Việt Nam có quá ít các hiệp
định tương trợ tư pháp với các quốc gia. Pháp luật của quốc gia nơi có bản
án, quyết định cần thi hành có những đặc thù mà việt nam không thể giải
quyết được triệt để, ngòai ra có những trường hợp pháp luật việt nam và
quốc gia đó có xung đột pháp luật thì việc công nhận và thi hành gần như
không thể thực hiện được. Trước thực tiễn đó đặt ra nhu cầu phải tiến hành
8


kí kết các điều ước song phương nhằm công nhận và thi hành các bản án,
quyết định của nhau cũng như giải quyết xung đột về thẩm quyền của các
tòa án. Đặc biệt Việt nam cần phải nhanh chóng kí kết điều ước quốc tế với
những quốc gia mà những năm gần đây có nhiều bản án, quyết định được
yêu cầu công nhận và thi hành như Đài loan, Mĩ, Đức, Hàn Quốc…
Việt Nam cần tiếp tục nội luật hóa những qui định trong các điều ước quốc
tế mà việt nam đã tham gia. Từ trước đến nay việt nam vẫn chưa có thói
quen áp dụng trực tiếp các điều ước quốc tế mà phải chuyển hóa vào các văn
bản của quốc gia để áp dụng. Điều này đã làm số lượng các văn bản mới
cũng như sửa đổi ngày càng nhiều, nhiều khi gây chồng chéo, mâu thuẫn.
Chính vì vậy, bên cạnh việc chuyển hóa vào luật trong nước, chúng ta nên
làm quen với cách thức áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế đó, chỉ cần ra
quyết định công nhận nội dung của một văn bản nào đó và hệ quả là nó đã
trở thành một bộ phận của luật quốc gia.
Ngòai việc tiếp tục hòan thiện hệ thống pháp luật thì một nhiệm vụ nữa cũng
vô cùng quan trọng đó là phải đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước
trong việc triển khai các giải pháp xây dựng và áp dụng pháp luật về công
nhận và cho thi hành các bản án, quyết định của tòa án nước ngòai tại việt
Nam.

KẾT LUẬN :
Trong xu thế tòan cầu hóa và hội nhập như hiện nay thì việc công nhận và
cho thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngòai có vai trò rất quan
trọng. Vì vậy, Việt Nam cần tiếp tục hòan thiện những qui định của pháp
luật về vấn đề này.
Với đề tài : “Đánh giá thực trạng công nhận và thi hành bản án, quyết định
dân sự của tòa án nước ngòai tại Việt Nam. Từ đó nêu lên các giải pháp
hòan thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này”, em mong đóng góp một
góc nhìn, quan điểm về vấn đề trên. Tuy nhiên, do kiến thức còn hạn chế,
chắc chắn bài viết còn nhiều khiếm khuyết, em rất mong nhận được sự góp ý
của các thầy cô giáo. Em xin chân thành cảm ơn!

9


TÀI LIỆU THAM KHẢO :
1. Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội năm 2009, Chương XII;
2. Đặng Trung Hà – Vụ hợp tác quốc tế, Bộ tư pháp, Công nhận và cho
thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước
ngòai, quyết định của trọng tài và những vấn đề đặt ra trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế, Nguồn : Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp
/>n420.uP?uP_root=me&cmd=item&ID=11641.
3. TS. Nông Quốc Bình, Nguyên tắc công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngòai, quyết định của
trọng tài nước ngòai, Tạp chí Luật học năm 2005, Đặc san về Bộ luật
tố tụng dân sự, trang 12;
4. ThS. Đặng Hòang Oanh, Những vấn đề thực tiễn về công nhận và thi
hành quyết định của trọng tài nước ngòai đã bị hủy tại nước gốc theo
công ước New York 1958 về công nhận và thi hành quyết định của

trọng tài nước ngòai, Tạp chí Luật học năm 2005, số 4 trang 56;

10


5. TS. Nguyễn Trung Tín, Về công nhận và thi hành tại Việt Nam bản
án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngòai, phán quyết của trọng
tài nước ngòai, Tạp chí Luật học năm 2006, số tháng 12 trang 50.
6. Viện khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao, Những vấn đề lí luận
và thực tiễn của công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án,
quyết định dân sự của tòa án nước ngòai, quyết định của trọng tài
nước ngòai , Chuyên đề khoa học xét xử.

11



×