Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Ảnh hưởng của nguyên tắc tự do biển cả đối với việc hình thành quy chế các vùng biển theo Công ước 1982.các vùng biển theo Công ước 1982

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.29 KB, 14 trang )

BÀI LÀM
Là một ngành của Luật quốc tế, Luật biển hình thành và phát triển dựa trên
những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế nói chung.Tuy nhiên biển là một lĩnh
vực có những điểm đặc thù cho nên Luật biển cũng có những nguyên tắc riêng,
đặc trưng của mình. Và nguyên tắc tự do biển cả chính là một trong số đó. Nguyên
tắc tự do biển cả được hình thành từ lâu đời của luật biển có sự ảnh hưởng lớn tới
việc hình thành quy chế pháp lý các vùng biển theo quy định của Công ước luật
biển 1982
1.

Nguyên tắc tự do biển cả.
Đây là một nguyên tắc cơ bản, hình thành từ lâu đời của Luật biển. Sở dĩ nói như
vậy bởi vì nguyên tắc tự do biển cả là một trong các nguyên tắc cơ bản của Luật
quốc tế hiện đại “bắt nguồn từ các tập quán quốc tế và các học thuyết lớn về biển
qua quá trình pháp điển hóa luật biển” (1)
Theo đó, biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia được khai thác, sử dụng và
quản lí. Điều 87Công ước Luật biển 1982 có quy định : “Biển quốc tế được để
ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù có biển hay không có biển”.
Theo đó, biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia, có biển hay không có biển
được khai thác, sử dụng và quản lý. Riêng Công ước Luật biển 1982 đã tạo ra cơ
sở pháp lý để các quốc gia được thực hiện quyền tự do biển cả trong nhiều lĩnh
vực khác nhau. Do vậy, không có quốc gia nào được áp đặt chủ quyền của mình
lên bất cứ một vùng nào đó của biển cả. Hay nói cách khác, tất cả các quốc gia
đều được hưởng quyền tự do trong biển cả.
Các quyền này bao gồm: tự do hàng hải; tự do đánh bắt hải sản; tự do đặt các dây
cáp và ống dẫn ngầm; tự do hàng không; tự do hàng không; tự do nghiên cứu
________________________
(1) Xem : “ Luật biển quốc tế hiện đại”, T.S Lê Mai Anh ( chủ biên). Nhà xuất bản Lao động xã
hội, tr. 30

1




khoa học biển; tự do xây dưng các đảo nhân tạo và các thiết bị khác được pháp
luật cho phép.
Chúng ta biết rằng, đối với Luật biển quốc tế không chỉ có các vùng biển được đặt
dưới chủ quyền và quyền chủ quyền của các quốc gia ven biển mà Biển cả cũng là
một vùng biển tồn tại song hành cùng các vùng biển đó.
Trong Luật biển quốc tế, Biển cả tồn tại tất yếu khách quan song hành cùng các
vùng biển đặt dưới chủ quyền và quyền tài phán của nước ven biển.
Do đặc trưng không thuộc sở hữu của bất kì quốc gia nào, quy chế pháp lí của
biển cả là quy chế tự do: Thừa nhận sự ngang nhau về quyền và lợi ích của mọi
quốc gia trên biển và không có sự phân biệt đối xử dựa trên vị trí và hoàn cảnh địa
lý của mọi quốc gia khi tham gia sử dụng và khai thác biển cả.
Từ nguyên tắc của luật tập quán, tự do biển cả tồn tại trong luật biển quốc tế hiện
đại với tính chất là nguyên tắc pháp lý được thừa nhận rộng rãi. Trong lịch sử,
nguyên tắc này trải qua những thời kì phát triển khác nhau. Cho đến nay, nguyên
tắc tự do biển cả vẫn ngày càng được củng cố và phát triển về nội dung. “Về nhiều
phương diện, nguyên tắc này đồng nghĩa với việc không cho phép bất cứ quốc gia
nào có quyền được đặt một phần nào đó của biển cả nằm dưới quyền tài phán của
quốc gia mình” (2)
Theo quy định của các công ước về luật biển, nguyên tắc tự do biển cả được cụ
thể hóa thành các quyền tự do cơ bản, là cơ sở để hình thành quy chế pháp lý của
biển cả và Vùng. Các quốc gia khi sử dụng biển cả đều được bình đẳng như nhau
trong việc hưởng những quyền tự do này. Trong luật biển quốc tế , những quyền
tự do trên biển cả xuất phát từ nguyên tắc tự do biển cả bao gồm:
1.1 Tự do hàng hải:
Quyền tự do hàng hải được bắt nguồn từ tập quán và thuyết tự do biển cả của
________________________
(2) Xem: “ Giáo trình Luật Quốc tế”. Trường đại học Luật Hà Nội. Nhà xuất bản Công an nhân
dân, tr. 182


2


Hugo Grotius. Đây là quyền tự do truyền thống và quan trọng nhất phân biệt tính
chất pháp lý của biển cả với những vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán
của quốc gia ven biển và liên quan trực tiếp đến tàu thuyền mang quốc tịch của
các quốc gia. Khi hoạt động trong vùng biển cả, nguyên tắc tự do biển cả có ý
nghĩa tạo cho tàu thuyền một nước nhất định không phải chịu sự tài phán của một
quốc gia khác, trừ quốc gia mà tàu mang quốc tịch. Theo quy chế tự do này, tàu
thuyền quân sự của mỗi quốc gia hoạt động trên biển, quốc tế, bên cạnh quyền
miễn trừ tư pháp còn được thực hiện quyền tài phán đối với tàu thuyền vi phạm
của nước mình hoặc những tàu thuyền có các hành vi vi phạm theo quy định của
Công ước luật biển 1982 ( khoản 1 Điều 110 Công ước)
1.2 Các quyền khác của nguyên tắc tự do biển cả
Luật biển quốc tế hiện đại ghi nhận rằng: Biển cả được để ngỏ đối với tất cả
các quốc gia ( dù là quốc gia có biển hay không có biển). Điều này có nghĩa là các
quốc gia có có những quyền tự do trong sử dụng biển cả như trong hưởng lợi ích
từ biển cả( Ví dụ như Lào, tuy không có biển nhưng vẫn có quyền tự do biển cả
như các nước ven biển khác). Đó là những quyền tự do hàng không, tự do đặt dây
cáp và ống dẫn ngầm, tự do xây dựng các đảo nhân tạo, tự do nghiên cứu khoa
học, tự do đánh bắt hải sản…
Các quyền tự do này được thực hiện trong khuôn khổ quy định của Luật biển quốc
tế chứ không phải là sự tự do không có hạn chế hoặc tùy tiện trong sử dụng biển
cả.
2.

Ảnh hưởng của nguyên tắc tự do biển cả đối với việc hình thành quy chế
các vùng biển theo Công ước 1982.
Nguyên tắc tự do biển cả đóng vai trò là cơ sở pháp lý cho việc xác định và

thiết lập chế độ pháp lý của các vùng biển khác nhau. Ở đây có thể thấy, ở các
vùng biển khác một số quyền tự do tương tự quyền tự do biển cả cũng được thừa
nhận như quyền tự do hàng hải, tự do hàng không, tự do lắp đặt dây cáp và ống
dẫn ngầm ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Ngoài ra, nguyên tắc này còn
đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh pháp lý đối với các hoạt động khai
3


thác tài nguyên thiên nhiên ở biển cả và đáy đại dương. Mặt khác, nguyên tắc tự
do biển cả là cơ sở pháp lý để giải quyết các vấn đề về khai thác tài nguyên thiên
nhiên ở thềm lục địa, đáy biển và vùng đặc quyền kinh tế. Cuối cùng, nguyên tắc
này cũng là cơ sở để thiết lập chế độ bay tự do trên biển cả và eo biển quốc tế theo
quy chế của không phận quốc tế.
Như vậy, nội dung của nguyên tắc này được thể hiện trong quy chế các vùng biển
không chỉ có Biển cả mà các vùng biển khác cũng vậy. Đó là các vùng biển thuộc
chủ quyền, quyền chủ quyền của quốc gia, các vùng biển đặc thù…với các quyền
tự do biển cả nhất định.
Công ước luật biển năm 1982 đã định ra khung pháp lý cho các quốc gia
trong việc xác định các vùng biển và Quy chế pháp lý của chúng; xác định ranh
giới, biên giới trên biển giữa các quốc gia. Theo Công ước thì mỗi quốc gia ven
biển có năm vùng biển, bao gồm: nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Ngoài năm vùng biển thuộc chủ quyền và
quyền chủ quyền của quốc gia ven biển ra thì Công ước còn quy định các vấn đề
về Biển cả và Vùng (di sản chung của loài người), trên đó tất cả các quốc gia đều
có quyền tự do sử dụng, khai thác, v.v… với điều kiện không làm phương hại
hoặc đe doạ làm phương hại tới các nước khác, vì mục đích hoà bình và bảo vệ,
giữ gìn môi trường biển. Nguyên tắc tự do biển cả ảnh hưởng đến quy chế pháp lý
các vùng biển trong Công ước với xu hướng mở rộng ra biển cả. Hay nói cách
khác, các quyền tự do biển cả thu hẹp dần từ Vùng, biển cả (biển quốc tế) vào các
vùng quốc gia có quyền chủ quyền và cuối cùng là các vùng biển thuộc chủ quyền

của quốc gia ven biển.
2.1 Biển cả ( high sea ) và Vùng (the area)
Vùng: là phạm vi bên dưới biển cả (đáy đại dương) hay còn gọi là Vùng. Vùng và
tài nguyên nằm dưới đáy biển cả và lòng đất dưới đáy biển cả là di sản chung của
nhân loại. Ở đây, không một quốc gia nào có thể đòi hỏi thực hiên chủ quyền hay
quyền chủ quyền đối với một phần nào đó của Vùng hoặc đối với tài nguyên của
Vùng. Nói cách khác , mọi hoạt động trong vùng được tiến hành vì lợi ích của
4


toàn thể loài người mà không thuộc quyền riêng của bất kì quốc gia nào.Việc kiểm
soát khai thác tài nguyên khoáng sản tại các lòng biển sâu nằm ngoài thẩm quyền
quốc gia, được thực hiện qua Ủy ban đáy biển quốc tế (International Seabed
Authority). (Điều 136 Công ước)
Biển quốc tế ( biển cả) : Quy định tại Điều 86 Công ước
Biển quốc tế là vùng thể hiện nguyên tắc tự do biển cả một cách rõ ràng nhất
bởi nguyên tắc này có tính chủ đạo, bao trùm và được coi là nền tảng pháp lý của
chế độ nghiên cứu, khai thác và sử dụng biển cả.
Điều 87 Công ước Luật biển 1982 quy định: “Biển quốc tế được để ngỏ cho tất
cả các quốc gia, dù có biển hay không có biển”. Do đó, nguyên tắc tự do biển cả
xác định rõ biển cả là tự do và được dành cho tất cả các quốc gia tự do nghiên
cứu, sử dụng và khai thác và công dân của các quốc gia đó mà không phân biệt
quốc gia có biển hay không có biển. Thế nhưng các quốc gia phải thực hiện quyền
tự do trong những điều kiện mà các quy định của Công ước và những quy phạm
khác của luật quốc tế quy định nhằm bảo đảm quyền lợi chung của cộng đồng.
Bởi vậy, mỗi một quốc gia khi thực hiện quyền tự do của mình trong biển cả đều
phải tôn trọng quyền lợi của các quốc gia khác.
Tự do biển cả tại vùng biển quốc tế theo Công ước Luật biển 1982 bao gồm các
quyền :
- Tự do hàng hải;

- Tự do hàng không;
- Tự do đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm;
- Tự do xây dựng các đảo nhân tạo và các thiết bị khác được pháp luật quốc tế
cho phép;
- Tự do đánh bắt hải sản;
- Tự do nghiên cứu khoa học.
Như vậy, so với quy định trước đây của Công ước Giơnevơ 1958 về biển cả, Công
ước Luật biển 1982 đã bổ sung thêm quyền quyền tự do nghiên cứu khoa học và

5


tự do xây dựng các đảo nhân tạo và các thiết bị khác được pháp luật quốc tế cho
phép. Điều này được xuất phát từ nhu cầu phát triển khoa học kĩ thuật.
Theo đó, tại vùng biển này , tất cả các quốc gia có quyền tự do hàng hải; tự
do bay; tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm; tự do đánh bắt; tự do nghiên cứu khoa
học; tự do lắp đặt các đảo nhân tạo, công trình, thiết bị trên biển đồng thời có các
nghĩa vụ trấn áp buôn bán nô lệ; trấn áp buôn bán, vận chuyển, mua bán chất ma
tuý; trấn áp tất cả các hoạt động phát sóng không được phép từ biển cả; trấn áp
cướp biển; bảo vệ môi trường.
Các quốc gia ven biển có quyền truy đuổi: việc truy đuổi có thể ra đến biển
cả, chỉ chấm dứt khi nó chạy vào lãnh hải của quốc gia khác; việc truy đuổi phải
liên tục nhưng không nhất thiết bằng một con tàu, phương tiện của mình mà có
quyền liên hệ với các phương tiện khác để truy đuổi; lực lượng truy đuổi phải
chính quy.
Quốc gia ven biển có quyền can thiệp ở biển cả, và bắt giữ, sử dụng các biện
pháp nhằm ngăn chặn ô nhiễm môi trường biển.
Như vậy, tại vùng biển quốc tế là thì nguyên tắc tự do biển cả được áp dụng một
cách triệt để, thể hiện ở các quyền tự do được thực hiện theo như quy định của
Công ước 1982. Và càng đi sâu vào đất liền, nguyên tắc tự do biển cả càng bị thu

hẹp hơn.
2.2

Các vùng biển thuộc quyền chủ quyền của quốc gia:
Kế tiếp với vùng biển quốc tế, đây là các vùng nằm phía trong và gần với
đất liền hơn. Chính vì vậy, đây cũng là vùng biển có ảnh hưởng lớn của nguyên
tắc tự do biển cả chỉ sau vùng biển quốc tế.
Trong vùng đặc quyền kinh tế (exclusive economic zone), Các quốc gia
khác có các quyền tự do biển cả như: quyền tự do hàng hải; quyền tự do bay;
quyền tự do lắp đặt dây cáp, ống dẫn ngầm; các quyền tự do khác phù hợp với quy
định của Công ước. ( Điều 58 Công ước)

6


Trong vùng tiếp giáp lãnh hải (contiguous zone), các quốc gia khác và tàu
thuyền nước ngoài được hưởng các quyền tự do hàng hải, tự do hàng không, tự do
đătt dây cáp và ống dẫn ngầm tại vùng tiếp giáp giống như tại vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa . Trường hợp tàu thuyền nước ngoài chỉ đi qua vùng tiếp
giáp mà không vào các vùng biển thuộc quyền quốc gia hoặc không phải từ các
vùng biển chủ quyền quốc gia đi ra thì k phải chịu sự kiểm tra, kiểm soát của quốc
gia ven biển.
Theo công ước 1958, vùng tiếp giáp lãnh hải là một phần của biển cả. Theo Công
ước 1982, vùng này nằm trong vùng đặc quyền về kinh tế có quy chế của một
vùng “đặc biệt”, không thuộc quyền chủ quyền quốc gia và cũng không thuộc
vùng biển có quy chế tự do biển cả.
Trong thềm lục địa (continental shelf), Đối với các quốc gia khác trên thềm
lục địa có các quyền về tự do hàng hải; tự do bay; tự do đặt dây cáp, ống dẫn
ngầm song phải có sự thông báo trước với quốc gia ven biển.
Bản chất pháp lý của thểm lục địa theo Công ước được xác định trên

nguyên tắc “đất thống trị biển”; quyền chủ quyền của quốc gia trên thềm lục địa là
chủ quyền đương nhiên và ngay từ ban đầu (có quốc gia ven biển là có thềm lục
địa), nó không phụ thuộc vào bất kỳ sự chiếm hữu thật sự hay danh nghĩa nào.
Điều này khác với vùng đặc quyền kinh tế, tại vùng đặc quyền kinh tế nếu quốc
gia ven biển khai thác không hết thì các quốc gia khác có quyền yêu cầu khai thác
phần còn lại dư ra, còn thểm lục địa thì các quốc gia khác không có quyền này.
Đây là một đặc quyền mà nếu quốc gia ven biển không khai thác thì không
ai có quyền thực hiện nếu không có sự đồng ý của quốc gia ấy. Tuy vậy, luật biển
dành cho quốc gia ven biển mấy đặc quyền kể trên thì luật biển cũng đã dung hòa
quyền lợi cho tất cả các nước khác bằng các quyền tự do như trên.
Kế tiếp vùng quốc gia ven biển có quyền chủ quyền là vùng biển thuộc chủ
quyền của quốc gia.
2.3

Các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia
Lãnh hải (territorial sea):
7


Tại lãnh hải, tàu thuyền nước ngoài được quyền đi qua vô hại (right of innocent
passage). Đây là quyền tự do hàng hải trong nội dung của nguyên tắc tự do biển
cả. Chính vì quyền này mà các quốc gia ven biển được quyền thực hiện chủ quyền
hoàn toàn và đầy đủ nhưng không là tuyệt đối trong vùng lãnh hải. Quyền này cho
phép các nước khác có quyền đi qua vùng lãnh hải của quốc gia ven biển không
phải xin phép trước với điều kiện họ không tiến hành bất cứ hoạt động gì gây ra
thiệt hại cho quốc gia đó (như: đe dọa hoặc dùng vũ lực chống lại chủ quyền, độc
lập, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia ven biển; luyện tập, diễn tập vũ khí; thu thập
tin tức tình báo; tuyên truyền nhằm làm hại đến nước ven biển; xếp dỡ hàng hóa,
đưa người lên xuống tàu trái quy định của nước ven biển; cố ý gây ô nhiễm môi
trường; đánh bắt hải sản; nghiên cứu đo đạc; làm rối loạn hoạt động giao thông

liên lạc; thực hiện mọi hoạt động khác không liên quan đến việc đi qua...).
Ở đây đã có sự thay đổi về mức độ ảnh hưởng của nguyên tắc tự do biển cả
một cách rõ ràng do tính chất của vùng này là vùng biển thuộc thuộc chủ quyền
quốc gia. Do vậy, quốc gia có chủ quyền rất lớn đối với vùng biển này. Cụ thể
như:
- Quốc gia ven biển được quyền thực hiện quyền tài phán hình sự, dân sự với một
số điều kiện hạn chế quy định tại Điều 27, Điều 28 Công ước luật biển 1982.
- Quốc gia ven biển lại có quyền áp dụng các biện pháp trừng phạt hay bảo đảm
về mặt dân sự hay hình sự trong nước của quốc gia ven biển quy định đối với một
tàu thuyền nước ngoài đang đậu trong lãnh hải hay đi qua lãnh hải sau khi đã rời
khỏi nội thuỷ. Tại đây, quốc gia ven biển được vận dụng quyền truy đuổi ra ngoài
ranh giới lãnh hải.
Tuy nhiên, thực tiễn các quốc gia trong đó có Việt Nam không công nhận quyền
đi qua không gây hại trong lãnh hải của mình.

Nội thủy (internal waters):
Tại vùng nội thủy (từ đường cơ sở mà quốc gia đó xác định vùng lãnh hải của
mình trở vào) , nguyên tắc tự do biển cả đã thể hiện sự thu hẹp rõ ràng nhất. Tại
8


đây, chủ quyền quốc gia ven biển đối với vùng này là chủ quyền tuyệt đối, hoàn
toàn và đầy đủ như trên đất liền. Các quyền tự do như các vùng trên đã được thay
thế bởi các quyền tuyệt đối, hoàn toàn, đầy đủ của riêng quốc gia ven biển mà
không có sự ngoại lệ. Có thể thấy rõ điều này qua việc các quốc gia có biển được
tự do trong việc áp dụng luật pháp của mình trong việc điều chỉnh bất kỳ việc sử
dụng nào liên quan tới nội thủy cũng như các nguồn tài nguyên trong đó. Tàu
thuyền nước ngoài không có quyền tự do đi qua vùng nội thủy, kể cả qua lại
không gây hại. Do đó, Để đi vào vùng nội thủy, tàu thuyền nước ngoài phải xin
phép cơ quan chức năng có thẩm quyền và chỉ được đi lại theo đúng hành trình đã

được cấp phép.
Ngoài ra còn có các vùng biển đặc thù
Nguyên tắc tự do biển cả không chỉ tác động tới quy chế pháp lý các vùng biển
quốc tế như trên mà đối với các vùng biển đặc thù của Luật quốc tế cũng không
ngoại lệ.
Đối với các vùng biển này do có những điểm đặc thù hơn nên việc xác định
mức độ ảnh hưởng của nguyên tắc tự do biển cả không thể xác định theo các vùng
biển như trên, đó là sự thu hẹp dần từ phía biển cả tới đất liền. Tuy nhiên, nội
dung của nguyên tắc này vẫn được thể hiện rõ trong các quy chế pháp lý của
chúng.
Thứ nhất, trong vùng nước quần đảo.
Ở đây, vùng nước quần đảo cũng tương tự như vùng nội thủy của các quốc gia
ven biển. Nó chỉ khác ở chỗ vùng nước được tạo thành phía trong đường cơ sở
của quốc gia quần đảo, do đó không phải có chế độ qua lại không gây hại như
vùng nội thủy.
Trong vùng nước quần đảo thì các quốc gia quần đảo đều phải có nghĩa vụ tôn
trọng các dây cáp ngầm hiện có của các quốc gia khác đặt, đi qua ( không đụng
chạm đến bờ biển của quốc gia quần đảo). Bên cạnh đó, tàu thuyền của các quốc
gia khác được hưởng quyền đi qua vô hại đối với vùng nước quần đảo , cũng như
quyền quá cảnh theo hàh lang hàng hải tại vùng nước này.
9


Thứ hai, các eo biển quốc tế :
Theo nhiều học giả, nguyên tắc tự do biển cả có tác động và ảnh hưởng tới
quy chế pháp lí của các eo biển, đặc biệt là các eo biển nối liền biển cả hoặc vùng
quốc tế với nhau và được sử dụng cho hàng hải quốc tế .
Đồng thời, tại đây áp dụng nguyên tắc quá cảnh cho cả tàu thuyền và phương
tiện bay. Quyền “quá cảnh” ở đây khác với đi qua không gây hại trong lãnh hải
các quốc gia ven biển và gần giống qua lại không gây hại của vùng nước quần

đảo (ở đây tàu thuyền không bị đình chỉ đi trong một số trường hợp, tàu ngầm
quân sự có thể đi qua ở tư thế chìm và phương tiện bay quân sự cũng như dân sự
đều có quyền này, có quyền bay qua vùng trời của eo biển quốc tế ). Và từ vụ eo
biển Corfou ngày 09/4/1949 giữa Anh và Albani thì quy chế các eo biển bắt đầu
được pháp điển hóa với việc quy định quyền quá cảnh trong các eo biển quốc tế.
Như vậy, trải qua những thời kì phát triển khác nhau ( từ thời kì đấu tranh giữa
học thuyết Res communis- thuyết Res nullis và thuyết tự do cuả Hugo Grotius với
thuyết biển đóng của Jonh Selden cho tới khi được pháp điển hóa) nguyên tắc biển
cả đã được hình thành. Trong luật biển quốc tế hiện đại, nó càng đóng vai trò lớn
trong việc hình thành quy chế các vùng biển quốc tế. Với vai trò là cơ sở pháp lý
thiết lập các chế độ pháp lý các vùng biển, nó còn có ý nghĩa là duy trì trong đó
hoạt động của các đối tượng khi sử dụng biển. Bởi vì biển là không gian mở đối
với các quốc gia cho nên khi chia thành các quy chế pháp lý khác nhau không có
sự chia cắt hay hoàn toàn độc lập với nhau giữa các vùng. Mà trên cơ sở phân
chia, luật biển quốc tế vừa đảm bảo các quyền tự do cơ bản trong luật biển quốc tế
truyền thống đó là lợi ích chung của cả cộng đồng quốc tế, đồng thời có sự bình
đẳng giữa các quốc gia với nhau trong việc được hưởng lợi ích của biển.
Như vậy, nguyên tắc này chính là một công cụ hữu hiệu bảo đảm được tất cả
các lợi ích chung của các đối tượng khi tham gia sử dụng biển.

10


3. Kết luận chung
Ngày nay, nguyên tắc tự do biển cả không chỉ coi là nền tảng hình thành nên
quy chế pháp lý các vùng biển quốc tế mà nó còn hướng tới việc tuân thủ bảo vệ
các nguồn lợi của biển cả. Trước đây, khi các nước chưa nhận thức được các
nguồn lợi của biển không phải là hữu hạn thì việc tranh chấp rất ít khi xảy ra. Sau
khi nhận thấy các lợi ích biển và đại dương cũng như tính không tồn tại vô hạn
của chúng thì các quốc gia thường có xu hướng mở rộng quyền lợi của mình ra

biển.
Bởi vậy, Luật biển quốc tế từng bước phát triển để nhằm mục đích chủ yếu là
phân chia chủ quyền trên biển, việc sử dụng, khai thác biển, bảo vệ môi trường
biển và hợp tác giữa các quốc gia trong các lĩnh vực này. Nước ven biển luôn
muốn mở rộng chủ quyền của mình trên biển và các đảo; còn quốc gia không có
biển, từ xa đến thì muốn được tự do trên biển về các mặt đi lại, sử dụng, nghiên
cứu, thăm dò, khai thác... Hai khuynh hướng này đối lập nhau. Khuynh hướng của
các nước phát triển thường không tán thành việc thu hẹp biển cả để tạo điều kiện
cho phạm vi hoạt động về mọi mặt của họ được tự do, rộng rãi. Trong khi đó, các
nước có biển thì luôn đấu tranh đẩy biển cả ra xa hơn để hạn chế hoạt động của
các nước phát triển.
Như vậy, nguyên tắc tự do biển cả đóng một vị trí, vai trò hết sức quan trọng, một
mặt hạn chế xu thế mở rộng thái quá chủ quyền của các quốc gia ven biển, mặt
khác duy trì quyền lợi truyền thống của quốc gia trong biển cả và các vùng biển
thuộc chủ quyền cũng như quyền chủ quyền của họ. Ở đây, cũng thấy sự phù hợp
giữa nguyên tắc tự do biển cả và nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền của các quốc
gia, với nguyên tắc các quốc gia ven biển có nghĩa vụ hợp tác với nhau ( phân
định các vùng biển chống lấn, các lối ra biển cho quốc gia không có biển, khai
thác nguồn lợi dư thừa của vùng đặc quyền kinh tế, việc khai thác và đặt dây cáp,
ống dẫn ngầm ở thềm lục địa, các quốc gia hợp tác với nhau và với Cơ quan
quyền lực về đáy biển để thực hiện việc khai thác tài nguyên trong Vùng. Đồng
11


thời hợp tác ngăn chặn, trừng trị các loại tội phạm ở biển cả như cướp biển, buôn
bán hàng lậu, trái phép, ma túy… đặc biệt các quốc gia cần có sự hợp tác để giải
quyết các vấn đề về môi trường biển).
Có thể nói, nguyên tắc tự do biển cả đã có sự ảnh hưởng rất lớn tới việc hình
thành quy chế pháp lý các vùng biển. Trong Công ước Luật biển 1982, các vùng
biển đều chịu sự ảnh hưởng của nguyên tắc này với các nội dung là quyền tự do

được nêu trên và mức độ ảnh hưởng cũng rất lớn. Tuy nhiên, để bảo đảm cho
quyền lợi truyền thống của quốc gia trên biển, các quy chế pháp lý thường có xu
hướng thu hẹp dần các quyền tự do biển cả. Trong khi đó, xu hướng chung các
quốc gia ven biển lại muốn mở rộng quyền quốc gia ra biển cả. Nói cách khác,
các quốc gia tuy có quyền tự do nhưng không phải là tự do “ tùy tiện” mà phải
trong khuôn khổ Luật biển quốc tế.

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Công ước Luật biển năm 1982.

2.

Trường Đại học Luật Hà Nội, “ giáo trình Luật quốc tế”. Nhà xuất bản

Công an nhân dân. Hà Nội, 2004. tr 182-183
3.

T.S Trần Văn Thắng – Th.S Lê Mai Anh, “ Luật quốc tế Lí luận và thực

tiễn”. Nhà xuất bản Giáo dục. Hà Nội, 2001
4.

T.S Lê Mai Anh, “ Luật Biển quốc tế hiện đại”. Nhà xuất bản Lao động-


xã hội. Hà Nội, 2005, tr. 30-35
5.

T.S Nguyễn Hồng Thao “ Những điều cần biết về luật biển”. Nhà xuất

bản công an nhân dân, Hà Nội, 1997
6.

Công ước 1982 của Liên hợp quốc về Luật Biển. Nhà xuất bản Thành

phố Hồ Chí Minh
5.

Luật sư, TS Hoàng Ngọc Giao (chủ biên) , “ Sổ tay pháp lí cho người đi
biển”. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2002

13


MỤC LỤC
Trang
1. Nguyên tắc tự do biển cả ………………………………………………………. 01
1.1 Tự do hàng hải…………………………………………………………………...02
1.2 Các quyền tự do khác của nguyên tắc tự do biển cả……………………………..03
2. Ảnh hưởng của nguyên tắc tự do biển cả trong việc hình thành quy chế các
vùng biển theo công ước 1982……………………………………………………...03
2.1 Biển cả và Vùng………………………………………………………………….04
2.2 Các vùng biển thuộc quyền chủ quyền của quốc gia……………………………..06
2.3 Các vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia……………………………………07
3. Kết luận chung……………………………………………………………………11


14



×