Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Vai trò của sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.99 KB, 22 trang )

Đặt vấn đề:

A)

Đối với nước ta hiện nay, thực hiện việc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là một mơ thức khơng có
tiền lệ thì việc địi hỏi phải củng cố và hoàn thiện một hệ thống lý luận khoa
học sắc bén, trong đó có lý luận về vấn đề sở hữu là tất yếu khách quan. Nó
khơng chỉ là kim chỉ nam cho hành động kinh tế của đất nước, mà cịn góp
phần giải quyết, tháo gỡ vướng mắc, khắc phục sai lầm lệch lạc của thực tiễn
quản lý điều hành phát sinh vì sự hồn thiện của chế độ sở hữu XHCN, từ đây
tạo ra cái nền vật chất pháp lý cho cơng cuộc cơng nghiệp hố hiện đại hoá
đất nước, phấn đấu cho mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh. Và sở hữu tư nhân là một yếu tố góp phần khơng nhỏ đối với sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Từ những vấn đề cịn nhiều khúc mắc đó, bài tập lớn học kỳ của em xin đi
vào làm rõ về sở hữu tư nhân cũng như vai trò của nó trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
B)
I)
1.
a)

Giải quyết vấn đề:
Sở hữu tư nhân.
Khái niệm và sự hình thành sở hữu tư nhân.
Các khái niệm có liên quan.
- Như thế nào là sở hữu?

Theo quan điểm của Mác xít khái niệm gốc của sở hữu là "Sự chiếm hữu".
Theo đó: Sở hữu là hình thức xã hội - lịch sử nhất định của sự chiếm hữu, cho


nên có thể nói: Sở hữu là phương thức chiếm hữu mang tính chất lịch sử cụ
thể của con người, những đối tượng dùng vào mục đích sản xuất và phi sản
xuất. Sở hữu luôn luôn gắn liền với vật dụng - đối tượng của sự chiếm hữu.
Đồng thời sở hữu khơng chỉ đơn thuần là vật dụng, nó còn là quan hệ giữa
con người với nhau về vật dụng.


-

Các hình thức sở hữu:

Hình thức đầu tiên, là cơng hữu, sau đó do sự phát triển của lực lượng sản
xuất, có sản phẩm dư thừa, có kẻ chiếm làm của riêng xuất hiện tư hữu. Đó là
hai hình thức sở hữu cơ bản thể hiện ở nước đó, quy mô và phạm vi sở hữu
khác nhau, phụ thuộc vào trình độ lực lượng sản xuất và lợi ích của chủ sở
hữu chi phối. Chẳng hạn, công hữu thể hiện thơng qua sở hữu nhà nước, sở
hữu tồn dân. Ngồi ra cịn có hình thức sở hữu hỗn hợp. Nó xuất hiện tất yếu
do yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất và quy trình xã hội hố nói chung
địi hỏi. Sở hữu hỗn hợp hình thành thơng qua hợp tác liên doanh liên kết tự
nguyện phát hành mua bán cổ phiếu v.v...Tựu chung lại, khái qt lại thì có
hai hình thức cơ bản: Cơng hữu và tư hữu.
-

Quyền sở hữu là gì?

Vì cơ sở kinh tế đảm bảo cho sự thống trị về chính trị - tư tưởng là các quan
hệ sở hữu có lợi cho giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị dùng từ một bộ
phận của công cụ pháp luật quy định về chế độ sở hữu để thể chế hố ý chí
của giai cấp hình thành hệ thống các quy phạm pháp luật các quy phạm pháp
luật này quy định, củng cố và duy trì dự tính và địa vị thống trị giai cấp. Vì

vậy quyền sở hữu là một phạm trù pháp lý. Nó có nhiệm vụ xác lập và bảo vệ
quyền của chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối tượng
tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Với tư cách là một chế định pháp luật,
quyền sở hữu chỉ ra đời khi xã hội có phân chia giai cấp và có Nhà nước. Cịn
theo nghĩa hẹp, quyền sở hữu được hiểu là mức độ xử sự mà pháp luật cho
phép một chủ thể được thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
trong những điều kiện nhất định (quyền năng dân sự). Ngoài ra theo một
phương diện khác quyền sở hữu là một quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu
(có ba yếu tố: Chủ thể, khách thể, nội dung).
-

Chế độ sở hữu là gì?


Phạm trù sở hữu khi được thể chế hoá thành quyền sở hữu (như trình bày ở
trên), được thực hiện thông qua cơ chế nhất định gọi là chế độ sở hữu. Chế độ
sở hữu được Nhà nước xác lập và được ghi nhận trong Hiến pháp. Nó chứa
đựng hệ thống các quy phạm pháp luật về sở hữu và cơ chế, điều kiện, thủ tục
pháp lý để áp dụng, thực hiện các quy phạm đó.
b)

Khái niệm sở hữu tư nhân.

Sở hữu tư nhân là hình thức sở hữu của từng cá nhân về tư liệu sinh hoạt,
tiêu dùng và những tư liệu sản xuất nhằm đáp ứng những nhu cầu vật chất
và tinh thần của cá nhân. Từ điều 211 đến điều 213 trong Bộ Luật Dân sự có
nêu về sở hữu tư nhân:
- Sở hữu tư nhân là sở hữu của cá nhân đối với tài sản hợp pháp của mình.
- Sở hữu tư nhân bao gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư
nhân.

Điều 212: Tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân
1. Thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu
sản xuất, vốn, hoa lợi, lợi tức và các tài sản hợp pháp khác của cá nhân là tài
sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân.
Tài sản hợp pháp thuộc hình thức sở hữu tư nhân không bị hạn chế về số
lượng, giá trị.
2. Cá nhân không được sở hữu đối với tài sản mà pháp luật quy định
khơng thể thuộc hình thức sở hữu sở hữu tư nhân.
Điều 213: Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc hình thức sở hữu tư
nhân
1. Cá nhân có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu của
mình nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng hoặc sản xuất, kinh doanh
và các mục đích khác phù hợp với quy định của pháp luật.


2. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân
khơng được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi
ích cơng cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác
c)

Sự hình thành sở hữu tư nhân.

Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ ở gian đoạn cuối do sự phát triển của
lực lượng sản xuất sau ba cuộc phân công lao động xã hội (lần 1, ngành chăn
nuôi tách khỏi trồng trọt; lần 2, thủ công nghiệp tách khỏi công nghiệp; lần
3,với sự xuất hiện của tầng lớn thương nhân). Do năng xuất lao động đã lao
hơn trước, con người có kinh nghiệm hơn v.v...
Trong xã hội có sản phẩm dư thừa và xuất hiện những người chiếm đoạt của
cải dư thừa đó và trở thành giàu có, (tư hữu riêng)…Nhà nước ra đời trong
hồn cảnh đó. Sở hữu tư nhân trong các phương thức sản xuất khác nhau

của lịch sử phát triển của lồi người với tính chất và mức độ thể hiện khác
nhau:
* Trong chế độ chiếm hữu nô lệ: Pháp luật của nhà nước chủ nô duy trì và bảo
vệ chế độ sở hữu của chủ nô đối với tất cả các tư liệu sản xuất của xã hội ngay
cả sở hữu bản thân người nô lệ (nơ lệ là cơng cụ biết nói khơng được xem là
người). Ở đây, trình độ tư hữu của cịn thấp nhưng tính chất khắc nghiệt và
bất bình đẳng là tuyệt đối.
* Trong xã hội phong kiến: Sở hữu đẳng cấp phong kiến thể hiện rõ ở chế
độ"phong tước, cấp điền" của các vua chúa phong kiến. Nhà nước và pháp
luật phong kiến bảo vệ, duy trì chế độ sở hữu của địa chủ lãnh chúa phong
kiến đối với ruộng đất và duy trì tình trạng nửa phong kiến của nông dân và
giai cấp phong kiến.
* Trong chế độ tư bản chủ nghĩa: Trên cơ sở tan rã dần của sở hữu phong
kiến đã xuất hiện và phát triển quan hệ sở hữu tư sản. Đó là chế độ chiếm
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư


(do công nhân làm thuê sáng tạo ra bị giai cấp tư sản chiếm không). Ở đây là
giai đoạn của trình độ tư hữu gắn với đặc trưng của xã hội tư bản. Chế độ tư
hữu được qui định là thiêng liêng bất khả xâm phạm. Giai cấp tư sản với
phương pháp, thủ đoạn bóc lột mới với trình độ cao tư hữu trong xã hội tư
bản chủ nghĩa nằm chủ yếu tập trung trong tay giai cấp tư sản, các tập đoàn
tư bản, các nhà tư bản nắm trong tay tư liệu sản xuất.
* Trong thời kỳ quá độ lên CNXH: Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lê nin thì có 2 phương thức q độ lên CNXH. Đối với những nước như nước
ta quá độ lên CNXH từ một nước nghèo, lạc hậu chưa qua giai đoạn phát
triển TBCN, thì nhất thiết cần có một thời kỳ lịch sử với sự tồn tại của đa
thành phần kinh tế với đa hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân để sử
dụng sức mạnh và ưu thế của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế hàng
hoá, tất cả nhằm tạo ra tiền đề xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho
CNXH. Mặc dù vậy, trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta

hiện nay nhằm phát triển lực lượng sản xuất thì sở hữu nhà nước, kinh tế nhà
nước vẫn giữ vai trò chủ đạo để định hướng cho sở hữu tư nhân nói riêng và
nền kinh tế nước ta nói chung đi theo đúng quỹ đạo.
2.

Chủ thể của sở hữu tư nhân.

Bất cứ cá nhân nào, không phân biệt các mức độ năng lực hành vi dân sự
đều có thể là chủ thể của sở hữu tư nhân, miễn là những người này có tài sản
dựa trên các căn cứ pháp lý do pháp luật quy định. Tuy nhiên, để thực hiện
các quyền năng của quyền sở hữu thì khơng phải cá nhân nào cũng thực hiện
được mà điều đó cịn phụ thuộc vào khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của
cá nhân…liên quan đến các mức độ năng lực hành vi dân sự. Trong một số
trường hợp, nếu cá nhân không trực tiếp thực hiện được các quyền năng của
quyền sở hữu thì việc thực hiện các quyền năng này phải thông qua hành vi
của người đại diện.


3.

Khách thể của sở hữu tư nhân.

Khách thể của sở hữu tư nhân là những tài sản thuộc quyền sở hữu của cá
nhân cơng dân. Tài sản đó có thể là những tư liệu sản xuất hoặc tiêu dùng.
Phạm vi khách thể sở hữu tư nhân của cá nhân, tiểu chủ, tư bản tư nhân
được xác định cụ thể tại điều 58 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân có
quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt,
tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ
chức kinh tế khác”, không bị hạn chế về quy mơ hoạt động trong những ngành
nghề có lợi cho quốc kế dân sinh, tài sản hợp pháp không bị hạn chế về số

lượng, giá trị. Tuy nhiên, cá nhân không được sở hữu đối với tài sản mà pháp
luật quy định không thể thuộc sở hữu tư nhân. Đó là các tài sản theo quy định
tại điều 212 Bộ luật Dân sự.
4.

Tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân.

Tài sản thuộc sở hữu tư nhân được pháp luật quy định rất đa dạng về căn cứ
phát sinh, không giới hạn về số lượng, giá trị tài sản. Theo quy định của pháp
luật thì “ tài sản hợp pháp thuộc hình thức sở hữu tư nhân khơng bị hạn chế
về số lượng, giá trị”, sự hạn chế đó chỉ trong trường hợp “ cá nhân không
được sở hữu đối với tài sản mà pháp luật quy định không thể thuộc hình thức
sở hữu tư nhân” . Tài sản thuộc sở hữu tư nhân bao gồm :
-

Các thu nhập hợp pháp :
Của cải để dành :
Nhà ở :
Tư liệu sinh hoạt :
Tư liệu sản xuất :
Vốn, hoa lợi, lợi tức và các tài sản hợp pháp khác của cá nhân là tài sản

5.

thuộc hình thức sở hữu tư nhân.
Nội dung của sở hữu tư nhân.


Cá nhân là chủ thể của sở hữu tư nhân có quyền thực hiện các quyền năng
trong nội dung của quyền sở hữu tư nhân một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.

Nhà nước ln khuyến khích việc thực hiện các hành vi của cá nhân để thực
hiện các nội dung của quyền sở hữu với mục đích giải phóng sức sản xuất,
đem lại năng suất hiệu quả cao, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Nguyên tắc chung của việc thực hiện các quyền năng của quyền sở hữu tư
nhân đó là “Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc hình thức sở
hữu tư nhân khơng được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của
Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác...”
II)

1.

Vai trò của sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Như thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa?

Kinh tế thị trường định hướng XHCN là một hình thức của kinh tế thị
trường. Do đó, trong nền kinh tế cũng sẽ bao hàm nhiều hình thức sở hữu
như các nền kinh tế thị trường khác. Tuy nhiên, cơ cấu các hình thức sở hữu ở
nước ta và vị trí của mỗi hình thức sở hữu trong cơ cấu đó sẽ có những khác
biệt với các nước khác. - Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản
ánh trình độ phát triển nhất định của văn minh nhân loại. Là một kiểu tổ
chức kinh tế, kinh tế thị trường vừa là vấn đề của lực lượng sản xuất, vừa là
vấn đề của quan hệ sản xuất. Phải đạt đến một trình độ phát triển nhất định,
nền sản xuất xã hội mới thoát khỏi tình trạng tự cung tự cấp, mới có sản
phẩm dư thừa để trao đổi. Cũng phải trong những quan hệ xã hội như thế
nào của sản xuất mới nảy sinh cái tất yếu kinh tế: người sản xuất hàng hóa
phải mang sản phẩm dư thừa ra thị trường; kẻ mua và người bán trao đổi
sản phẩm với nhau trên thị trường.
Kinh tế thị trường thuộc phạm trù quan hệ sản xuất, nhưng nó khơng bao
giờ tự sản sinh ra một hệ thống quan hệ sản xuất đầy đủ, độc lập với các



phương thức sản xuất mà trong đó nó vận động. Nó bao giờ cũng gắn bó hữu
cơ với hệ thống các quan hệ sản xuất và trao đổi của từng thời đại kinh tế, với
các quan hệ sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối của từng phương thức sản
xuất trong lịch sử. Sự gắn bó đó chặt chẽ đến mức chúng ta có thể nói đến nền
kinh tế hàng hóa của xã hội nơ lệ; nền kinh tế hàng hóa giản đơn trong lịng
xã hội phong kiến. Đến chủ nghĩa tư bản, kinh tế hàng hóa giản đơn trở thành
kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa, trở thành kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa. Và, trong chủ nghĩa tư bản, những quan hệ kinh tế của kinh tế thị
trường và của chủ nghĩa tư bản thâm nhập vào nhau thành một thể thống
nhất. Điều đó gây nên rất nhiều sự nhầm lẫn của kinh tế học tầm thường. Chỉ
có sự trừu tượng hóa khoa học của những người mác-xít mới phân tích được
bản chất và đặc điểm của kinh tế thị trường của từng phương thức sản xuất
trong lịch sử.
Cho đến nay, nhân loại mới chỉ biết đến nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa như là nền kinh tế phát triển ở trình độ cao. Nhân loại chưa biết đến
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bởi vì ở nơi mà chủ
nghĩa xã hội hiện thực đã ra đời thì lại không phát triển thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; còn ở nơi phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa thì chủ nghĩa xã hội chưa phát triển hoàn chỉnh.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây là một điểm đột phá lý
luận, một mơ hình thực tiễn đang trong q trình thử nghiệm, là sự phủ định
con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp. Đương
nhiên, đó khơng phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, tuy rằng nó
có thể học hỏi nhiều điều từ nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có bản chất kinh tế khác



với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Bản chất đó được quy định bởi
các quan hệ kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Bàn về bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam chính là bàn về bản chất của những thành phần kinh tế của nền
kinh tế quốc dân trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Những thành phần kinh tế
đó tạo thành cơ sở kinh tế của định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam. Ở đây, có một câu hỏi đặt ra: Phải chăng định hướng
chính trị quy định bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa? Vấn đề mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị của cách mạng Việt Nam
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là vấn đề không đơn giản chút nào.
Chắc chắn rằng, trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, chính trị phải đóng vai trị
hàng đầu và chi phối toàn bộ sự phát triển của đất nước, kể cả sự phát triển
kinh tế. Con đường chính trị xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan của
cách mạng Việt Nam trong thời đại cả loài người vẫn tiếp tục vượt qua chủ
nghĩa tư bản, đi lên chủ nghĩa xã hội theo cách này hay cách khác, cho dù
trước mắt cịn gặp vơ vàn khó khăn. Tuy nhiên, định hướng xã hội chủ nghĩa
của nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ ở nước ta khơng phải chỉ do
định hướng chính trị chi phối, mà còn được chi phối bởi cơ sở kinh tế bên
trong, được bảo đảm bởi một kết cấu kinh tế mà trong q trình vận động, tự
nó có xu hướng xã hội chủ nghĩa, và do đó, nó làm cho các nhân tố xã hội chủ
nghĩa ngày càng lớn mạnh lên.
2.

Sở hữu tư nhân có vai trị như thế nào trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong cái nhìn nghiêm túc của nhiều người thì đây thực sự là một bước
phát triển rực rỡ. Đánh giá về sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, Hội
nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã chỉ rõ: “Hơn 10



năm qua, thực hiện đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước,
được sự đồng tình và hưởng ứng tích cực của nhân dân, kinh tế tư nhân gồm
kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, hoạt động dưới hình thức
hộ kinh doanh cá thể và loại hình doanh nghiệp tư nhân đã phát triển rộng
khắp trong cả nước; đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động
các nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện
đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn định
chính trị – xã hội của đất nước. Cùng với các thành phần kinh tế khác, sự phát
triển của kinh tế tư nhân đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc
đẩy phân cơng lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tăng thêm số lượng công nhân, lao động và doanh nhân Việt Nam,
thực hiện các chủ trương xã hội hóa y tế, văn hóa, giáo dục…”.
Lượng hóa vấn đề trên, ta thấy kinh tế tư nhân có những đóng góp tích cực
sau đây:
- Thứ nhất, đóng góp nổi trội nhất của kinh tế tư nhân trong thời gian qua là
tạo thêm được nhiều việc làm, góp phần quan trọng thu hút nhiều lao động
trong xã hội, nhất là những người đến tuổi lao động chưa có việc làm, giải
quyết số lao động dôi dư từ các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước do tinh
giảm biên chế hay giải thể. tính đến cuối năm 2008 thì các doanh nghiệp tư
nhân chính thức đã tạo ra được 4,3 triệu việc làm, chiếm hơn 54% tổng số
việc làm của các doanh nghiệp chính thức tạo ra và gấp gần bốn lần tổng số
việc làm mà các doanh nghiệp nhà nước trung ương tạo ra. Như vậy, số
lượng lao động mà doanh nghiệp dân doanh tạo ra trong giai đoạn này cũng
đã tăng đáng kể tăng hơn 505%. Con số này rõ ràng đã nói lên rất nhiều điều
về chất lượng của khu vực kinh tế này về phương diện tạo việc làm. Số việc
làm tạo ra đã góp phần rất lớn cho q trình phát triển kinh tế, cải thiện thu



nhập cho người dân và hỗ trợ quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, đặc biệt là từ
phương diện tạo việc làm cho những đối tượng bị giảm biên chế hoặc mất
việc do q trình cải cách hành chính, cải cách doanh nghiệp nhà nước. Nó
cũng góp phần đáng kể quá trình tạo việc làm cho hơn 1,2 triệu người tham
gia trị trường lao động mỗi năm và duy trì tỷ lệ thất nghiệp thấp ở Việt Nam
trong thập kỷ qua (ở mức 4-5% trong giai đoạn này).
- Thứ hai, huy động ngày càng nhiều nguồn vốn trong xã hội đầu tư vào sản
xuất kinh doanh.
Vốn đầu tư của kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng số vốn đầu
tư phát triển của toàn xã hội. Vốn sử dụng, vốn đầu tư phát triển và vốn đăng
ký kinh doanh đều tăng. Quy mô vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp trong
khu vực tư nhân cũng tăng đáng kể. Tổng vốn chủ sở hữu của các doanh
nghiệp tư nhân đã 17 lần tăng từ khoảng 38,7 ngàn tỉ đồng vào năm 2000 lên
tới 657 ngàn tỉ đồng vào năm 2008. Tính trung bình, vốn chủ sở hữu bình
quân một doanh nghiệp dân doanh hiện nay đạt 5,2 tỉ đồng so với 1,2 tỉ đồng
vào năm 2000.
Vốn chủ sở hữu là cơ sở cho việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh
và tăng chỉ số các hoạt động khác của doanh nghiệp. Đánh giá một cách tồn
diện, việc tăng quy mơ vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp trong khu vực tư
nhân đã đi kèm với mức tăng rất ấn tượng về mức tăng doanh thu thuần
(tăng gần 16 lần), lợi nhuận (tăng 27 lần), tổng tài sản (tăng 24 lần) trong
giai đoạn 2000 - 2008. Đặc biệt, tốc độ tăng của tổng tài sản, lợi nhuận đã
tăng nhanh hơn rất nhiều so với tốc độ tăng của vốn chủ sở hữu, thể hiện việc
sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của các nhà đầu tư và các cổ đông
trong các doanh nghiệp tư nhân. Về khả năng tạo lợi nhuận, tính trung bình
một doanh nghiệp tư nhân chỉ có thể tạo ra được khoảng 54 triệu đồng lợi
nhuận vào năm 2000 thì con số này đã tăng lên gấp năm lần là 258 triệu vào


năm 2008. Ở góc độ một số chỉ số khác, một doanh nghiệp dân doanh hiện

nay cũng có mức tài sản trung bình là 14 tỉ đồng và mức doanh thu thuần
trung bình là 17 tỉ đồng, tăng hơn rất nhiều so với những năm đầu thập kỷ.
- Thứ ba, đóng góp vào GDP với tỷ trọng khá lớn và ổn định.
Trong những năm qua, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp với tỷ trọng khá lớn
vào sự ổn định trong GDP. Năm 2008, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đóng
góp vào GDP gần 47%, trong đó có phần đóng góp quan trọng của kinh tế tư
nhân; ở một số địa phương tỷ lệ này còn cao hơn như TP. Hồ Chí Minh là
51,4%, Cần Thơ là gần 73%...
- Thứ tư, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu,
thúc đẩy cạnh tranh, tăng thêm số lượng công nhân và doanh nhân Việt Nam.
Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần mở mang nhiều
ngành nghề và lưu thơng hàng hóa, sản phẩm ngày càng đa dạng, phong phú,
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở từng vùng và trong cả nước. Một số
sản phẩm đã góp phần chặn đứng và đẩy lùi được sự xâm nhập của hàng
ngoại nhập. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm 2008 ước đạt 80,4 tỉ USD,
tăng 28,3% so với năm 2007. Nhập siêu hàng hóa đã được kiềm chế và giảm
dần từ mức gần 2,2 tỷ USD (tháng 1-2008), xuống còn 500 triệu USD vào
tháng 12-2008. Tổng nhập siêu năm 2008 ước tính là 17,5 tỉ USD, bằng 27,8%
trị giá xuất khẩu Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam thật sự là một nền kinh tế
mở, có độ hội nhập khá sâu vào nền kinh tế thế giới, tổng giá trị kim ngạch
xuất nhập khẩu (2009) đã lên đến 150% tổng giá trị GDP. Hoạt động ngoại
thương và đầu tư nước ngoài có một vị trí quan trọng ngày càng lớn trong
tiến trình và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam. Đáng kể nhất phải
kể đến đóng góp của nền kinh tế tư nhân.


Những con số trên nói lên một điều: nền kinh tế Việt Nam sẽ khơng phát
triển nếu vắng bóng kinh tế tư nhân và nó cũng khẳng định chủ trương phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là một chủ trương của “ý Đảng,
lịng Dân”

Từ những phân tích trên đây có thể rút ra kết luận: chỉ nên thiết lập sở
hữu công cộng ở các lĩnh vực kinh tế then chốt, giữ vai trò quan trọng với
quốc kế, dân sinh. Các lĩnh vực kinh tế then chốt có thể là: lương thực, thuốc
chữa bệnh, ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thơng, đường sắt, hàng
khơng, điện lực, khai thác mỏ... Ngay trong các lĩnh vực này, kinh tế nhà nước
cũng không nhất thiết là chiếm tỷ trọng tuyệt đối. Sự xuất hiện của sở hữu
tư nhân vừa góp phần huy động và sử dụng các nguồn lực, vừa tạo quan hệ
cạnh tranh, thúc đẩy khu vực sở hữu công cộng nâng cao hiệu quả.
3.

Thực trạng và một số giải pháp để nâng cao vai trò của sở hữu tư nhân

a)

trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực trạng.

Bên cạnh những đóng góp tích cực cho sự phát triển, kinh tế tư nhân cũng
còn nhiều hạn chế, yếu kém, khó khăn.
- Phần lớn có quy mơ nhỏ, vốn ít, cơng nghệ sản xuất lạc hậu, ít đầu tư vào
lĩnh vực sản xuất.
Trong các doanh nghiệp phi nông nghiệp, qua điều tra năm 2006 của Tổng
cục Thống kê cho thấy bình qn 1 Doanh nghiệp ngồi quốc doanh chỉ có là
32 lao động với số vốn đạt 7 tỷ đồng/Doanh nghiệp. Đây là con số rất thấp so
với chỉ tiêu phân loại về doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các chuyên gia cho biết,
theo tiêu chuẩn doanh nghiệp nhỏ và vừa là những doanh nghiệp có dưới 300
lao động và vốn tối đa 10 tỷ đồng. So với tiêu chí này thì có tới 96,81% Doanh
nghiệp thuộc nhóm nhỏ và vừa. Thậm chí số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ



đồng chiếm 41,8%, doanh nghiệp có 1 - 5 tỷ tiền vốn chiếm 37,03%, doanh
nghiệp có 5 - 10 tỷ đồng tiền vốn chỉ chiếm 8,18%. Như vậy nhận định về
doanh nghiệp Việt Nam trên đây là hoàn toàn đúng và những doanh nghiệp
nhỏ, siêu nhỏ khơng chỉ có trong khu vực ngồi quốc doanh.
Bên cạnh đó, hiện nay, số Doanh nghiệp dưới 10 lao động chiếm 51,3%, từ 10
- 200 lao động chiếm 44,07%, từ 200 - 300 lao động chỉ chiếm 1,43%. Có 86%
Doanh nghiệp có tài sản cố định dưới 5 tỷ đồng... là những tiêu chí làm bộc lộ
rõ hơn điểm yếu về quy mô nhỏ bé và trình độ cơng nghệ thấp của doanh
nghiệp Việt Nam. Trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp và tay nghề của
người lao động còn yếu, phần lớn chưa qua đào tạo, hiểu biết về chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cịn ít, khả năng tiếp thị trong
và ngồi nước cịn hạn chế.
Về cơng nghệ, nhìn tổng thể, máy móc thiết bị và cơng nghệ của kinh tế tư
nhân phần lớn còn lạc hậu, chắp vá, chậm đổi mới; nhiều doanh nghiệp thành
lập mới nhưng sử dụng công nghệ thải loại từ doanh nghiệp nhà nước. Qua
đánh giá hiệu quả của các doanh nghiệp của tư nhân, phần đầu tư ra nước
ngoài của doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói
riêng cịn rất nhỏ bé. Doanh nghiệp Việt Nam tuy đơng đảo về số lượng song
hầu hết yếu về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý còn hạn chế nên khả năng
cạnh tranh sẽ gặp nhiều khó khăn. Số dự án và quy mô vốn đầu tư của doanh
nghiệp Việt Nam ra nước ngồi cịn nhỏ, kinh nghiệm cịn hạn chế.
- Kinh tế tư nhân cũng gặp nhiều khó khăn vướng mắc về vốn, về mặt bằng
sản xuất kinh doanh, về môi trường pháp lý và môi trường tâm lý xã hội.
Hiện nay, bình quân vốn sử dụng vào sản xuất kinh doanh của một hộ nông
nghiệp rất thấp. Kinh tế tư nhân vay vốn từ các ngân hàng thương mại và vay
vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước tại Quỹ hỗ trợ phát triển cịn ít và chiếm tỷ


trọng thấp. Mặt bằng sản xuất kinh doanh đang là một trở ngại lớn đối với
các cơ sở kinh tế tư nhân. Hầu hết các hộ kinh doanh phi nông nghiệp phải sử

dụng nhà ở, đất ở của gia đình trong khu dân cư làm mặt bằng sản xuất kinh
doanh, gây nên những khiếu kiện về môi trường và cũng khó mở rộng sản
xuất kinh doanh.
Mơi trường pháp lý tuy đã thuận lợi hơn trước rất nhiều, song cũng còn gặp
nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện các quy định pháp luật và
chính sách của nhà nước, do một số quy định chưa đồng bộ, thiếu nhất quán
hay thay đổi. Nhiều cơ sở doanh nghiệp tư nhân còn chưa đủ sức nên gặp
nhiều khó khăn trong tiếp nhận thơng tin về chính sách xuất nhập khẩu, về
tiếp thị trong nước và nước ngồi. Nhiều doanh nghiệp cịn bị một số cơ quan
nhà nước thanh tra, kiểm tra chồng chéo và kéo dài.
Môi trường tâm lý xã hội đã có sự chuyển biến tích cực, nhưng nhìn chung,
quan niệm xã hội về kinh tế tư nhân vẫn chưa tương xứng với chủ trương đổi
mới của Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh những vấn đề nêu trên, nhiều đơn vị kinh tế tư nhân chưa thực hiện
tốt những quy định của pháp luật về lao động, hợp đồng lao động, chế độ bảo
hiểm, tiền lương, tiền công, bảo hộ lao động, giờ làm việc cho người lao động.
Cũng khơng ít đơn vị kinh tế tư nhân vi phạm pháp luật, trốn lậu thuế, gian
lận thương mại, kinh doanh trái phép…
b)

Giải pháp.

Quán triệt Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, để phát huy mạnh mẽ tiềm năng
to lớn của khu vực kinh tế tư nhân cho q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX
với cái nhìn thẳng thắn đã vạch ra phương hướng nhiệm vụ chủ yếu, cấp


bách nhằm phát triển kinh tế tư nhân, trong đó có mấy vấn đề cơ bản sau
đây:

* Một là, thống nhất về các quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân.
Thực ra, quan điểm về phát triển kinh tế tư nhân đã được ghi trong Nghị
quyết Đại hội IX của Đảng, thế nhưng có một số vấn đề cụ thể cần được làm
rõ để tạo nên sự thống nhất trong nhận thức và trong hành động. Đó là cần
thống nhất về các quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân: Kinh tế tư
nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển
kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài nhằm góp phần nâng cao nội lực
của đất nước. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo
pháp luật, bảo hộ quyền sở hữu tài sản hợp pháp, khuyến khích, hỗ trợ, tạo
điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển bình đẳng với các thành
phần kinh tế. Chăm lo bồi dưỡng, giáo dục các chủ doanh nghiệp nâng cao
lòng yêu nước, tự hào dân tộc, gắn bó với lợi ích đất nước và sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
* Hai là, tạo môi trường thuận lợi về thể chế và tâm lý xã hội cho sự phát
triển của kinh tế tư nhân. Để có mơi trường thuận lợi về thể chế, cần sửa đổi
bổ sung Luật doanh nghiệp và một số quy định chưa thống nhất giữa các văn
bản pháp luật đã ban hành về những vấn đề liên quan đến kinh tế tư nhân
theo hướng xóa bỏ phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế; tiếp tục
tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong pháp luật và thủ tục hành chính; Quy
định rõ những ngành nghề, lĩnh vực kinh tế tư nhân không được phép kinh
doanh hoặc kinh doanh có điều kiện; Xác định rõ trách nhiệm của cơ quan
quản lý nhà nước trong đăng ký kinh doanh và quản lý hoạt động của kinh tế
tư nhân; Sửa đổi, bổ sung một số quy định theo hướng tạo thuận lợi nhưng
phải chặt chẽ trong cấp đăng ký kinh doanh, theo yêu cầu “một cửa, một dấu”.


Để tạo môi trường thuận lợi về tâm lý xã hội, cần làm tốt công tác phổ biến,
tuyên truyền quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với
việc phát triển kinh tế tư nhân. Cổ vũ và biểu dương kịp thời những doanh
nhân, đơn vị sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đóng góp tích cực vào sự phát

triển kinh tế xã hội đất nước.
* Ba là, sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách nhằm bảo đảm sự bình
đẳng giữa các thành phần kinh tế về cơ hội và khả năng lựa chọn các điều
kiện để phát triển.
- Đối với chính sách đất đai, sửa đổi, bổ sung Luật đất đai theo hướng: những
diện tích đất của tư nhân đã được cấp quyền sử dụng, đang được dùng làm
mặt bằng sản xuất kinh doanh do được chuyển nhượng một cách hợp pháp
hoặc được nhà nước giao và đã nộp tiền sử dụng đất thì được tiếp tục sử
dụng mà khơng phải nộp thêm tiền thuê đất cho nhà nước khi dùng đất này
vào sản xuất kinh doanh.
Nhà nước có chính sách xây dựng những khu công nghiệp với cơ sở hạ tầng
cần thiết, cho các doanh nghiệp thuê với giá cả phù hợp làm mặt bằng sản
xuất kinh doanh. Doanh nghiệp tư nhân được dùng giá trị quyền sử dụng đất
để thế chấp vay vốn ngân hàng hoặc góp cổ phần liên doanh với doanh
nghiệp trong và ngồi nước.
Đẩy nhanh tiến trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sử dụng
nhà ở cho nhân dân.
- Đối với chính sách tài chính, tín dụng. Thực hiện chính sách tài chính, tín
dụng đối với kinh tế tư nhân bình đẳng với các thành phần kinh tế khác; bảo
đảm để kinh tế tư nhân tiếp cận và được hưởng các ưu đãi của nhà nước cho
kinh tế hộ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho đầu tư vào các mục tiêu mà nhà


nước khuyến khích. Nhà nước hỗ trợ về xây dựng cơ sở hạ tầng như giao
thông, điện, nước, thông tin liên lạc…, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư
nhân phát triển. Với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong đó có kinh tế tư
nhân, Nhà nước sớm ban hành những quy định về chế tài, sớm triển khai
hoạt động các quỹ bảo lãnh tín dụng, sớm sửa đổi, bổ sung chế độ kế toán.
Tiếp tục đổi mới chế độ kê khai và nộp thuế cho phù hợp với đặc điểm của các
hộ kinh doanh, chống thất thu thuế. Có chính sách bảo hiểm rủi ro cho hoạt

động kinh tế tư nhân, khuyến khích thành lập và tham gia quỹ bảo hiểm
tương hỗ với sự hỗ trợ của Nhà nước. Ban hành quy định và đăng ký sở hữu
tài sản, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động kinh doanh. Kinh tế tư nhân được
dùng tài sản hình thành từ vốn vay để thế chấp ngân hàng.
- Đối với chính sách lao động tiền lương. Kinh tế tư nhân phải thực hiện đúng
quy định của Bộ luật lao động về việc ký kết hợp đồng lao động, tiền lương,
thời gian làm việc, bảo đảm các điều kiện vệ sinh an toàn lao động; bổ sung
chế tài cần thiết để xử lý vi phạm.
Sớm ban hành đồng bộ các quy định về bảo hiểm xã hội để người lao động
trong hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp tư nhân đều được tham gia.
Nghiên cứu ban hành chính sách bảo hiểm thất nghiệp theo hướng người sử
dụng lao động và người lao động cùng đóng góp, có sự hỗ trợ một phần của
nhà nước.
- Đối với chính sách hỗ trợ về đào tạo, khoa học và công nghệ. Nhà nước trợ
giúp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ hiểu biết đường lối chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, trình độ chun mơn kỹ thuật cho
chủ doanh nghiệp và người lao động. Phát triển các trung tâm dạy nghề của
nhà nước, đặc biệt ở các vùng nơng thơn, miền núi; khuyến khích các tổ chức
và cá nhân trong và ngoài nước mở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản


lý, cán bộ doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Xây dựng hệ thống thị
trường thông tin lao động.
Mở rộng hệ thống dịch vụ tư vấn khoa học, công nghệ cho các hộ kinh doanh
và doanh nghiệp; hỗ trợ các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin,
thuê, mua trả góp các thiết bị để đổi mới cơng nghệ.
* Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện và tăng cường quản lý nhà nước. Xác định rõ
chức năng quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân là: xây dựng và hồn
thiện khung pháp lý và ban hành chính sách, cơ chế quản lý đối với các đơn vị
sản xuất kinh doanh; xây dựng, quy hoạch và trợ giúp đào tạo cán bộ quản lý;

thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, chế độ, quy định của nhà nước
tại doanh nghiệp, nắm cho được tình hình đăng ký kinh doanh và hoạt động
của các doanh nghiệp và hộ kinh doanh.
Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước đối
với kinh tế tư nhân ở các bộ, ngành và các tỉnh, thành phố từ khi thành lập,
quá trình hoạt động đến khi chấm dứt hoạt động kinh doanh.
Các cơ quan bảo vệ pháp luật chỉ kiểm tra, thanh tra khi doanh nghiệp tư
nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Các cơ quan quản lý nhà nước phải có
chương trình thanh tra, kiểm tra định kỳ đối với doanh nghiệp, thông báo
trước cho doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các kết luận
thanh tra, kiểm tra của mình.
* Thứ năm, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng qua việc bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng thơng qua luật pháp, chính sách đối với kinh tế tư nhân; xây dựng
tổ chức cơ sở Đảng và các tổ chức chính trị xã hội trong các doanh nghiệp của
khu vực kinh tế tư nhân. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của
tổ chức Cơng đồn, Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Thanh niên,


Hội Liên hiệp Phụ nữ và các hiệp hội doanh nghiệp đối với việc phát triển kinh
tế tư nhân.
C)

Kết thúc vấn đề:

Để phát huy được vai trị của hình thức sở hữu tư nhân trong giai đoạn
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, cần tiếp tục đổi mới, hồn thiện hơn
nữa môi trường thể chế cho sự phát triển của kinh tế tư nhân cũng chính là
phát triển nền kinh tế của đất nước. Có như vậy, kinh tế tư nhân với tư cách
là một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế quốc dân mới có điều kiện thực sự
đóng góp cho sự vươn lên như Thánh Gióng của Việt Nam trong tương lai.


Mục lục:
A)
B)
I)
1.

2.
3.
4.
5.
II)

Đặt vấn đề.
Giải quyết vấn đề.
Sở hữu tư nhân.
Khái niệm và sự hình thành sở hữu tư nhân.
a) Các khái niệm có liên quan
b) Khái niệm sở hữu tư nhân.
c) Sự hình thành sở hữu tư nhân.
Chủ thể của sở hữu tư nhân.
Khách thể của sở hữu tư nhân.
Tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân.
Nội dung của sở hữu tư nhân.
Vai trò của sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.


1.
2.


Như thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa?
Sở hữu tư nhân có vai trò như thế nào trong nền kinh tế thị trường

3.

định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực trạng và một số giải pháp để nâng cao vai trò của sở hữu tư

a)
b)
C)

nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực trạng.
Giải pháp.
Kết thúc vấn đề.

Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam( tập I) – NXB CAND, 2009.
2. Giáo trình luật Dân sự Việt Nam( tập I) – TS. Lê Đình Nghị.
3. Bộ luật Dân sự( NXB Lao động).
4. Về sở hữu tư nhân trong nền kinh tế nước ta hiện nay(ThS. Ngô Đạt
– bài đăng trên tạp chí KHPL số 1/ 2004).
5. Trang web: google.com.vn



×