A.MỞ ĐẦU
Điều kiện kết hôn là một trong những nội dung quan trọng của luật hôn nhân và
gia đình. Điều kiện kết hôn là chuẩn mực pháp lí để xác lập quan hệ hôn nhân và xây
dựng gia đình theo khuôn mẫu nhất định phù hợp với lợi ích chung của Nhà nước và xã
hội trong giai đoạn lịch sử nhất định. Các điều kiện kết hôn đã đi vào cuộc sống, trở
thành thói quen tốt đẹp trong đời sống hôn nhân và gia đình ở nước ta. Tuy nhiên, trên
thực tế, luật hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng đã bộc lộ những thiếu xót, những vấn
đề cần được sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện các qui định về điều kiện kết hôn cho phù
hợp với sự biến động của điều kiện xã hội hiện nay. Sau đây, em xin được Phân tích
điều kiện kết hôn theo luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và nêu những điểm cần
sửa đổi bổ sung.
B.NỘI DUNG:
Điều kiện kết hôn được qui định tại điều 9, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000:
“Nam nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
1. Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên;
2. Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa
dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở;
3. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy định tại Điều 10
của Luật này.”
I. Phân tích điều kiện kết hôn theo luật hôn nhân gia định năm 2000:
Kết hôn là việc hai bên nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng, là mốc khởi đầu của
quan hệ hôn nhân. Nhà nước qui định điều kiện hôn nhân nhằm hướng đến xây dựng gia
đình ấm no hạnh phúc, hôn nhân tự nguyện tiến bộ. Điều kiện hôn nhân bao gồm những
điều kiện về mặt nội dung và hình thức-pháp luật chỉ bảo vệ quan hệ hôn nhân tuân thủ
đầy đủ những điều kiện này. Điều kiện kết hôn về mặt nội dung: điều kiện về độ tuổi,
điều kiện về sự tự nguyện của hai bên nam nữ trong việc kết hôn, việc kết hôn không
1
thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn được qui định tại điều 10. Điều kiện kết
hôn về mặt hình thức: đăng kí kết hôn.
1. Điều kiện về độ tuổi kết hôn:
Khoản 1, điều 9, luật hôn nhân gia đình năm 2000 qui định: “ Nam từ hai mươi
tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên.”. Qui định này kế thừa Điều 5, luật hôn nhân
và gia đình năm 1986. Xuất phát từ những cơ sở khoa học về tâm lí lứa tuổi, sức khỏe
con người Việt Nam, việc pháp luật qui định nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên
mới được kết hôn là nhằm bảo đảm sự phát triển về mặt thể chất, con cái sinh ra được
khỏe mạnh, bảo đảm cho đôi nam nữ thực hiện các chức năng sinh đẻ, giáo dục con cái
và nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình đối với gia đình. Đây là qui định thể hiện sự
quan tâm của nhà nước đối với sức khỏe cộng đồng và đảm bảo thực hiện tốt chức năng
của gia đình. Theo các văn bản hiện hành hướng dẫn áp dụng luật hôn nhân và gia đình
thì nam từ 20 tuổi trở lên không bắt buộc phải đủ 20 tuổi, nữ 18 tuổi trở lên không bắt
buộc phải đủ 18 tuổi có quyền kết hôn. Qui định về độ tuổi như vậy là tạo khoảng
không gian rộng cho nam nữ lựa chọn thời điểm để kết mà không phải đợi đến tròn 20
tuổi và tròn 18 tuổi.
2. Điều kiện về sự tự nguyện của hai bên nam nữ trong việc kết hôn:
Điều kiện này được qui định tại khoản 2, điều 9, luật hôn nhân và gia đình năm
2000: “Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc,
lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở”.
Hôn nhân tự nguyện tiến bộ là nguyên tắc cơ bản xuyên suốt của luật hôn nhân và
gia đình các năm 1959, 1986, 2000, nhằm xóa bỏ hoàn toàn chế độ hôn nhân cưỡng ép,
phụ thuộc vào cha mẹ của chế độ hôn nhân gia đình phong kiến và xây dựng chế độ hôn
nhân mới xã hội chủ nghĩa. Tự nguyện kết hôn là việc hai bên nam, nữ thể hiện sự đồng
ý trở thành vợ chồng của nhau, mỗi bên không bị tác động ý chí của bên kia hay của bất
kì người nào khiến cho họ phải kết hôn mà không có tình yêu. Kết hôn là quyền chứ
2
không phải là nghĩa vụ. Vì vậy, không thể có hôn nhân ngoài ý muốn của người kết hôn.
Đây là điều kiện rất quan trọng được pháp luật nhiều nước quan tâm, phát triển. cuộc
sống gia đình chỉ thực sự hạnh phúc khi được xây dựng trên cơ sở sự hòa hợp và tự
nguyện của hai bên nam, nữ. Sự cưỡng ép, lừa dối từ hai phía đối với nhau, sự cưỡng ép
hay cản trở từ phía gia đình xã hội đều không thể đem lại hạnh phúc trong quan hệ vợ
chồng. Pháp luật luôn tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của các bên khi xác lập một quan
hệ pháp luật, một giao dịch dân sự có thể bị tuyên bố vô hiệu do bị lừa dối cưỡng ép;
quan hệ kết hôn cũng có thể bị hủy khi có dấu hiệu cưỡng ép, không tự nguyện.
3. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn qui định tại
Điều 10:
Điều 10, luật hôn nhân và gia đình năm 2000 qui định như sau:
“Việc kết hôn bị cấm trong những trường hợp sau đây:
1. Người đang có vợ hoặc có chồng;
2. Người mất năng lực hành vi dân sự;
3. Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi
ba đời;
4. Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố
chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con
riêng của chồng;
5. Giữa những người cùng giới tính.”
a, Trường hợp cấm thứ nhất: Cấm người đang có vợ hoặc có chồng kết hôn với
người khác:
Qui định này là sự kế thừa và cụ thể hóa nguyên tắc cơ bản của luật hôn nhân và
gia đình-nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng. Đó là qui định hết sức cần thiết đảm
bảo thực hiện nhiệm vụ của luật hôn nhân gia đình là xóa bỏ chế độ hôn nhân gia đình
phong kiến, xóa bỏ sự đối xử bất bình đẳng đối với người phụ nữ, xây dựng hôn nhân
tiến bộ xã hội chủ nghĩa.
3
Pháp luật phong kiến Việt Nam qui định người đàn ông có quyền lấy nhiều vợ
(Điều 79,80 Bộ dân luật Bắc Kì). Pháp luật của Nhà nước tư sản cũng qui định hôn
nhân theo nguyên tắc một vợ-một chồng nhưng trên thực tế nguyên tắc đó đã bị phá bỏ
do tệ nạn ngoại tình và mại dâm công khai. Theo pháp luật Việt Nam, chỉ những người
chưa kết hôn hoặc đã kết hôn nhưng vợ, chồng đã chết hoặc hai người đã li hôn thì mới
có quyền kết hôn với người khác. Tuy nhiên, cần lưu ý trường hợp người bị Tòa án
tuyên bố là đã chết. Theo Điều 91 Bộ luật dân sự, một người nếu có sau ba năm kể từ
ngày tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật, mất tích trong chiến tranh, bị
tai nạn, thiên tai thảm họa….mà sau một thời gian luật định vẫn không có tin tức gì để
biết người đó là còn sống thì những người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu
tòa án tuyên bố người đó là đã chết. Sau khi tuyên bố của Tóa án có hiệu lực thì vợ hoặc
chồng của đó có quyền kết hôn với người khác. Trong trường hợp đó việc kết hôn là
hoàn toàn hợp pháp. Ngoài ra, còn một số trường hợp khác được qui định cụ thể trong
các Nghị định, thông tư.
b. Trường hợp cấm thứ hai: Cấm người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn:
Theo điều 24, Bộ luật dân sự và mục 1 điểm c.2 nghị quyết số 02/2002/NQHĐTP thì người mất năng lực hành vi dân sự là người “ do bị bệnh tâm thần hoặc mắc
các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình”, mất khả năng
bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Qui định cấm những
người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết. Bởi vì,
người không có khả năng nhận thức được hành vi thì không có khả năng thể hiện một
cách đúng đắn ý chí của mình trong vấn đề kết hôn, cũng không thể nhận thức và thực
hiện được trách nhiệm làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ trong đời sống gia đình.
Nếu họ kết hôn sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi, sức khỏe của vợ, chồng, con cái họ. Mặt
khác, theo điều 24, Bộ luật dân sự : “Mọi giao dịch dân sự của người mất năng lực hành
vi dân sự đều do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện”. Nhưng quyền kết
4
hôn là quyền nhân thân của mỗi người nên không thể để cho người đại diện thực hiện.
Vì thế, về nguyên tắc người mất hành vi dân sự không thể kết hôn. Vậy điều kiện để kết
hôn là người đó phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.
c. Trường hợp cấm thứ 3: Cấm kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực
hệ, giữa những người có họ trong phạm vi ba đời:
Khoản 12,13 Điều 8 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 qui định: “những người
cùng dòng máu về trực hệ là cha, mẹ đối với con; ông bà đối với cháu nội và cháu
ngoại”, “những người có họ trong phạm vi ba đời là những người cùng một gốc sinh ra:
cha mẹ là đời thứ nhất, anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha
là đời thứ hai; anh chị em con chú con bác, con cô con cậu, con dì là đời thứ 3”. Qui
định cấm kết hôn giữa những người này là hoàn toàn phù hợp với khoa học và phong
tục tập quán của nước ta. Việc cấm những người này kết hôn với nhau là để đảm bảo thế
hệ tiếp theo khỏe mạnh, duy trì nòi giống không mang bệnh tật bẩm sinh, theo nghiên
cứu của các nhà khoa học thì con sinh ra do quan hệ giữa những người có họ hàng trong
phạm vi ba đời thường có những biến chứng như quái thai, thoái hóa, dị dạng do cấu
trúc gen di truyền của họ, Về mặt xã hội và truyền thống dân tộc thì việc kết hôn giữa
những người này sẽ phá vỡ tôn ti trật tự trong họ hàng , cách xưng hô, những chuẩn
mực đạo đức bị xâm phạm, suy đồi,...
d. Trường hợp cấm thứ tư: Cấm kết hôn giữa những người đã từng là cha mẹ
nuôi với con nuôi, giữa những người đã từng là bố chồng với con dâu, mẹ vợ với
con rể, giữa người đã từng là bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng
của chồng.
Xét về quan hệ thực tế, giữa những người này không có quan hệ huyết thống, tuy
nhiên, trước đây giữa họ đã có mối quan hệ cha mẹ-con và có quan hệ chăm sóc, nuôi
dưỡng. Do vậy, việc pháp luât qui định những người này cấm kết hôn với nhau là hoàn
toàn đúng đắn, bảo đảm giữ gìn thuần phong mĩ tục của dân tộc, bảo đảm thực hiện các
nguyên tắc của cuộc sống, nhằm ổn định mới quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi,
5
phù hợp với đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam, ngăn chặn hiện tượng cưỡng ép kết
hôn do mối quan hệ phụ thuộc giữa cha mẹ nuôi và con nuôi.
e. Trường hợp cấm thứ 5: Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính.
Cấm kết hôn giữa những cùng giới tính là qui định mới của Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000. Trước đây, luật hôn nhân và gia đình năm 1959 và 1986 chưa dự liệu
được trường hợp hai người có cùng giới tính kết hôn với nhau. Pháp luật Việt Nam
không cho phép những người đồng giới kết hôn với nhau vì điều đó không phù hợp với
đạo đức, tập quán và qui luật sinh học.
Nhìn chung, phạm vi cấm kết hôn của luật hôn nhân và gia đình năm 2000 so với
với luật hôn nhân và gia đình trước đó là rộng rãi và cụ thể, đầy đủ hơn, phù hợp hơn
với xã hội hiện tại. nhằm đảm bảo mục tiêu cao nhất là sự yên bình ấm và hạnh phúc
của mỗi gia đình.
4. Điều kiện về đăng kí kết hôn:
Vấn đề đăng kí kết hôn được qui định tại Điều 11, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000:
“1. Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (sau đây gọi
là cơ quan đăng ký kết hôn) thực hiện theo nghi thức quy định tại Điều 14 của Luật này.
Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định tại Điều 14 của Luật này đều không có giá
trị pháp lý
Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được
pháp luật công nhận là vợ chồng.
Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn.
2. Chính phủ quy định việc đăng ký kết hôn ở vùng sâu, vùng xa.”
Đăng kí kết hôn là thủ tục do Nhà nước qui định-như một điều kiện về hình thứcnhằm công nhận việc xác lập quan hệ hôn nhân giữa hai bên nam nữ là hợp pháp. Việc
pháp luật qui định sự kiện kết hôn phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chứng
nhận là sự ràng buộc pháp lí, là cơ sở để các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của vợ
6
chồng. Đăng kí kết hôn là biện pháp để cơ quan Nhà nước có thể kiểm tra và kịp thời
ngăn chặn các hiện tượng vi phạm điều kiện kết hôn của nam nữ và tuyên truyền, giải
thích pháp luật cho họ hiểu. Qui định này phù hợp với khoản 2 Điều 16 Công ước
Cedaw- Công ước xóa bỏ mợi sự phân biệt, đối xử với người phụ nữ, đó là hôn nhân :
“bắt buộc phải có đăng kí kết hôn trong hồ sơ chính thức của Nhà nước”.
Khoản 1, điều 11, luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã qui định “ nam, nữ
không đăng kí kết hôn mà sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công
nhận là vợ chồng”. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 không thừa nhận hôn nhân
thực tế, thể hiện rõ thái độ nghiêm khắc của Nhà nước đối với những trường hợp kết
hôn không tuân thủ qui định của pháp luật. Ngoải ra, có những hoàn cảnh đặc biệt như
đời sống còn nhiều khó khăn của đồng bào vùng sâu, vùng xa, điều kiện đi lại khó khăn,
nên phải tạo thuận lợi cho nhân dân bằng cách tổ chức đăng kí kết hôn lưu động. Chính
quyền địa phương cần bố trí cán bộ có thẩm quyền cùng với cán bộ hộ tịch tư pháp hàng
tháng tăng cường xuống cơ sở để nắm tình hình và tổ chức đăng kí kết hôn ngay tại nơi
cư trú và tích cực phổ biến luật nói chung, luật hôn nhân và gia đình nói riêng đến đồng
bào các vùng xa xôi, hẻo lánh.
II. Một số điểm cần sửa đổi bổ sung với điều kiện kết hôn trong luật hôn nhân và
gia đình năm 2000:
Luật Hôn nhân và gia đình là một trong các văn bản pháp lý quan trọng nhất của
Nhà nước ta trong xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình Việt
Nam với mục tiêu gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững… Tuy
nhiên, thực tiễn thi hành cho thấy, Luật Hôn nhân và gia đình đang tồn tại một số bất
cập cần phải sửa đổi, trong đó, có quy định về độ tuổi kết hôn và hậu quả pháp lý của
các trường hợp kết hôn không tuân thủ điều kiện theo luật định.
7
Về điều kiện kết hôn, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: nam, nữ kết hôn với
nhau phải tuân thủ các điều kiện sau: nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi
trở lên. Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc,
lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở. Tuy nhiên, chiếu theo quy định
của một số pháp luật liên quan thì quy định này chưa có sự thống nhất. Điều 17 của Bộ
luật Dân sự hiện hành quy định: năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của
cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Điều 18,
Điều 19 Bộ luật này cũng quy định: người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên và
người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ…
Trở lại với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình thì quy định độ tuổi kết hôn của
nam và nữ tương đương từ 20 và 18 tuổi, chứ không phải là từ đủ 18 tuổi trở lên. Việc
quy định kết hôn của nữ bước sang 18 tuổi được coi là hợp pháp, tuy nhiên pháp luật lại
không quy định cụ thể họ có quyền tham gia tất cả các giao dịch liên quan đến tài sản
trong hôn nhân. Theo pháp luật hiện hành, nhiều giao dịch (giao dịch về bất động sản,
tín dụng…) đòi hỏi chủ thể của giao dịch phải từ đủ 18 tuổi trở lên. Theo quy định của
pháp luật về tố tụng dân sự, cá nhân phải đủ 18 tuổi trở lên mới có thể tự mình là chủ
thể của quan hệ tố tụng. Trong khi đó, theo Luật Hôn nhân và gia đình, nữ bước sang
tuổi 18 kết hôn được coi là hợp pháp và họ được quyền tự do ly hôn. Tuy nhiên, quyền
tự do ly hôn của họ không thể thực hiện nếu sau khi kết hôn đến thời điểm có yêu cầu ly
hôn họ chưa đủ 18 tuổi.
Một số chuyên gia cho rằng, độ tuổi kết hôn nên quy định là đủ 18 tuổi đối với nữ để
khi giải quyết ly hôn tòa có cơ sở để thụ lý. Thực tế hiện nay, có những vụ án ly hôn mà
tính đến thời điểm đương sự nộp đơn xin ly hôn, đương sự lại chưa đủ 18 tuổi. Do đó,
tòa không có căn cứ để thụ lý, đôi khi phải “chờ” đủ tuổi mới thụ lý vụ án. Đây là một
bất cập mà khi tiến hành sửa đổi Luật Hôn nhân và gia đình tới đây cần phải tính đến.
Để bảo đảm quyền lợi của đương sự cũng như bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với
8
quy định của các văn bản pháp luật khác, Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi tới đây cần
quy định độ tuổi kết hôn của nam, nữ phải đủ 18 tuổi trở lên.
Bên cạnh quy định độ tuổi kết hôn, hiện nay Luật Hôn nhân và gia đình đang tồn tại
một vướng mắc đó là việc quy định hậu quả pháp lý của các trường hợp không tuân thủ
điều kiện kết hôn theo luật định. Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: bên bị
cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự
mình yêu cầu tòa án hoặc đề nghị viện kiểm sát yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn trái
pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại khoản 2 điều 9 của luật này. Như vậy,
Luật Hôn nhân và gia đình mới chỉ quy định việc kết hôn không tuân thủ điều kiện kết
hôn là trái pháp luật và có thể bị tòa án xem xét, quyết định hủy việc kết hôn đó. Tuy
nhiên, Luật chưa quy định cụ thể các trường hợp kết hôn trái pháp luật cần thiết phải xử
hủy và những trường hợp kết hôn trái pháp luật không cần thiết phải xử mà cần công
nhận hôn nhân cho các bên đương sự.
Tại điểm d, mục 2, Nghị quyết số 02/2000/NQ- HĐTP(23/12/2000) của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án Nhân dân Tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000 quy định: đối với những trường hợp kết hôn khi một bên bị
ép buộc, bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép là vi phạm điều kiện kết hôn quy định tại điểm 2
Điều 9, tuỳ từng trường hợp mà mà tòa án quyết định như sau: nếu sau khi bị ép buộc,
bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép kết hôn mà cuộc sống không có hạnh phúc, không có tình
cảm vợ chồng, thì quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Nếu sau khi bị ép buộc, bị
lừa dối hoặc bị cưỡng ép kết hôn mà bên bị ép buộc, bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép đã biết,
nhưng đã thông cảm, tiếp tục chung sống hoà thuận thì không quyết định huỷ việc kết
hôn trái pháp luật. Nếu mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu Toà án giải quyết việc ly
hôn, thì Toà án thụ lý vụ án để giải quyết ly hôn theo thủ tục chung.
Như vậy, khi giải quyết hủy việc kết hôn trái pháp luật, Tòa án cần chú ý đến từng
trường hợp cụ thể để xem xét, quyết định hủy kết hôn trái pháp luật hay công nhận hôn
9
nhân của các đương sự. Đây là quy định phù hợp với thực tiễn, bảo vệ được các quyền,
lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, điều này lại không được cụ thể hóa trong luật
nên gây vướng mắc trong giải quyết về vấn đề này. Từ thực tiễn thi hành luật cho thấy
đã đến lúc cần phải tiến hành sửa đổi quy định về độ tuổi kết hôn và hậu quả pháp lý
của các trường hợp kết hôn không tuân thủ theo luật định là điều hết sức cần thiết, nhằm
bảo đảm quyền lợi của đương sự, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất với các quy định của
pháp luật liên quan, đồng thời tạo được sự thuận tiện cho việc thực thi trong quá trình
giải quyết vụ án về ly hôn.
C. KẾT LUẬN
Từ phần phân tích phía trên, ta có thể hiểu rõ hơn các qui định về điều kiện kết
hôn trong luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Từ đó thấy được những điểm còn hạn
chế, cần được sửa đổi, bổ sung để giúp Luật hôn nhân và gia đình có ích nhiều hơn cho
cuộc sống thực tiễn, tạo điều kiện pháp lí cho các gia đình có một cuộc sống ấm no,
hạnh phúc.
10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, ĐH Luật Hà Nội.
2. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
3. Bình luận khoa học Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, Bộ Tư Pháp-Viện
khoa học pháp lí, Đinh Thị Mai Phương.
4. Tạp chí luật học số 5 năm 1998.
11