Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Tài liệu Báo cáo " Cần sửa đổi, bổ sung một số điều về hợp đồng vay tài sản trong bộ luật dân sự " ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.88 KB, 4 trang )



T¹p chÝ luËt häc 39
®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù







ùng với các quan hệ cho vay tài sản đang
ngày càng đa dạng và phức tạp cả về số
lượng và nội dung thì các văn bản pháp luật
điều chỉnh về vấn đề này cũng phát triển theo.
Đến nay, các văn bản điều chỉnh về hợp đồng
vay tài sản mà đặc biệt là hợp đồng vay tiền đã
khá hoàn thiện và đồng bộ. Có thể kể đến Bộ
luật dân sự, Nghị định số 63/1998/NĐ-CP
ngày 17/8/1998 về quản lí ngoại hối, Thông tư
số 01/TTLT ngày 19/6/1997 hướng dẫn việc
xét xử và thi hành án về tài sản và nhiều các
văn bản dưới luật khác như Công văn số
43/1999/KHXX ngày 24/5/1999 của Tòa án
nhân dân tối cao về tính lãi suất đối với các
khoản tiền vay của ngân hàng, Công văn số
49/1999/KHXX ngày 8/6/1999 của Tòa án
nhân dân tối cao về việc áp dụng Thông tư
liên tịch số 01, Báo cáo công tác xét xử của
ngành toà án các năm, Công văn số
81/2002/TANDTC ngày 10/6/2002 giải đáp


một số vấn đề về nghiệp vụ xét xử, các
công văn của Ngân hàng nhà nước, các
quyết định của Thống đốc Ngân hàng nhà
nước Việt Nam
Tuy nhiên, Bộ luật dân sự - văn bản có
hiệu lực cao nhất, mang tính quy định chung
lại có một số điều luật có nội dung chưa chặt
chẽ, rõ ràng gây khó hiểu hoặc chưa theo kịp
với các quan hệ vay tài sản đang biến đổi
không ngừng trên thực tế. Để đóng góp ý kiến
cho việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự, ở bài
viết này chúng tôi xin phân tích một số điểm
hạn chế và đề xuất hướng khắc phục như sau:
1. Nghĩa vụ của bên cho vay
Khoản 3 Điều 470 quy định bên cho vay
"không được yêu cầu bên vay trả lại tài sản
trước thời hạn trừ trường hợp quy định ở Điều
475 của Bộ luật này".
Thực ra quyền yêu cầu trả tài sản trước
thời hạn không chỉ được quy định ở Điều 475
mà còn được quy định ở Điều 472. Tuy nhiên,
việc đòi lại tài sản vay trước thời hạn là quyền
của bên cho vay khi thoả mãn điều kiện do các
bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định.
Không có quyền không có nghĩa là người cho
vay phải có nghĩa vụ đối lập với quyền đó. Do
đó, để tránh sự trùng lặp và đảm bảo được sự
khái quát của tên điều luật đối với nội dung thì
việc quy định như ở khoản 3 là không cần
thiết.

2. Nghĩa vụ trả nợ của bên vay
Khoản 4 Điều 471 quy định: "Trong
trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn
bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ, thì
bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả
theo lãi suất tiết kiệm có kì hạn của Ngân
hàng nhà nước tương ứng với thời hạn chậm
C
* Giảng viên Khoa luật dân sự
Trường đại học luật Hà Nội
NguyÔn Minh Oanh *


®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù

40 T¹p chÝ luËt häc

trả tại thời điểm trả nợ, nếu có thoả thuận".
Trong hợp đồng vay có thời hạn mà khi
đến hạn bên vay không thực hiện nghĩa vụ trả
nợ và bên cho vay không đồng ý cho vay tiếp thì
bên vay đã vi phạm nghĩa vụ trả tiền. Theo quy
định tại khoản 2 Điều 313 thì “Trong trường
hợp người có nghĩa vụ chậm trả tiền, thì người
đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi
suất nợ quá hạn do Ngân hàng nhà nước quy
định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời
điểm thanh toán trừ trường hợp có thoả thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Như vậy, trong hợp đồng cho vay, nếu

bên cho vay và bên vay không có thoả thuận
gì khác thì tiền lãi sẽ được tính như thế nào?
Sẽ áp dụng khoản 4 Điều 471 hay khoản 2
Điều 313?
Theo chúng tôi, trong trường hợp này vì
trước đó giữa các bên đã thoả thuận một hợp
đồng cho vay có kì hạn và không có lãi, nếu
khi đến hạn bên vay không trả nợ mà áp dụng
lãi suất nợ quá hạn sẽ không tương xứng với
việc áp dụng chế tài trong trường hợp các bên
đã thoả thuận trước đó hợp đồng vay có thời
hạn và có lãi. Do đó, khi đến hạn mà bên vay
không thực hiện nghĩa vụ thì chỉ nên áp dụng
lãi suất tiết kiệm có kì hạn tương ứng với thời
gian chậm trả như khoản 4 Điều 471 là vừa
phải và hợp lí và đây cũng sẽ được coi là
trường hợp pháp luật có quy định khác ở
khoản 2 Điều 313. Tuy nhiên, muốn vậy thì ở
khoản 4 của Điều 471 cần phải bỏ cụm từ “nếu
có thoả thuận” hoặc thêm vào cụm từ “trừ
trường hợp các bên có thoả thuận khác”.
Đối với hợp đồng vay có lãi và có kì hạn
khoản 5 Điều 471 quy định “Trong trường hợp
vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả
hoặc trả không đầy đủ, thì bên vay phải trả lãi
trên nợ gốc và lãi theo lãi suất nợ quá hạn của
Ngân hàng nhà nước tương ứng với thời hạn
vay tại thời điểm trả nợ.
Quy định tại khoản 5 đã dẫn đến hai cách
hiểu khác nhau về cách tính lãi đối với hợp

đồng vay có kì hạn và có lãi trong trường hợp
bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ:
Cách 1:
Lãi = lãi suất thoả thuận x nợ gốc + lãi suất
quá hạn x nợ gốc x thời hạn vay.
Cách 2:
Lãi = (nợ gốc + lãi) x lãi suất quá hạn x thời hạn vay.
Cả hai cách hiểu như vậy đều không chính
xác bởi vì:
Thứ nhất: Tiền lãi về nguyên tắc chỉ được
tính trên nợ gốc (khoản 4 Điều 295).
Thứ hai: Nếu tính lãi suất nợ quá hạn thì
phải tính theo thời gian chậm trả chứ không
được tính trên thời hạn vay.
Có ý kiến giải thích rằng tương ứng với
thời hạn vay tức là khoảng thời gian này tương
ứng với thời hạn của loại cho vay nào (ngắn
hạn, trung hạn, hay dài hạn) của Ngân hàng
nhà nước quy định thì áp dụng mức trần lãi
suất cho vay của loại đó. Việc giải thích như
vậy là không hợp lí bởi lẽ tương ứng với thời
hạn vay phải được hiểu là tương ứng với
khoảng thời gian do các bên thoả thuận hoặc
pháp luật quy định mà trong khoảng thời gian
đó bên vay được quyền sở hữu tài sản của bên
cho vay. Còn nếu hiểu như sự giải thích ở trên
thì Điều luật phải quy định là “theo lãi suất nợ
quá hạn của Ngân hàng nhà nước đối với loại
cho vay tương ứng” như quy định tại khoản 1
Điều 473. Bên cạnh đó tại khoản 4 cũng đã

quy định là tính lãi theo lãi suất tiết kiệm có kì
hạn của Ngân hàng nhà nước tương ứng với
thời hạn chậm trả. Như vậy, ngay trong cùng


T¹p chÝ luËt häc 41
®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù

một điều luật, việc quy định đã không có sự
thống nhất.
Với những phân tích ở trên chúng tôi xin
kiến nghị khoản 5 Điều 471 cần được sửa đổi
như sau: Trong trường hợp vay có lãi mà khi
đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy
đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc tương
ứng với thời hạn vay và lãi trên nợ gốc theo lãi
suất nợ quá hạn của Ngân hàng nhà nước
tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm
trả nợ.
Quy định như vậy thì cách tính lãi trong
các hợp đồng vay sẽ được giải quyết như sau:
Lãi = lãi/nợ gốc/thời hạn vay + lãi quá
hạn/nợ gốc/thời hạn chậm trả
Hay có thể diễn giải một cách chi tiết:
Lãi = lãi trong thời hạn + lãi quá hạn
Lãi trong thời hạn = nợ gốc x lãi suất thoả
thuận (không quá 150%) x thời hạn vay
Lãi quá hạn = nợ gốc x lãi suất quá hạn x
thời hạn chậm trả.
Và cách tính như vậy cũng đã được thừa

nhận trong các văn bản hướng dẫn cũng như
thực tiễn xét xử tại các toà án.
3. Sử dụng tài sản vay
Điều 472 quy định trong trường hợp các
bên có thoả thuận về việc sử dụng tài sản vay
đúng mục đích mà bên vay không thực hiện
thì bên cho vay có quyền đòi lại tài sản trước
thời hạn nếu đã nhắc nhở mà bên vay vẫn sử
dụng tài sản trái mục đích nhưng điều luật lại
không quy định hậu quả pháp lí trong trường
hợp này sẽ giải quyết như thế nào? Nếu là vay
có kì hạn và có lãi thì khi đòi lại tài sản vay
trước kì hạn bên vay có được trả lãi không?
Nếu được thì tính đến thời điểm nào, thời
điểm trả tài sản hay phải trả toàn bộ lãi theo kì
hạn? Thiết nghĩ trong trường hợp này các nhà
làm luật nên coi đây là một căn cứ để bên cho
vay đơn phương đình chỉ hợp đồng. Khi đó
các bên sẽ giải quyết hậu quả của chấm dứt
hợp đồng tức là bên cho vay tài sản có quyền
lấy lại tài sản, được hưởng lãi đến thời điểm
chấm dứt hợp đồng và có thể yêu cầu bồi
thường thiệt hại. Và điều luật này nên được
sửa theo hướng sau: “Các bên có thể thoả
thuận về việc tài sản vay phải được sử dụng
đúng mục đích vay; bên cho vay có quyền
kiểm tra việc sử dụng tài sản và có quyền đơn
phương đình chỉ hợp đồng nếu đã nhắc nhở
mà bên vay vẫn sử dụng tài sản trái mục đích”.
4. Lãi suất

Trong hợp đồng vay tài sản thì lãi suất là
một yếu tố rất quan trọng vì nó là cơ sở để tính
lãi và đa số các tranh chấp về hợp đồng vay tài
sản có nguyên nhân từ lãi, mức lãi suất. Nhằm
tránh trường hợp cho vay nặng lãi, bên cho
vay lợi dụng lãi suất để thu lời bất chính, Bộ
luật dân sự có quy định về mức lãi suất tại
khoản 1 Điều 473: “Lãi suất vay do các bên
thoả thuận nhưng không được vượt quá 50%
của lãi suất cao nhất do Ngân hàng nhà nước
quy định đối với loại cho vay tương ứng”.
Theo quy định trên, đặc biệt khi áp dụng
vào thực tiễn, quy định “không vượt quá 50%
của lãi suất cao nhất do Ngân hàng nhà nước
quy định” được hiểu theo hai cách sau:
- Thứ nhất, về mặt ngôn ngữ thì lãi suất do
các bên thoả thuận không vượt quá 50% được
hiểu là không được vượt quá một nửa lãi suất
cao nhất do Ngân hàng nhà nước quy định. Ví
dụ: Lãi suất cao nhất do Ngân hàng nhà nước
quy định là 2% thì các bên không được thoả
thuận lãi suất vượt quá 1%.
- Thứ hai, có thể hiểu quy định đó là lãi
suất do các bên thoả thuận không được vượt


®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù

42 T¹p chÝ luËt häc


quá 150% mức lãi suất cao nhất do Ngân hàng
nhà nước quy định. Cách hiểu này phù hợp với
các công văn hướng dẫn của Toà án nhân dân
tối cao và đặc biệt Thông tư liên tịch số
01/TTLT ngày 19/06/1997 quy định: Nếu mức
lãi suất do các bên thoả thuận vượt quá 50%
của lãi suất cao nhất do Ngân hàng nhà nước
quy định đối với loại vay tương ứng tại thời
điểm vay thì toà án áp dụng khoản 1 Điều 473
Bộ luật dân sự buộc bên vay phải trả lãi bằng
150% mức lãi suất cao nhất do Ngân hàng nhà
nước quy định đối với loại vay tương ứng.
Như vậy, nếu lãi suất ngân hàng quy định là
2% thì các bên thoả thuận không quá 3%. Hiện
nay cách hiểu này được thừa nhận và áp dụng
trong thực tiễn xét xử .
Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 473 lại quy
định: "Trong trường hợp các bên có thoả thuận
về việc trả lãi trong việc vay nhưng không xác
định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất,
thì áp dụng lãi suất tiết kiệm có kì hạn do Ngân
hàng nhà nước quy định tương ứng với thời
hạn vay tại thời điểm trả nợ”.
Như vậy, có tranh chấp về lãi suất ở đây
được hiểu là gì? Nếu các bên thoả thuận mức
lãi suất quá cao và sau đó bên vay lại không
chấp nhận mức lãi suất đó nữa và khởi kiện
thì giải quyết như thế nào? Sẽ áp dụng mức
lãi suất tiết kiệm có kì hạn do Ngân hàng
nhà nước quy định như tại khoản 2 hay áp

dụng mức lãi suất bằng 150% mức lãi suất
cao nhất như quy định tại khoản 1 và một số
văn bản khác? Để tránh cho việc hiểu sai dẫn
đến việc áp dụng khác nhau về vấn đề này
khoản 2 Điều 473 nên bỏ cụm từ “hoặc có
tranh chấp về lãi suất”.
Tuy nhiên, hiện nay, theo Quyết định số
546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/5/2002 của Thống
đốc Ngân hàng nhà nước về việc cơ chế lãi suất
thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại
bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng đối với
khách hàng thì hiện nay Ngân hàng nhà nước sẽ
thực hiện quy chế lãi suất do tổ chức tín dụng
xác định chứ không quy định mức lãi suất cao
nhất như trước nữa. Do đó, khi sửa đổi Bộ luật
dân sự cũng cần phải xem xét đến vấn đề này để
tránh việc các quy định của Bộ luật dân sự
không áp dụng được trên thực tế.
Tóm lại, hợp đồng vay tài sản là loại giao
dịch rất phổ biến trong đời sống hàng ngày.
Nó không chỉ giúp bên vay giải quyết, khắc
phục khó khăn mà còn có tác dụng huy động
được số tiền nhàn rỗi trong nhân dân tới tay
người cần dùng tránh lãng phí, đẩy nhanh tốc
độ lưu thông tiền tệ góp phần vào sự nghiệp
phát triển kinh tế đất nước. Trong nền kinh tế
thị trường hiện nay, khi cho vay không chỉ còn
là giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, là tương
thân tương ái mà còn là hoạt động kinh doanh
thu lợi nhuận thì nhiều loại hình tổ chức tín

dụng đã ra đời. Bên cạnh đó đối tượng của hợp
đồng vay cũng ngày càng đa dạng hơn như
tiền, kim khí quý, ngoại hối và các tài sản
khác thì những quy định ít ỏi trong khuôn
khổ 9 điều của Bộ luật dân sự về hợp đồng
vay tài sản chưa đáp ứng được các yêu cầu
thực tế đặt ra. Nên chăng, Bộ luật dân sự sửa
đổi lần này cần bổ sung các quy định về một
số hợp đồng vay cụ thể, đặc biệt như hợp
đồng vay vàng, hợp đồng vay ngoại hối, hợp
đồng vay giữa cá nhân, tổ chức với tổ chức
tín dụng v.v. làm cơ sở pháp lí cho việc giao
kết và thực hiện các giao dịch này trên thực
tế được an toàn và thuận lợi./.

×