Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Các hình thức tham gia quản lí hành chính nhà nước của nhân dân lao động – thực tiễn áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.69 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I. Khái quát nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành chính nhà
nước
II. Các hình thức tham gia quản lí hành chính nhà nước của nhân dân lao động – thực tiễn
áp dụng
1. Tham gia vào hoạt động quản lí của các cơ quan nhà nước
2. Tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội
3. Tham gia vào hoạt động tự quản ở cơ sở
4. Trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lí hành chính
nhà nước
III. Ý nghĩa của nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí nhà nước
IV. Phương hướng hoàn thiện để nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào
quản lí hành chính nhà nước đi sâu vào thực tiền và phát huy tác dụng
LỜI KẾT

1


LỜI MỞ ĐẦU
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì
dân. Do đó, chỉ khi nào người dân thực sự đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoạt
động quản lý của Nhà nước thì việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền mới
thực sự thành công. Việc mở rộng hình thức tham gia của nhân dân vào hoạt động quản lý
nhà nước không chỉ đòi hỏi từ sự hội nhập mà quan trọng hơn là từ chính yêu cầu của công
cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường, dân chủ hóa đời sống xã hội và của bản thân
Nhà nước. Mở rộng sự tham gia mạnh mẽ của người dân vào các quá trình ra quyết định,
các hoạt động quản lý nhà nước sẽ đóng góp quan trọng cho việc xây dựng một xã hội
công bằng và dân chủ, ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện hiện
nay. Bài viết này em xin phân tích nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào


quản lí hành chính nhà nước. Qua tìm hiểu thực tế để đánh giá việc vận dụng nguyên tắc
này trong quản lí hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay.

2


NỘI DUNG
I. Khái quát nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí nhà nước:
Với bản chất dân chủ sâu sắc, nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân được
nhà nước xã hội chủ nghĩa ghi nhận và đảm bảo thực hiện. Nhà nước xã hội chủ nghĩa do
nhân dân lao động tự tổ chức để thực hiện quyền lực của mình. Điều 2 Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) nêu rõ: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”.
Để nhân dân lao động thực sự giữ vai trò là người làm chủ đất nước, việc tạo điều
kiện để nhân dân lao động tham gia vào quản lí hành chính nhà nước phải được ghi nhận
và đảm bảo thực hiện như là một nguyên tắc cơ bản trong quản lí hành chính nhà nước.
Điều 3 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) khẳng định: “Nhà nước bảo đảm
và không ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân”. Quyền được tham gia vào quản lí
các công việc của nhà nước và xã hội là quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp ghi
nhận và trên thực tế nó đã được bảo đảm thông qua những hoạt động cụ thể.
Điều 53 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà
nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến
nghị với cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. Nguyên
tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào hoạt động quản lí hành chính của nhà nước
khẳng định vai trò quan trọng của nhân dân lao động trong quản lí hành chính nhà nước.
Mặt khác, nó cũng xác định những nhiệm vụ mà Nhà nước phải thực hiện để đảm bảo
những điều kiện cơ bản để nhân dân lao động tham gia vào quản lí hành chính nhà nước.
Trong quản lí hành chính nhà nước, nguyên tắc này thể hiện ở những hình thức tham gia

vào hoạt động quản lí hành chính nhà nước của nhân dân lao động. Đây là những hình thức
được pháp luật ghi nhận và đảm bảo thực hiện bằng các phương tiện của Nhà nước. Các

3


hình thức tham gia vào quản lí hành chính nhà nước của nhân dân lao động bao gồm:
Tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước; tham gia vào các hoạt động của các tổ
chức xã hội; tham gia vào hoạt động tự quản ở cơ sở; trực tiếp thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của công dân trong quản lí hành chính nhà nước.
Bảo đảm sự tham gia của nhân dân vào công việc quản lý nhà nuớc đã được ghi
trong Hiến pháp, những bộ luật: Luật Bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Luật Tổ
chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân
dân, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Phòng,
chống tham nhũng, trong đó quy định cụ thể các điều kiện, hình thức, phương thức để nhân
dân tham gia vào hoạt động quản lý của Nhà nước như việc các đại biểu, các cơ quan nhà
nước phải tiếp nhận và giải quyết các đề xuất, kiến nghị, khiếu nại của người dân, tiếp thu
các ý kiến đóng góp vào các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, các chương trình,
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội... Các luật về các tổ chức chính trị - xã hội như Luật
Công đoàn, Luật Thanh niên, Luật Mặt trận Tổ quốc cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về
vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội tham gia công việc quản lý nhà nước. Cùng với
những quy định chung, trong sự phát huy dân chủ, Chính phủ đã có Nghị định số
29/1998/NĐ-CP ban hành Quy chế thực hiện Dân chủ cơ sở, trong đó quy định các việc
chính quyền cơ sở phải công khai xin ý kiến của nhân dân và quy định cụ thể các công việc
mà người dân có quyền quyết định tại địa phương.
II. Các hình thức tham gia quản lí hành chính nhà nước của nhân dân lao động:
1. Tham gia vào hoạt động quản lí của các cơ quan nhà nước:
Các cơ quan trong bộ máy nhà nước là công cụ để thực hiện quyền lực nhà nước. Vì
vậy, tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước là hình thức tham gia tích cực, trực
tiếp và có hiệu quả của người lao động vào hoạt động quản lí nhà nước. Người lao động

nếu đáp ứng đầy đủ các yêu cầu mà pháp luật quy định đều có thể tham gia vào hoạt động
của các cơ quan nhà nước để trực tiếp hay gián tiếp thực hiện công việc quản lí hành chính
nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
4


Nhân dân lao động có thể tham gia hoạt động của các cơ quan nhà nước qua ba hình
thức:
_ Tham gia vào cơ quan nhà nước với tư cách là thành viên của cơ quan này – những
đại biểu được lựa chọn thông qua con đường bầu cử.
_ Tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước khác như: Cơ quan hành chính
nhà nước, cơ quan kiểm sát, cơ quan xét xử... với tư cách là những cán bộ, công chức.
_ Tham gia vào các hoạt động của các cơ quan nhà nước thông qua việc thực hiện
quyền lựa chọn những đại biểu xứng đáng thay mặt mình vào cơ quan quyền lực nhà nước
ở trung ương hay địa phương.
Quyền bầu cử là một quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp, pháp luật quy
định. Do đó, việc tổ chức và triển khai cuộc bầu cử phải bảo đảm cho cử tri thực hiện được
đầy đủ quyền bầu cử và ứng cử của mình. Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội phải được tiến
hành thực sự dân chủ; thẩm quyền, trình tự, thủ tục phải được thực hiện đúng quy định của
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, các văn bản hướng dẫn của Uỷ ban thường vụ Quốc hội,
Chính phủ... Cuộc bầu cử phải đảm bảo an toàn và tiết kiệm, thể hiện đây là ngày hội của
toàn dân, tạo điều kiện thuận lợi nhất để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình trong
việc trực tiếp tham gia xây dựng chính quyền nhà nước. Quyền bầu cử của công dân được
quy định tại Điều 2 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 2001 và Điều 2 Luật bầu cử đại
biểu Hội dồng nhân dân năm 2001, theo đó: Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình
độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và
đủ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội hoặc đại biểu Hội đồng nhân dân
theo quy định của pháp luật.
Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân được thực hiện rộng rãi đến

từng cấp cơ sở, nhân dân lao động được thông báo về những đại biểu ứng cử và được thực
hiện quyền bầu cử của mình một cách triệt để. Công tác tuyên truyền trong cuộc bầu cử đã

5


được quan tâm, chú trọng nhiều hơn trong những năm gần đây, hằm động viên mọi tầng
lớp nhân dân nêu cao tinh thần làm chủ, tự giác tham gia bầu cử để lựa chọn các đại biểu
có đủ phẩm chất và năng lực, xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân
tham gia Quốc hội, đồng thời, tạo không khí dân chủ, cởi mở, ý thức trách nhiệm công dân,
thái độ tích cực tham gia xây dựng Nhà nước.
2. Tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội:
- Nhà nước ban hành nhiều quy định liên quan tới vị trí, vai trò, quyền và nghĩa vụ
của các tổ chức xã hội trong quản lí hành chính nhà nước nói riêng và quản lí nhà nước nói
chung. Điều 9 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) quy định: “Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân”.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng giúp đỡ về mặt vật chất và tinh thần để cho các tổ chức xã hội
thực sự trở thành công cụ đắc lực của nhân dân lao động trong việc thực hiện quyền tham
gia quản lí nhà nước của mình. Thông qua các hình thức hoạt động của các tổ chức xã hội,
vai trò chủ động sáng tạo của nhân dân lao động được phát huy trong quản lí hành chính
nhà nước.
Nhà nước đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân lao động có thể tham gia một
cách tích cực vào hoạt động của các tổ chức xã hội. Trên thực tế, các tổ chức xã hội đã thu
hút một lực lượng đông đảo quần chúng nhân dân lao động tham gia vào quản lí hành
chính nhà nước. Vì vậy, đây là một hình thức hoạt động rất có ý nghĩa đối với việc thúc
đẩy và mở rộng nên dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Thực tiễn hoạt động của các tổ chức xã hội: Cho đến nay bên cạnh 6 đoàn thể
chính trị - xã hội: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt
Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Chính phủ cho phép thành lập 400 hội có phạm vi

toàn quốc, bao gồm các hội nghề nghiệp, hội nhân đạo từ thiện, các hội của các tổ chức
kinh tế... Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cho phép hơn 6500 hội

6


có phạm vi hoạt động tại địa phương, đó là chưa kể hàng vạn hội được thành lập, hoạt
động tại các xã, phường, thị trấn, quận, huyện. Ngoài ra có khoảng hàng nghìn tổ chức phi
chính phủ đã đăng ký hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ, bảo trợ xã hội, tư vấn
pháp luật, tài chính vi mô, các quỹ xã hội, quỹ từ thiện... Các tổ chức xã hội đã và đang
hoạt động ngày càng có hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong giai đoạn mới, khi đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới, để tạo điều kiện
cho các tổ chức xã hội ra đời và phát triển, Nghị quyết 8B-NQ/HNTW (khoá VI) Đảng đã
nêu rõ: “trong giai đoạn mới cần thành lập các hội đáp ứng nhu cầu chính đáng về nghề
nghiệp và đời sống nhân dân, hoạt động theo hướng ích nước lợi nhà, tương thân tương ái.
Các tổ chức này được thành lập theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản và tự trang trải về tài
chính trong khuôn khổ pháp luật”. Nghị quyết Đại hội Đảng IX tiếp tục khẳng định: “mở
rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân tham gia các đoàn thể nhân dân, các tổ
chức xã hội, các hội nghề nghiệp, văn hoá, hữu nghị, từ thiện, nhân đạo”.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước, Chính phủ đã ban hành
nhiều văn bản pháp quy tạo điều kiện cho các loại hình tổ chức của dân ra đời: Nghị định
số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản
lý hội, Nghị định 148/2007/NĐ-CP ngày 25/9/2007 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động
và quản lý quỹ, Nghị định 25/CP ngày 31/5/2001 của Chính phủ ban hành quy chế thành
lập và hoạt động của cơ sở bảo trợ xã hội... Nghị quyết 05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh xã
hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao. Đặc biệt năm 2000 Chính
phủ ban hành quy chế dân chủ xã, phường và nay Uỷ ban Thường vụ Quốc hội vừa thông
qua Pháp lệnh quy chế dân chủ. Đây là những văn bản pháp quy hết sức quan trọng tạo
điều kiện cho các tổ chức các tổ chức nhân dân ở Việt Nam ra đời và hoạt động có hiệu
quả.

3. Tham gia vào hoạt động tự quản ở cơ sở:
Các hoạt động tự quản ở cơ sở như bảo vệ an ninh trật tự, vệ sinh môi trường, tổ
chức đời sống công cộng... đều rất gần gũi và thiết thực đối với cuộc sống của mỗi người
7


dân. Thông qua những hoạt động mang tính chất tự quản mà người dân lao động là những
chủ thể tham gia tích cực, quyền tham gia quản lí nhà nước, quản lí xã hội của người dân
mà pháp luật đã quy định thực sự tôn trọng và đảm bảo thực hiện. Nhà nước đã tạo những
điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để phát huy vai trò chủ động, tích cực của nhân
dân lao động trong việc tham gia những hoạt động có tính chất tự quản nêu trên.
Chế độ tự quản ở cơ sở đã giúp nâng cao ý thức của cộng đồng về bảo vệ môi
trường, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Điều này được thể hiện rõ qua các phong
trào “Gọn nhà, sạch phố”, “quyết tẩy trừ tệ đổ rác ra đường, rác trên tường” và các phong
trào khác do các tổ chức cấp cơ sở phát động. Từ tự phát chuyển thành tự giác, nhiều nơi
đã cùng nhau tổng vệ sinh, xóa chân rác, giữ gìn môi trường sạch, đẹp.
Tự quản ở cơ sở còn góp phần giải quyết tình trạng tranh chấp, bất đồng trong cuộc
sống và sinh hoạt cộng đồng. Khi sửa hè phố, công trình xây dựng liền kề… cán bộ mặt
trận, tổ dân phố và cộng đồng thường xuyên có mặt theo dõi, giám sát đảm bảo công trình
đạt chất lượng cao, không xâm lấn sang phần đất, công trình xây dựng của láng giềng. Ở
một số nơi, để khắc phục tình trạng mất an toàn trật tự khu phố, chi hội cựu chiến binh đề
xuất với chính quyền thành lập đội bảo vệ do các hội viên tình nguyện tham gia, không
nhận tiền bồi dưỡng. Ngày đêm, đội phân công trực và tuần tra duy trì sự bình yên của khu
dân cư.
4. Trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lí hành chính
nhà nước:
Điều 53 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) đã quy định công dân có
quyền: “tham gia quản lí nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả
nước và đia phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý
dân”. Để thực hiện quyền cơ bản này, pháp luật đã quy định các quyền và nghĩa vụ cụ thể

của công dân trong các lĩnh vực khác nhau của quản lí hành chính nhà nước. Những quỳên
và nghĩa vụ này của công dân có thể thực hiện thông qua hoạt động của các cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội hoặc cũng có thể được chính người dân trực tiếp thực hiện. Cùng
8


với sự phát triển của xã hội, các quyền và nghĩa vụ của công dân ngày càng được đảm bảo
thực hiện một cách đầy đủ hơn. Đây là một hình thức có ý nghĩa quan trọng để nhân dân
lao động phát huy vai trò của mình.
Quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lí hành chính nhà nước bắt nguồn từ
Hiến pháp và chỉ có thể trở thành hiện thực khi được cụ thể hoá thành các quyền, nghĩa vụ
cụ thể trong các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Thông qua việc thực hiện quyền và nghĩa vụ, công dân tham gia trực tiếp vào hoạt động
quản lí nhà nước. Nhà nước tạo mọi điều kiện cần thiết để thu hút nhân dân tham gia đông
đảo vào quản lí nhà nước, nâng cao tính tích cực chính trị của mỗi cá nhân công dân.
III. Ý nghĩa của nguyên tắc nhân dân lao động tham gia dông đảo vào quản lí nhà
nước
Nhân dân lao động là yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, là nguồn lực xã hội, tạo
ra của cải vật chất cho xã hội. Công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ
nghĩa xã hội với mục tiêu khắc phục tha hoá, giải phóng con ngưòi, đưa nhân dân lao động
trở thành người làm chủ mọi quyền lực xã hội sẽ khơi dậy sức sang tạo của nhân dân trong
công cuộc xây dựng đất nước, trong việc tham gia quản lí nhà nước. Một khi tất cả nhân
dân mà cơ bản là nhân dân lao động thực sự tham gia quản lí hành chính thì chế độ chính
trị - xã hội sẽ ổn định, bền vững. Đó là lợi thế so sánh phát triển của các quốc gia trong bối
cảnh thế giới ngày nay. Bởi vì như vậy sẽ phát huy được mọi nguồn nội lực trong nước,
tranh thủ được nguồn lực quốc tế, tạo đà cho đất nước phát triển nhanh, có khả năng tiến
kịp các nước tiên tiến.
Nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành chính nhà nước là nguyên
tắc đặc biệt quan trọng trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của nước ta, cũng như
đối với các nước đi theo con đưòng xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này khẳng định vai trò

quan trọng của nhân dân lao động trong quản lí hành chính nhà nước, đùng như nguyên lí
khoa học “nhân dân là gốc của quyền lực nhà nước” mà chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra và
thực tiễn lịch sử đã chứng minh. Mặt khác, nó cũng xác định những nhiệm vụ mà Nhà
9


nước phải thực hiện trong việc đảm bảo những điều kiện cơ bản để nhân dân lao động tham
gia vào quản lí hành chính nhà nước.
IV. Phương hướng hoàn thiện để nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo
vào quản lí hành chính nhà nước đi sâu vào thực tiền và phát huy tác dụng
- Xác định rõ và nâng cao bản chất giai cấp, bản chất cách mạng của hệ thống chính
trị. Đảm bảo quyền được tham gia vào quản lí hành chính nhà nước của nhân dân lao động.
Phải có một đội ngũ cán bộ, đảng viên thiết tha với lí tưởng, hết long vì nhân dân thì những
chủ trương, chính sách, những công việc đảm bảo quyền lợi của nhân dân mới được thực
hiện.
- Về quy trình bầu cử, cần phải sửa đổi quy trình tiến hành bầu cử cho thống nhất
giữa hai luật; kéo dài thời gian từ lúc ấn định và công bố ngày bầu cử cho đến ngày bầu cử,
trên cơ sở đó phân bổ thời gian hợp lý cho từng công đoạn trong quá trình chuẩn bị bầu cử,
nhất là thời gian dành cho công tác hiệp thương. Thực hiện dân chủ trong bầu cử, cụ thể là
ở các khâu của quy trình bầu cử, từ việc lựa chọn ứng cử viên, hiệp thương lập danh sách
ứng cử viên, quy trình tiếp xúc với cử tri, cho đến việc các ứng cử viên xuất hiện trên các
phương tiện thông tin đại chúng trình bày cương lĩnh tranh cử của mình; mặt khác phải tạo
nên không khí tranh luận về các vấn đề của đời sống xã hội trong nhân dân, tổ chức bỏ
phiếu công minh, đúng pháp luật…
- Các tổ chức chính trị - xã hội cần phải được đổi mới. Hoạt động của các tổ chức
chính trị - xã hội một mặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, tuân theo pháp luật của Nhà nước;
nhưng mặt khác đây lại là những tổ chức tự nguyện, tự chủ và tự quyết, mang tính chất là
những hội đoàn thể, đưa lại lợi ích về vật chất, tinh thần , văn hoá, bảo vệ quyền công dân,
quyền con người cho nọi thành viên. Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các
đoàn thể nhân dân ở nước ta là một trong những giải pháp đảm bảo nguyên tắc nhân dân

lao động tham gia đông đảo vào quả lí hành chính nhà nước.

10


LỜI KẾT
Thời gian qua, với trách nhiệm xây dựng Nhà nước, quần chúng nhân dân mà phần
đông là nhân dân lao động đã đóng góp nhiều ý kiến, phản ánh, tham gia tích cực vào các
hoạt động quản lí nhà nước. Nhiều cơ quan, tổ chức xã hội từ cấp trung ương đến cấp cơ sở
do nhận thức đúng về vai trò, trách nhiệm của nhân dân, đã quan tâm phối hợp với nhân
dân lao động để họ thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình trong lĩnh vực quản lí nhà
nước. Để có thể đảm bảo sự bền vững, phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta thì
nguyên tắc nhân dân lao động tham gia quản lí nhà nước là một nguyên tắc đặc biệt quan
trọng làm cho nhân dân thực sự tin tưởng vào chủ trương đường lối chính sách của Đảng
cũng như luật pháp của nhà nuớc, và nhà nước thực sự là nhà nước của dân do dân và vì
dân. Một lần nữa khẳng định vai trò của nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo
vào quản lý nhà nước mang đậm bản chất giai cấp của nhà nứơc ta một nền dân chủ rộng
rãi xây dựng nên nhằm phục vụ nhân dân lao động thì tất yếu việc nhân dân lao động đóng
góp ý kiến xây dựng Đảng, nhà nước là việc làm cần thiết để khắc phục những điểm hạn
chế phát huy những quan điểm tiến bộ trong nền kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ
nghĩa.

11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam – NXB Công an nhân dân – Hà Nội 2008.
2. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 sửa đổi bổ sung năm
2001 – NXB Tư pháp.
3. Website: -

-

12



×