Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tìm hiểu nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước và thực tế áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.17 KB, 14 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Cân đối NSNN là một trong những nội dung cơ bản nhất của nền tài chính quốc
gia và là điều tiên quyết để đảm bảo sự ổn định lành mạnh cho nền tài chính quốc
gia. Mỗi nhà nước khi thành lập và đi vào hoạt động đều có ngân sách nhà nước để
đảm bảo thực hiện được tốt chức năng và nhiệm vụ của mình, để thực hiện tốt chức
năng và nhiệm vụ đó thì đòi hỏi phải có một ngân sách ổn định và cân đối. Đã có
nhiều học thuyết về cân đối ngân sách nhà nước tuy nhiên để thực hiện được vấn đề
này trong thực tế là điều rất khó khăn vì tình hình kinh tế - xã hội của mỗi quóc gia
luôn biến đổi không ngừng, có thể là tăng trưởng, phát triển những cũng có thể rơi
vào khủng hoảng, suy thoái. Điều này dẫn đến tình trạng NSNN rơi vào tình trạng
mất cân đối, bội thu hay bội chi. Vì vậy, mỗi quốc gia cần lựa chọn và vận dụng
những phương thức khác nhau phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của nước mình
để cân đối ngân sách cho hiệu quả.
Ở Việt Nam trong thời gian vừa qua, ngân sách nhà nước cũng rơi vào tình trạng
không ổn định và mất cân đối kéo dài đã kéo theo những hậu quả làm ảnh hưởng đến
sự phát triển của nền kinh tế và nhiều vấn đề xã hội nảy sinh. Để khắc phục tình
trạng này, Nhà nước và Chính phủ đã kịp thời quan tâm, có nhiều vấn đề trong việc
cải cách quản lý hành chính, đổi mới chính sách thu, chi NSNN để hướng tới một
ngân sách cân đối nhằm góp phẩn thúc đẩy kinh tế phát triển, ổn định xã hội và kiểm
soát tình trạng lạm phát đang diễn ra ở nước ta và đưa Việt Nam tiến vào thời kỳ hội
nhập nền kinh tế thế giới. Để tìm hiểu chính sách của Nhà nước và Chính phủ trong
việc cân đối NSNN, em xin chọn đề tài: Tìm hiểu nguyên tắc cân đối trong hoạt
động ngân sách nhà nước và thực tế áp dụng.

B. NỘI DUNG
I.
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NSNN VÀ CÂN ĐỐI NSNN
1. Khái quát về ngân sách nhà nước.
a. Khái niệm ngân sách nhà nước.
Trong hệ thống tài chính, ngân sách nhà nước là một bộ phận chủ đạo, là điều
kiện vật chất quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước do Hiến pháp quy


định, nó còn là công cụ quan trọng của nhà nước có tác dụng điều tiết vĩ mô nền
kinh tế xã hội, muốn sử dụng tốt công cụ này phải nhận thức được những vấn đề lý
luận cơ bản về ngân sách nhà nước. Khái niệm NSNN phải được xem xét trên các
mặt khác nhau.
1


* Xét về phương diện kinh tế, NSNN là bản dự toán về các khoản thu và khoản
chi tiền tệ của quốc gia, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thực hiện
trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm. Từ định nghĩa này có thể
thấy hai yếu tố cơ bản trong NSNN, đó là:
- NSNN là bản kê khai tài chính quốc gia, thông qua hành vi kinh tế là xác lập
nội dung thu, chi liên quan đến ngân quỹ của nhà nước. Do đó phải được Quốc hội
với tư cách là người đại diện cho toàn thể nhân dân trong quốc gia đó quyết định
trước khi Chính phủ đem ra thi hành trên thực tế, đồng thời Quốc hội cũng giám sát
Chính phủ trong quá trình thi hành ngân sách và có quyền phê chuẩn bản quyết toán
ngân sách hàng năm do chính phủ đệ trình khi năm ngân sách kết thúc.
- NSNN có hiệu lực trong vòng một năm, từ 01/01 đến 31/12 hàng năm. Đây là
khoảng thời gian được pháp luật quy định nhằm giới hạn rõ thời gian thực hiện bản
dự toán NSNN. Khoảng thời gian này có thể trùng hoặc không trùng với năm dương
lịch tùy theo tập quán của mỗi nước. Việc quy định thời gian này nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động ngân sách nhà nước, tránh sự tùy tiện, độc đoán của Nhà
nước trong việc thu nộp và chi tiêu ngân sách.
* Xét về phương diện pháp lý, NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà
nước trong dự toán đã được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước.( Điều 1 Luật Ngân sách nhà nước 2002).
Khái niệm NSNN trong khoa học pháp lý và trong kinh tế học có phần khác nhau, sự
khác nhau thể hiện ở chỗ, NSNN theo quan niệm của các nhà kinh tế thì nó là một
bản kế hoạch tài chính khổng lồ của quốc gia trong đó có dự liệu các khoản thu và
chi tiền tệ của quốc gia trong một tài khóa, theo khoa học pháp lý, ngân sách nhà

nước lại được coi là một đạo luật đặc biệt do Quốc hội ban hành để cho phép Chính
phủ thực hiện trong thời hạn xác định.
b. Đặc điểm của ngân sách nhà nước.
Thông qua định nghĩa về NSNN, ta thấy NSNN là một loại hình ngân sách
đặc biệt quan trọng. Nó không chỉ mang những đặc điểm riêng thể hiện bản chất của
một loại ngân sách thông thường, mà còn chứa đựng những đặc điểm riêng thể hiện
bản chất của một loại hình ngân sách của một quốc gia, đó là:
- NSNN là một bản kế hoạch tài chính khổng lồ nhất cần được Quốc hội biểu
quyết thông qua trước khi thi hành. Việc thiết lập NSNN không chỉ mang tính chất
kỹ thuật nghiệp vụ kinh tế giống như các loại ngân sách thông thường khác mà nó
còn mang tính chất kỹ thuật pháp lý, nghĩa là phải trải qua giai đoạn xem xét, biểu
quyết thông qua tại Quốc hội giống như việc ban hành một đạo luật để làm phát sinh
2


các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định cho các chủ thể tham gia vào hoạt động
ngân sách. Do NSNN bắt buộc phải được Quốc hội biểu quyết thông qua như một kỹ
thuật pháp lý nên ngân sách nhà nước khác hẳn với các loại ngân sách thông thường
khác. Sự khác biệt thể hiện ở chỗ, NSNN vừa phản ánh các hành vi kinh tế( lập dự
trù các khoản thu, chi sẽ thực hiện trong tương lai), vừa thể hiện các hành vi pháp lý
của các chủ thể có thẩm quyền, còn các loại ngân sách khác thì việc thực hiện và
chấp hành của các chủ thể có liên quan chỉ dừng ở mức độ thỏa thuận để ràng buộc
trách nhiệm của mỗi người.
- NSNN không chỉ là bản kế hoạch tài chính thuần túy mà còn là một đạo luật.
Sau khi bản dự thảo NSNN, cơ quan hành pháp sẽ chuyển nó đến cơ quan lập pháp
xem xét quyết định và ban bố dưới hình thức một đạo luật để thi hành. Vì NSNN có
vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước
nên cần thiết phải đảm bảo cho NSNN có giá trị như một đạo luật để giúp cho quốc
hội kiểm soát được Chính phủ trong quá trình thu, chi ngân sách nhà nước, đảm bảo
quyền lợi cho toàn thể dân chúng, Ngđồng thời làm cho bản kế hoạc tài chính quan

trọng này có thể thực hiện được một cách dễ dàng trên thực tê.
- NSNN là kế hoạch tài chính của toàn thể quốc gia, được trao cho chính phủ tổ
chức thực hiện nhưng phải đặt dưới sự giám sát trực tiếp của Quốc hội. Đây là
nguyên tắc hiến định nhằm mục đích kiểm soát nguy cơ lạm quyền của cơ quan hành
pháp trong quá trình thực thi ngân sách nhà nước. Sự giám sát của Quốc hội trong
lĩnh vực này cũng là cách để củng cố và đề cao tính dân chủ , công khai, minh bạch
trong hoạt động tài chính nhà nước, góp phần quản trị tốt nền tài chính công trong đó
dân chúng đóng vai trò quyết định.
- NSNN được thiết lập và thực thi hoàn toàn vì mục tiêu mưu cầu lợi ích chung
cho toàn thể quốc gia, không phân biệt người hưởng thụ các lợi ích đó là ai, thuộc
thành phần kinh tế nào hay đẳng cấp nào.
- NSNN luôn phản ánh mối tương quan giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp
trong quá trình xây dựng và thực hiện ngân sách.
2. Khái quát về cân đối ngân sách nhà nước.
a. Khái niệm cân đối ngân sách nhà nước
NSNN là một bản kế hoạch tài chính của một quốc gia trong đó dự trù các khoản
thu và chi được thực hiện trong một năm. Trên thực tế quá trình thu chi NSNN luôn
trong trạng thái biến đổi không ngừng, nó bị ảnh hưởng bởi sự vận động của nền
kinh tế quốc gia, có khi những khoản thu dự kiến không đủ đáp ứng nhu cầu chi tiêu
trong năm đó, hoặc có khi mức thi lại vượt xa những khoản chi. Do vậy các khoản
3


chi tiêu và thu NSNN phải được tính toán chính xác và phù hợp với thực tế để đảm
bảo cho NSNN luôn trong trạng thái cân bằng, ổn định.
Xét về bản chất, cân đối NSNN là cân đối giữa các nguồn thu mà nhà nước
huy động được tập trung vào NSNN trong một năm và sự phân phối, sử dụng nguồn
thu đó thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của nhà nước trong năm đó.
Xét về góc độ tổng thể, cân đối NSNN phản ánh mối tương quan giữa thu và
chi trong một tài khóa.

Xét về phương diện phân cấp quản lý nhà nước, cân đối NSNN là cân đối về
phân bổ và chuyển giao nguồn thu giữa các cấp ngân sách, giữa trung ương và địa
phương và giữa các địa phương với nhau để thực hiện chức năng và nhiệm vụ được
giao.
Từ đây có thể hiểu rằng: Cân đối NSNN là một bộ phận quan trọng của chính
sách tài khóa, phản ánh sự điều chỉnh mối quan hệ tương tác giữa thu và chi ngân
sách nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tê, xã hội mà Nhà nước đã đề ra
trong từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể.
b. Đặc điểm cân đối ngân sách nhà nước
Từ kết luận trên đây có thể rút ra một số đặc điểm của cân đối NSNN như sau:
Cân đối NSNN phản ánh mối quan hệ tương tác giữa thu và chi NSNN trong năm
ngân sách nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Cân đối NSNN là cân đối giữa tổng thu và tổng chi, giữa các khoản thu và khoản
chi, cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn lực giữa các cấp trong hệ thống ngân
sách nhà nước, đồng thời kiểm soát được tình trạng ngân sách nhà nước, đặc biệt là
bội chi ngân sách nhà nước.
Cân đối NSNN mang tính định lượng và tính tiên liệu. Trong quá trình cân đối
NSNN, người quản lý phải xác định con số thu, chi ngân sách nhà nước so với tình
hình thu nhập trong nước, chi tiết hóa từng khoản thu, chi nhằm đưa ra cơ chế sử
dụng và quản lý nguồn thu phù hợp với hoạt động chi, từ đó để làm cơ sở phân bổ và
chuyển giao nguồn lực giữa các cấp ngân sách. Cấn đối NSNN phải dự đoán được
các khoản thu, chi ngân sách một cách tổng thể để đảm bảo thực hiện các mục tiêu
kinh tế - xã hội.
c. Vai trò của cân đối ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Cân đối NSNN là công cụ quan trọng để nhà nước can thiệp vào hoạt động kinh
tế - xã hội của đất nước, với vai trò quyết định đó thì cân đối NSNN trong nền kinh
tế thị trường có các vai trò sau:
4



- Cân đối NSNN góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Nhà nước thực hiện cân đối
NSNN thông quan chính sách thuế, chính sách chi tiêu hàng năm và quyết định mức
bội chi cụ thể nên có nhiều tác động đến hoạt động kinh tế cũng như cán cân thương
mại quốc tế, Từ đó góp phần ổn định việc thực hiện các mục tiêu của chính sách
kinh tế vĩ mô như: Tăng trưởng mức thu nhập bình quân trong nền kinh tế, giảm tỷ
lệ thất nghiệp, lạm phát được duy trì ở mức ổn định và có thể dự đoán được…
- Cân đối NSNN góp phần phân bổ, sử dụng nguồn lực tài chính có hiệu quả.
- Cân đối NSNN góp phần bảo đảm công bằng xã hội. Mỗi vùng có những đặc
thù khác về điều kiện kinh tế, xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển của vùng nên cân
đối NSNN sẽ đảm bảo được sự công bằng giảm thiểu sự bất bình đẳng giữa người
dân và các vùng miền. Nhà nước có thể huy động nguồn lực từ những người có thu
nhập cao, những vùng kinh tế phát triển để hỗ trợ, giúp đỡ những người nghèo có
thu nhập thấp và những vùn kinh tế kém phát triển. Bên cạnh đó, cân đối NSNN góp
phần phát huy lợi thế của từng địa phương, tạo nên thế mạnh kinh tế cho địa phương
đó dựa trên tiềm năng có sẵn của địa phương.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGUYÊN TẮC CÂN ĐỐI NSNN..
1. Nguyên tắc thứ nhất :
Tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp
phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển, trường hợp còn bội chi thì số
bội chi phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân
sách( Khoản 1 Điều 8 Luật Ngân sách nhà nước 2002)
Người nội trợ đi chợ không được chi tiêu quá số tiền có trong túi. Nhà nước
cũng như vậy: không được chi quá số thu, đồng thời số thu phải góp phần vào cho
các khoản chi phát triển. Nguyên tắc này phân định ranh giới giữa chi đầu tư phát
triển và chi thường xuyên, thể hiện sự thận trọng trong chính sách tài khóa của Việt
Nam. Theo đó các khoản thu thường xuyên được sử dụng để trang trải chi thường
xuyên và một phần thu thường xuyên cùng với thu bù đắp được sử dụng để chi đầu
tư phát triển. Trong đó chi đầu tư phát triển được chú trọng hơn, vì nó có thể làm
tăng khả năng thu hồi vốn cho ngân sách nhà nước nhưng phải đảm bảo được sự cân
đối giữa chi đầu tư phát triển với và chi thường xuyên,vì giữa chúng có mối quan hệ

mật thiết với nhau trong chi tiêu công của Nhà nước. Chi đầu tư phát triển là hoạt
động cần thiết đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia. Nó tạo ra
những điều kiện, cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho nền kinh tế, cũng từ đó kéo
theo sự phát triển của nhiều lĩnh vực khác và đảm bảo các vấn đề xã hội của nhà
nước, giúp nhà nước thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình. Vì vậy, chi đầu
5


tư phát triển là vấn đề được nhà nước ưu tiên trong xây dựng nguyên tắc cân đối
ngân sách nhà nước. Tuy nhiên cũng cần chú ý, việc chú trọng cho chi đầu tư phát
triển cần có sự phối hợp cân đối với chi thường xuyên, linh hoạt trong sự điều phối
nguồn lực trong nội bộ các ngành, tránh tình trạng có ngành chi đầu tư phát triển quá
cao so với những khoản chi thướng xuyên cần thiết, hoặc ngược lại.
Nguyên tắc này được công nhận ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên điều
đó không có nghĩa rằng, đầu tư công cao sẽ có tính bền vững, vì còn phụ thuộc vào
mức độ lan truyền của khoản chi này đến sụ phát triển của khu vực tư. Mặt khác,
trong chi tiêu công, giữa chi đầu tư và chi thường xuyên có mối quan hệ mật thiết.
Do đó, chú trọng cho chi đầu tư phát triển cần có sự phối hợp cân đối với chi thường
xuyên, linh hoạt trong sự điều phối nguồn lực trong nội bộ các ngành, tránh tình
trạng có ngành chi đầu tư phát triển quá cao so với các khoản chi thường xuyên cần
thiết, hoặc ngược lại. Bên cạnh đó, cần đánh giá ảnh hưởng của vay nợ bù đắp bội
chi ngân sách nhà nước đối với chi đầu tư khu vực.
2. Nguyên tắc thứ hai:
Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vốn vay trong nước và
nước ngoài. Vay bù đắp bội chi NSNN phải đảm bảo nguyên tắc không sử dụng cho
tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và đảm bảo bố trí ngân sách để
chủ động trả hết nợ đến khi hết hạn( khoản 2 Điều 8 Luật NSNN năm 2002)
Bội chi NSNN được hiểu một cách chung nhất là sự vượt trội về chi tiêu so với
tiền thu được trong năm tài khóa hoặt thâm hụt ngân sách nhà nước do sự cố ý của
Chính phủ tạo ra nhằm thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô. Theo quan điểm hiện đại

thì bội chi ngân sách trong một vài tài khóa là điều không thể tránh khỏi và nó cũng
chưa hẳn là do tình trạng yếu kém của nền kinh tế hay do thiếu hiệu quả trong điều
hành ngân sách nhà nước, dẫu chấp nhận bội chi ngân sách theo chu kỳ hay cố ý gây
bội chi thì cũng là để tạo tiền đề nhằm đạt được sự cân bằng ngân sách trong dài hạn.
Từ đó, việc phối hợp cân đối giữa các khoản thu, các khoản chi ngân sách để đạt
được đầu ra và kết quả tốt nhất là một trong những nguyên tắc quan trọng khi thực
hiện cân đối ngân sách nhà nước.
Các khoản vay nợ của Chính phủ dùng để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước
gồm: Các khoản vay trong nước và các khoản vay nước ngoài. Nó được phản ánh
bằng việc phát hành tín dụng nhà nước. Tín dụng nhà nước là một hoạt động thuộc
lĩnh vực tài chính tiền tệ, gắn kiền với hoạt động ngân sách nhà nước, nó phản ánh
mối quan hệ tín dụng giữa nhà nước với các tổ chức kinh tế, xã hội, với dân cư và
nước ngoài, bao gồm cả tín dụng ngắn hạn, trung hạn, dài hạn.
6


Về vay trong nước, được thực hiện bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ.
Việc phát hành trái phiếu chính phủ là một biện pháp quan trọng để tập trung nguồn
vốn cho ngân sách nhà nước. Bởi vì phát hành trái phiếu không làm tăng thêm lượng
tiền cần thiết lưu thông trên thị trường, không làm tăng sức mua chung của xã hội,
chủ động trong đầu tư, và nhờ hình thức này mà nhà nước có thể tập trung vốn cho
việc xây dựng cơ sở hạ tầng và công trình trọng điểm thúc đẩy sản xuất phát triển.
Tuy nhiên, việc phát hành trái phiếu cần phải chú ý là không thể dùng biện pháp
hành chính quá nhiều để phát hành trái phiếu một cách bứt buộc, cũng không thể quy
định thời gian hoàn trả quá dài. Theo kinh nghiệm của một số nước, việc phát hành
trái phiếu Chính phủ sẽ ảnh hưởng đến việc tăng lãi suất, nhất là lãi suất thực, và vì
thế giá cả có xu hướng gia tăng. Mặt khác, nếu Chính phủ vay nợ trong nước, số tiết
kiệm của dân cư giảm, sẽ ảnh hưởng đến đầu tư của khu vực tư nhân, và vì thế hạn
chế sự đóng góp của các thành phần kinh tế khác vào sự phát triển kinh tế.
Về vay nợ nước ngoài của chính phủ, để bù đắp thiếu hụt ngân sách dành cho chi

đầu tư phát triển kinh tế, khi vay trong nước không đáp ứng đủ. Vay nợ nước ngoài
của chính phủ có 3 loại: Vay từ nguồn việc trợ phát triển chính thức(ODA), vay ưu
đãi của các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế(Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát
triển Châu Á, Quỹ tiền tệ quốc tế) và vay bằng việc phát hành trái phiếu chính phủ
ra nước ngoài. Vay nợ nước ngoài, của chính phủ phải hướng vào các nguồn lớn và
có lãi suất ưu đãi. Khoản vay này ở nước ta chiếm vị trí quan trọng trong nguồn bù
đắp bội chi ngân sách nhà nước.
Các khoản vay của Chính phủ, kể cả vay trong nước hay vay nợ nước ngoài thì
nguyên tắc là không dùng các khoản vay này cho mục đích tiêu dùng. Các khoản chi
về tiêu dùng là các khoản chi thường xuyên, thiết yếu của quốc gia, nếu dùng các
khoản vay nợ cho việc chi dùng thường xuyên sẽ tạo ra một khoản nợ ngày một lớn
cho ngân sách vì tiêu dùng không bao giờ là đủ, Chính phủ cần có kế hoạch chi dùng
hợp lý, tiết kiệm, đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả đảm bảo nguyên tắc này.
3. Nguyên tắc thứ ba:
Ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không vượt quá tổng số
thu; trường hợp tỉnh thành phố trực thuộc trung ương có nhu cầu đầu tư xây dựng
công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục
đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định, nhưng
không vượt quá khả năng cân đối ngân sách cấp tỉnh năm dự toán, thì được phép
huy động vốn không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dưng cơ bản trong nước hàng
năm của ngân sách cấp tỉnh.
7


Cùng với xu thế trao quyền tự chủ nhiều hơn cho chính quyền địa phương, việc
cho phép địa phương vay nợ là điều cần thiết, song để đảm bảo tính minh bạch thì
không được xem khoản nợ của địa phương là khoản thu trong cân đối ngân địa
phương. Để kiểm soát hành vi vay nợ của địa phương, cần ban hành những quy định
về vay nợ của địa phương một cách hợp lý, minh bạch với những nội dung cơ bản.
III. THỰC TẾ ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC CÂN ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG

NSNN NĂM 2011.
1. Tình hình thu, chi cân đối ngân sách nhà nước năm 2011
Về tình hình tài chính, tiền tệ năm 2011 có thể tóm tắt qua số liệu sau:
Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2011 ước tính đạt 674,5 nghìn tỷ đồng, bằng
113,4% dự toán năm và tăng 20,6% so với năm 2010 (vượt mục tiêu đề ra trong
Nghị quyết số 11 của Chính phủ là tăng 7-8%). Tổng chi ngân sách nhà nước năm
2011 ước tính 796 nghìn tỷ đồng. Bội chi ngân sách nhà nước bằng 4,9% GDP (thấp
hơn kế hoạch đề ra, là 5,3%). Tổng phương tiện thanh toán năm 2011 ước tính tăng
10% so với tháng 12/2010 (kế hoạch là 15-16%); tổng dư nợ tín dụng tăng 12% (kế
hoạch là dưới 20%). Bài viết sau đây xin trình bày cụ thể về tình hình thu, chi cân
đối ngân sách nhà nước năm 2011 dựa trên các số liệu của Bộ Tài chính.
a. Về tình hình thu cân đối NSNN:
Dự toán thu cân đối NSNN năm 2011 là 595.000 tỷ đồng; ước cả năm đạt
674.500 tỷ đồng, vượt 13,4% so với dự toán, tăng 20,6% so với thực hiện năm 2010,
tỷ lệ động viên từ thuế và phí đạt 20,3% GDP. Cụ thể:
- Thu nội địa: Dự toán thu 382.000 tỷ đồng, ước cả năm đạt 425.000 tỷ đồng,
vượt 11,3 % so với dự toán, tăng 19,9 % so với năm 2010; không kể thu tiền sử dụng
đất( ước đạt 43.500 tỷ đồng, tăng 13.500 tỷ đồng so với dự toán) thì vượt 8,4% so
với dự toán, tăng 22% so với năm 2010.
Các lĩnh vực thu lớn ước đạt và vượt dự toán, trong đó: thu từ kinh tế quốc doanh
vượt 0,8% dự toán; thu thuế công thương nghiệp ngoài quốc doanh vượt 10/6% dự
toán; thu từ khu vực doanh nghiệp đầu tư nước ngoài vượt 11,3% dự toán, thuế thu
nhập cá nhân vượt 28,6% dự toán…Các địa phương cơ bản thu đạt và vượt dự toán
giao.
- Thu từ dầu thô: Dự toán thu 69,300 tỷ đồng, với dự kiến sản lượng dầu thanh
toán là 14,02 triệu tấn, giá bán 77USD/thùng. Đánh giá thực hiện cả năm: hiện giá
dầu thô thế giới đang tiếp tục biến động, dự kiến giá dầu thô xuất khẩu của Việt
Nam bình quân cả năm sẽ đạt khoảng 102 USD/thùng, tăng 25USD/thùng so với giá
8



xây dựng dự toán. Về sản lượng. ước cả năm đạt 14,13 triệu tấn, tăng 0,11 triệu tấn
so với kế hoạch. Với mức giá và sản lượng dự kiến này, ước thu ngân sách từ dầu
thô cả năm đạt 100.000 tỷ đồng, vượt 30.700 tỷ đồng so với dự toán, tăng 44,6% so
với mức thực hiện năm 2010.
- Thu cân đối từ hoạt động xuất, nhập khẩu: Dự toán thu 138.700 tỷ đồng, trên
cơ sở dự toán tổng thu từ hoạt đọng xuất nhập khẩu là 180.700 tỷ đồng, dự toán chi
hoàn thuế giá trị gia tăng theo chế độ là 42.000 tỷ đồng. Trên cơ sở dự kiến kim
ngạch xuất khẩu năm 2011, ước tổng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu cả năm đạt
205.000 tỷ đồng, vượ 13,4% so với dự toán, sau khi trừ ước chi hoàn thuế gí trị gia
tăng 61.000 tỷ đồng, dự kiến thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu năm
2011 đạt 144.000 tỷ đồng, tăng 3,8 % so với dự toán.
- Thu viện trợ: Dự toán 5000 tỷ đồng, ước cả năm đạt 55000 tỷ đồng, vượt 10%
so với dự toán.
Từ những con số trên đây cho thấy cơ cấu thu NSNN đã có sự chuyển biến dựa
vào sản xuất kinh doanh trong nước song chưa nhiều. Thu nội địa( không kể dầu
thô) chiếm 63% tổng thu NSNN, nếu trừ tiền sử dụng đất thì thu nội địa chiếm
56,6% tổng thu NSNN,có tăng so với các năm trước. Qua thực hiện giai đoạn 2006 –
2011 và năm 2011 cho thấy, chính sách thu hiện hành còn nhiều bất cập về: mức độ
huy động vốn, về chính sách ưu tiên và miễn giảm còn lồng ghép nhiều chính sách
xã hội làm giảm tình trung lập của thuế. Cơ cấu nguồn thu chưa vững chắc, chưa đáp
ứng yêu cầu tái cấu trúc nền kinh tế trong tình hình mới. Bên cạnh đó, Quốc hội đã
ban hành Nghị quyết số 08/2011/QH 13 về một số giải pháp thuế nhằm tháo gỡ khó
khăn cho doanh nghiệp và cá nhân, theo đó làm giảm thi NSNN lớn. Tuy nhiên,
trong báo cáo của Chính phủ chưa đánh giá cụ thể về tình hình thực hiện nghị quyết
này. Qua giám sát thực tế cũng cho thấy, tình trạng trốn lậu thuế, thát thu NSNN vẫn
diễn ra khá phổ biến, ở các mức độ khác nhau, công tác quản lý thu thuế tuy có
nhiều tiến bộ song vẫn còn bất cập so với yêu cầu quản lý hành thu NSNN.1
b. Về tình hình chi cân đối NSNN:
* Chi đầu tư phát triển:

- Dự toán chi 152.000 tỷ đồng. Ước thực hiện cả năm trên cơ sở dự toán đầu
năm, cộng thêm vốn dự kiến bổ sung từ nguồn dự phòng và nguồn thu vượt NSNN
đạt 175.000 tỷ đồng, tăng 15,1% so với dự toán, tăng 9% so với thực hiện năm 2010,
bằng 22% tổng chi NSNN. Số vượt chi so với dự toán được tập trung sử dụng cho
các dự án quan trọng, cấp bách có khả năng hoàn thành đưa vào sư dụng năm 20111

Về đánh giá tình hình và kết quả thực hiện NSNN năm 2011, Tạp chí Tài chính, ngày 22/10/2011

9


2012, các dự án đầu tư sửa chữa, nâng cấp công trình sạt lở đê kè cấp bách và giảm
nhẹ tác hại thiên tai, bổ sung tăng dự trữ quốc gia để đảm bảo an ninh lương thực…
Bên cạnh những mặt tích cực trên, vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định. Việc
quản lý, điều hành chi đầu tư phát triển năm 20111 cũng còn tồn tại, trong đó vẫn
còn những dự án tiến độ triển khai chậm so với yêu cầu nhiệm vụ; bố trí vốn cho các
dự án chưa đủ thủ tục, phân bổ vốn không đúng với cơ cấu, chương trình hỗ trợ
được giao; một số cơ quan, đơn vị trưng ương và địa phương còn chần chừ, thiếu
kiên quyết trong cắt giảm đầu tư công, khởi công dự án mới trái quy định…
* Chi trả nợ và viện trợ:
- Dự toán chi 86.000 tỷ đồng, ước cả năm đạt 101.000 tỷ đồng, tăng 17,4% so với
dự toán, tăng 25,9% so với thực hiện anwm 2010 bảo đảm thanh toán kịp thời các
khoản nợ đã cam kết và thực hiện nhiệm vụ đối ngoại của nhà nước. Số chi vượt dự
toán(15.000 tỷ đồng) nhằm đảm bảo tăng chi trả nợ nước ngoài do biến động chênh
lệch tỷ giá ngoại tẹ và tăng trả nợ gốc đối với các khoản vay ngắn hạn để giảm áp
lực bố trí trả nợ các năm sau.
* Chi thường xuyên
- Dự toán chi 469.1000 tỷ đồng. Trên cơ sở phân bổ nguồn dự phòng ngân sách
đã bố trí đầu năm và dự kiến bổ sung thêm nguồn vượt thu năm 2011 cho chi thường
xuyên, chủ yếu để khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh và đảm bảo an sinh xã hội,

ước thực hiện chi ngân sách cho lĩnh vực này cả năm đạt 491.500 tỷ đồng, tăng 4,8%
so với dự toán, tăng 17,5 % so với năm 2010. Trong chỉ đạo điều hành, Chính phủ
đã tập trung kinh phí thực hiện các chính sách an sinh xã hội và xác định đây là mặt
công tác trọng tâm năm 2011. Bên cạnh việc đảm bảo chi cho những chính sách đã
được bố trí dự toán đầu năm và thực hiện chi trả tiền lương, lương hưu và trợ cấp xã
hội theo mức tiền lương tối thiểu với 830.000 đồng/tháng từ ngày 01/05/2011 theo
đúng kế hoạch, Chính phủ đã ban hành và tổ chức thực hiện một số chính sách mới
như: trợ cấp khó khăn đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang,
người hưởng lương hưu có mức lương thấp, người hưởng trợ cấp uuw đãi có công và
hộ nghèo đời sống khó khăn; hõ trợ tiền điện cho hộ nghèo, nâng mức cho học sinh,
sinh viên vay từ mức 900.000 đồng/người/tháng lên 1.000.000 đồng/người/tháng….
Bên cạnh mặt tích cực nêu trên cũng cần phải nói đến những hạn chế trong quá
trình thực hiện. Đó là cơ cấu chi thường xuyên thay đổi chưa tích cực, vẫn tồn tại
bất cập nhất là chi cho con người: Chưa thực hiện tốt nguyên tắc phân phối theo lao
động, theo năng suất, hiệu quả, công lao đóng góp; chưa khuyến khích và thu hút
được người tài; tiền lương cơ bản thấp, mang tính bình quân đã làm cho chế độ tiền
lương mất dần động lực. Chế độ trợ cấp cho người có công, người nghỉ hưu trước
10


năm 1993 còn thấp, đời sống của đối tượng này gặp nhiều khó khăn. Thu nhập của
cán bộ, công chức chưa thực sự bình đẳng giữa các ngành, các lĩnh vực; còn quá
nhiều loại phụ cấp ưu đãi chưa hợp lý ở các ngành nghề.
Nhìn chung, chính sách chi NSNN năm 2011 chưa thay đổi tích cực về cơ cấu,
chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ cho tái cơ cấu nền kinh tế, tình trạng bình quân,
dàn trải, chia cắt thiếu tập trung vẫn chưa được cải thiện; công tác xã hội hóa còn
hạn chế, gánh nặng NSNN ngày một tăng. Việc thực hiện chinh sách chi chưa chặt
chẽ, chi NSNN tăng khá cao so với dự toán chưa góp phần vào kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô.2
2. Về cân đối ngân sách nhà nước.

Bội chi NSNN năm 2011 Quốc hội quyết định là 120.600 tỷ đồng, bằng 5,3%
GDP. Ước cả năm, trên cơ sở đánh giá kết quả thu, chi và dự kiến sử dụng tăng thu
NSNN báo cáo trên, giảm bội chi NSNN năm 2011 xuống 4,9% GDP. Số bội chi
tuyệt đối là 111.500 tỷ đồng, giảm 9.100 tỷ đồng so với Quốc hội quyết định.
Đến hết năm 2011, dư nợ công bằng 54,6 %GDP, dư nợ Chính phủ 43, 6%GDP
và dư nợ quốc gia 41,5%GDP, nằm trong giới hạn an toàn an ninh tài chính quốc
gia.
Việc triển khai thực hiện nhiệm vụ tài chính – ngân sách nhà nước năm 2011
trong bối cảnh yêu cầu thực hiện các Nghị quyết của Quốc họi, Chính phủ về tập
trung kiềm chế, lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội, các giải
pháp trong lĩnh vực tài chính đã được triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ và kịp
thời; chính sách tài khóa đã được điều hành chặt chẽ nhằm kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh
donah và khuyến khích xuất khẩu. Các kết quả đạt được là tích cực, thu ngân sách
đạt và vượt dự toán ở tất cả các lĩnh vực, chi ngân sách được điều hành chạt chẽ,
đảm bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị quan trọng và tăng cường công tác an
sinh xã hội; bội chi NSNN giảm so với dự toán góp phận tích cực kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì mức tăng trưởng kinh tế hợp lý, bảo đảm trật tự
an toàn xã hội, củng cố niềm tin của xã hội và sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ3
So sánh 5 năm gần đây cho thấy việc tuân thủ dự toán chi NSNN năm 2011 là
khá tốt. Chi NSNN thuân thủ khá tốt dự toán ngân sách 2011 đã được phê chuẩn với
mức thấp nhất trong 5 năm gần đây. Điều này phản ánh việc ban hành Nghị quyết số
11 về cắt giảm chi NSNN đã có tác dụng nhất định đến chi tiêu ngân sách năm 2011.
2
3

Về đánh giá tình hình và kết quả thực hiện NSNN năm 2011, Tạp chí Tài chính, ngày 22/10/2011
Báo cáo ngân sách hàng năm – năm 2011 của Bộ Tài chính, www.mof.gov.vn

11



Số liệu so sánh 5 năm gần đây cho thấy năm 2011 có tỷ lệ bội chi thực tế so với
dự toán thấp nhất, ước khoảng 4,9% GDP trong khi dự toán bội chi NSNN năm
2011 mà Quốc hội cho phép là 5,3%GDP. Việc thực hiện chặt chẽ và giám sát hiệu
quả hơn các quy định về chi tiêu NSNN là những lý do giải thích cho việc giảm bội
chi ngân sách.
IV. HƯỚNG HOÀN THIỆN CÂN ĐỐI NSNN.
Nhìn lại kết quả đã đạt được kết quả đã đạt được trong thời gian qua có thể thấy
được sự cố gắng, nỗ lực của Đảng, nhà nước và Chính phủ, các cấp, các ngành trong
việc thực hiện các hoạt động cân đối NSNN, hạn chế bội chi NSNN. Tuy nhiên vẫn
còn những hạn chế, thiếu sót cần giải quyết. Để duy trì sự ổn định của NSNN, Chính
phủ cần thực hiện các biện pháp sau:
Thứ nhất: Tăng cường kiểm soát bội chi ngân sách nhà nước và các biện pháp bù
đắp bội chi ngân sách nhà nước đảm bảo vấn đề cân đối NSNN
- Chính phủ cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của mình hơn nữa trong việc
kiểm soát bội chi NSNN. Một trong những nguyên nhân dẫn đến vấn đề bội chi
NSNN là do sự yếu kém trong năng lực và trình độ quản lý của bộ máy nhà nước,
không phát hiện và xử lý kịp thời những trường hợp vi phạm nguyên tắc và sự toán
NSNN đã đề ra, nguồn vốn vay bù đắp chưa được sử dụng hiệp quả. Chính phủ cần
tăng cường rà soát, cắt giảm những khaonr chi tiêu NSNN chưa thaatj cần thiết và
kém hiệu quả, từ đó có sự chuyển đổi linh hoạt trong chi tiêu NSNN để không làm
mất cân đối NSNN, không lãng phí nguồn NSNN và những hoạt động không cần
thiết, không hiệu quả
- Nhà nước tạo điều kiện cho người dân tham gia giám sát, theo dõi quá trình
thực hiện ngân sách nhà nước của các cấp, các ngành bằng cachs cung cấp các thông
tin chính xác, đầy đủ và kịp thời cho người dân biết qua các phương tiện truyền
thanh, báo chí.
Thứ hai: Kiểm soát và quản lý hiệu quả hơn vấn đề vay nợ ở địa phương, giảm
bớt gánh nặng về nợ cho nhà nước và thưc hiện tốt nhiệm vụ ngân sách đề ra. Thực

hiện triệt để nguyên tắc, có thu mới có chi, không để bội chi tăng quá cao
Thứ ba: Hoàn thiện phân cấp quản lý NSNN đẻ đảm bảo cân đối trong hệ thống
NSNN
- Mở rộng phân định nguồn thu và xác định rõ ràng nhiệm vụ chi của từng cấp
chính quyền, phù hợp với chức năng và năng lực của từng cấp chính quyền địa
phương. Để tăng nguồn lực cho địa phương, nâng cao khả năng chủ động và tích cực
trong khai thác nguồn thu nhằm giúp địa phương linh động hơn trong xử lý cân đối
12


NSĐP mình, giảm bớt sự lệ thuộc vào sự hỗ trợ của NSTW, Chính phủ cần thay đổi
và mở rộng cho địa phương một số nguồn thu gắn liến với kết quả tăng trưởng kinh
tế trên địa bàn đó theo hướng chuyển dấn một số khoản thu điều tiết giữa ngân sách
trung ương và địa phwuong áng khoản thu địa phương được hưởng 100% để kích
thích địa phương nuôi dưỡng và khai thác tốt nguồn thu ở địa phương mình.
Thứ tư: Hoàn thiện cơ chế bổ sụng cân đối NSNN nhằm khắc phục vấn đề NSĐP
còn quá lệ thuộc vào sự hỗ trợ của NSTW mà không linh động tận dụng khả năng
vốn có của địa phương. Nhà nước chỉ nên xem bổ sung cân đối NSNN là giải pháp
cuối cùng khi địa phương đã nỗ lực hết mình trong khai thác nguồn thu, nhiệm chi
và nhu cầu chi là cần thiết, không thể cắt giảm và tiết kiệm hơn nữa mà địa phương
không thể tự cân đối được. Có như vậy, mỗi địa phương mới phát huy tính chủ động
và sáng tạo của mình trong khai thác và sử dụng nguồn lực của địa phương. Chính
quyền địa phương sẽ không còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của ngân
sách cấp trên, thay vào đó sẽ tích cực hơn trong công tác giải quyết thiếu hụt NSNN,
giảm bớt gánh nặng cho NSNN.

C. KẾT LUẬN:
Cân đối ngân sách nhà nước là vấn đề cần thiết phải được đảm bảo thực hiện của
quốc gia, vì nó tác động rất lớn đến sự phát triển bền vững đối với xã hội của quốc
gia đó. Do vậy, để thực hiện tốt quá trình cân đối ngân sách nhà nước phải dựa trên

các nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước để đảm bảo cân đối đạt hiệu quả, phải
xác định được nội dung chính trong cân đối ngân sách nhà nước. Từ đó có những
hoạch định rõ ràng về các vấn đề thu chi ngân sách nhà nước trong năm tài khóa
nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế, xã hội đã đề ra trong năm đó. Bên cạnh đó, Nhà
nước cần có sự phân cấp về quyền hạn, nhiệm vụ và lợi ích giữa các cấp ngân sách
với nhau để tạo sự công bằng và thúc đẩy mỗi cấp ngân sách phát huy được ưu thế
của mình góp phần vào việc cân đối ngân sách ở cấp mình quản lý và ngân sách nhà
nước nói chung. Đồng thời nhà nước cũng phải tăng cường hoạt động giám sát của
mình đối với ngân sách nhà nước, từ đó đưa ra những biện pháp xử lý -bội chi ngân
sách nhà nước phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần thực
hiện cân đối ngân sách nhà nước.

13


14



×