Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Đánh giá tính hợp lý của pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.05 KB, 12 trang )

1

Đề số 6: Đánh giá tính hợp lý của pháp luật về các hình thức xử phạt vi
phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả.

MỤC LỤC
1.
2.

Lời mở đầu
Đánh giá tính hợp lý của các quy định về hình thức xử phạt vi phạm hành

chính

3.
chính

2.1. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính
2.2. Đánh giá tính hợp lý của các quy định về hình thức xử phạt vi phạm
hành chính:
2.2.1. Về các hình thức xử phạt chính:
a)
Cảnh cáo
b)
Phạt tiền
2.2.2. Về các hình thức xử phạt bổ sung:
a)
Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề:
b)
Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm
hành chính:


2.2.3. Hình thức trục xuất khỏi lãnh thổ Việt Nam
Đánh giá tính hợp lý của các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành

3.1. Các biện pháp khắc phục hậu quả:
3.2. Đánh giá tính hợp lý của các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm
hành chính
3.2.1. Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi
phạm hành chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái
phép
3.2.2. Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm
môi trường, lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra
3.2.3. Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng
hoá, vật phẩm, phương tiện
3.2.4. Buộc tiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật
nuôi và cây trồng, văn hóa phẩm độc hại
3.2.5. Biện pháp khắc phục hậu quả khác do người có thẩm quyền
quyết định áp dụng theo quy định của Chính phủ
4.
Các điểm còn thiếu sót và một số yêu cầu để hoàn chỉnh chế tài xử lý vi
phạm hành chính
4.1. Đánh giá chung những điểm còn thiếu sót
4.2. Một số yêu cầu để hoàn chỉnh chế tài xử lý vi phạm hành chính:
5.
Kết Luận

HÀ DUY TÂN - DS33A058


2


BÀI LÀM
1.

Lời mở đầu
Trong thực tế hàng ngày, chúng ta bắt gặp rất nhiều hành vi xâm phạm các

quy tắc quản lý nhà nước, tuy chưa nguy hiểm đến mức bị coi là tội phạm nhưng
cần được xử lý kịp thời để đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội. Những hành vi
ấy được gọi chung là vi phạm hành chính. Từ trước đến nay, rất coi trọng vấn đề
này, nhà nước ta đã có nhiều văn bản quy định về vi phạm hành chính và việc xử
lý, văn bản đang có hiệu lực pháp lý thi hành là trong Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính 2/2/2002 và sửa đổi bổ sung mới nhất 02/4/2008. Trong thời buổi hiện
nay, khi những vi phạm hành chính đang có chiều hướng gia tăng về số lượng với
tính chất càng ngày càng phức tạp, thì yêu cầu cấp thiết là phải quy định một hệ
thống hình phạt và biện pháp khắc phục hậu quả để áp dụng cho cá nhân hay tổ
chức vi phạm sao cho phù hợp, hiệu quả, phát huy được tính răn đe, giáo dục,
ngăn chặn đẩy lùi và phòng chống hiệu quả nhất. Một trong những phần khá quan
trọng của Pháp lệnh 2002 là quy định về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính
và các biện pháp khắc phục hậu quả. Tìm hiểu những quy định về vấn đề này, từ
đó nhìn nhận liên hệ với thực tế xem các quy định có thực sự hiệu quả và phù hợp
hay không là công việc cần thiết trong giai đoạn đất nước đang thay da đổi thịt,
việc duy trì trật tự xã hội cần thiết hơn bao giờ hết.

2.

Đánh giá tính hợp lý của các quy định về hình thức xử phạt vi

phạm hành chính
2.1. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính
Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính thể hiện sự răn đe, trừng phạt của

pháp luật đối với những cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm các quy tắc quản lý
nhà nước thông qua việc buộc người vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi
về vật chất hoặc tinh thần, mang tính giáo dục đối với cá nhân, tổ chức bị xử phạt,
góp phần nâng cao ý thức của công dân trong việc chấp hành pháp luật và các quy
tắc quản lý nhà nước. Khoản 1, khoản 2 và khoản 4 Điều 12 Pháp lệnh xử lý vi
HÀ DUY TÂN - DS33A058


3

phạm hành chính năm 2002 đã quy định các hình thức xử phạt vi phạm hành
chính:
"1. Đối với mỗi vi phạm hành chính, cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu
một trong các hình thức xử phạt chính sau đây:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền.
2. Tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức vi phạm hành
chính còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây:
a) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề;
b) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính.
...
4. Người nước ngoài vi phạm hành chính còn có thể bị xử phạt trục xuất.
Trục xuất được áp dụng là hình thức xử phạt chính hoặc xử phạt bổ sung trong
từng trường hợp cụ thể."

2.2. Đánh giá tính hợp lý của các quy định về hình thức xử phạt vi
phạm hành chính:
2.2.1. Về các hình thức xử phạt chính:
a)


Cảnh cáo
Điều 13 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính: “Cảnh cáo được áp dụng đối

với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ hoặc
đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được quyết định bằng văn bản.”
Như một người 15 tuổi khi thay đổi nơi cư trú mà không thực hiện đủ những
quy định về đăng ký hộ khẩu thì chỉ bị phạt cảnh cáo. Điểm này thể hiện chính
sách của nhà nước đối với người chưa thành niên phạm tội, và quy định này là
hoàn toàn hợp lý với ý nghĩa giáo dục nhiều hơn là trừng phạt đối với đối tượng
này.
Với những người trên 16 tuổi thì có ba yếu tố tạo thành điều kiện áp dụng:
vi phạm nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ. Điều này phù hợp với ý nghĩa của quy
HÀ DUY TÂN - DS33A058


4

định là giáo dục nhiều hơn trừng phạt. Tuy nhiên, cảnh cáo thể hiện thái độ răn đe
nghiêm khắc của nhà nước đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính, do đó,
vẫn mang tính cưỡng chế nhà nước, gây cho người bị xử phạt những tổn hại nhất
định về mặt tinh thần. Thực tế, cái “tổn thất về mặt tinh thần” của mỗi người là
khác nhau, nên hình phạt cảnh cáo có thực hiện được mục đích phòng ngừa vi
phạm pháp luật hay không, vẫn là điều cần xem xét.
Trong thực tế, do ý thức pháp luật chưa cao và tình trạng tiêu cực trong lực
lượng cán bộ áp dụng chế tài nên dẫn đến tình trạng cảnh cáo ít được áp dụng và
áp dụng không đúng: một số người này có xu hướng phạt nặng người vi phạm
ngay cả khi chỉ đáng phạt cảnh cáo.
Về đối tượng áp dụng là tổ chức: cần thấy rằng, người đại diện khi thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của tổ chức thường có nhận thức tốt, thậm chí rất am hiểu

về pháp luật trong hoạt động của mình, nên áp dụng hình thức cảnh cáo có mức độ
tác động thấp đối với tổ chức là không tương xứng.
b)

Phạt tiền
Do việc phạt tiền là tước bỏ đi một khoản tiền nhất định của cá nhân, tổ

chức có hành vi vi phạm hành chính nên hình phạt phạt tiền có ý nghĩa răn đe, bởi
đã tác động trực tiếp đến lợi ích vật chất của cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm,
vì vậy biện pháp này có ý nghĩa lớn trong việc đấu tranh phòng ngừa các vi phạm
hành chính. Do tác động đến lợi ích vật chất hiện hữu nên công cụ này tỏ ra hữu
hiệu hơn, vì thế phạt tiền được áp dụng phổ biến hơn là cảnh cáo.
Pháp lệnh 2002 qui định “Mức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính
là từ 10.000 đồng đến 500.000.000 đồng”. Điều này là phù hợp với điều kiện kinh
tế xã hội, đảm bảo mức phạt không quá cao, xa rời thực tế, cũng không quá thấp
để dẫn đến hiện tượng khinh nhờn pháp luật. Mức phạt này cũng được điều chỉnh
liên tục kể từ năm 1989 cho phù hợp với tình hình đất nước. Khoảng cách quá lớn
giữa mức phạt tối đa và tối thiểu làm ta tưởng nhầm đó là điều vô lý, nhưng thực
tế, vi phạm hành chính rất đa dạng diễn ra trên mọi lĩnh vực với tính chất, mức độ
khác nhau nên quy định như vậy là phù hợp.
HÀ DUY TÂN - DS33A058


5

Tuy vậy, khi đi vào trường hợp cụ thể, có một thực tế là đối với một vi
phạm hành chính quy định mức phạt thấp nhất đến cao nhất gấp nhau 4, 5 lần là
khá chênh lệch. Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001 quy định: “Phạt
tiền từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi trốn tránh nghĩa vụ chăm
sóc, nuôi dưỡng con, lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên hoặc xúi

giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật mà chưa đến mức truy cứu trách
nhiệm hình sự”. Điều này dẫn đến tình trạng có lúc, có nơi cùng một vi phạm hành
chính như nhau nhưng mức phạt cụ thể lại khác nhau, nên đã gây thắc mắc trong
nhân dân. Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định việc lựa chọn, áp dụng mức tiền
phạt với người vi phạm không được tùy tiện mà phải trong khung phạt và dựa vào
mức trung bình của khung hình phạt, nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức phạt giảm
xuống và ngược lại. Cách thức này khiến người có thẩm quyền ra quyết định hình
phạt có thể dễ dàng hơn khi ra phán quyết cuối cùng.
Việc chia mức phạt tiền thành 5 mức cụ thể ứng với từng lĩnh vực cũng là
điểm khá hợp lý. Khi hạn chế mức phạt tiền trong từng lĩnh vực bằng cách quy
định mức tối đa, pháp luật hướng đến đặc thù trong từng lĩnh vực, tuy nhiên không
được vượt quá khung, đảm bảo áp dụng pháp luật đồng bộ.
Hình phạt tiền cũng thể hiện chính sách của nhà nước đối với người chưa
thành niên vi phạm hành chính là giáo dục nhiều hơn trừng phạt VD: người 15
tuổi không bị phạt tiền khi vi phạm hành chính vì pháp luật quy định không được
áp dụng hình phạt tiền cho người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính;
với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền
không được quá một phần hai mức phạt tiền đối với người thành niên.
2.2.2. Về các hình thức xử phạt bổ sung:
Các hình thức xử phạt bổ sung đã được ghi nhận trong pháp luật và kiểm
nghiệm trên thực tế là cần thiết và hợp lý. Chúng được áp dụng kèm theo các hình
thức phạt chính, khi phạt chính tỏ ra chưa có khả năng phòng ngừa vi phạm pháp
luật mới và theo nguyên tắc chung, phải căn cứ vào tính chất mức độ và các tình
tiết khác của vi phạm hành chính đã được thực hiện, và cũng chỉ áp dụng đối với
các vi phạm hành chính có đặc điểm nhất định.
HÀ DUY TÂN - DS33A058


6


a)

Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề:
Mặc dù là hình thức xử phạt bổ sung, nhưng đây là một hình thức xử phạt

rất nghiêm khắc do ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín, lợi ích vật chất của người bị
phạt, nên có hiệu quả lớn trong xử phạt và ngăn ngừa vi phạm hành chính.
Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thể được áp dụng
cùng với các hình thức phạt cảnh cáo và phạt tiền. Điều này là bất hợp lý do biện
pháp bổ sung này là biện pháp nghiêm khắc trong khi phạt cảnh cáo chỉ áp dụng
với các vi phạm nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ, tức là vi phạm có mức độ nguy
hiểm cho xã hội không đáng kể. Đó là điểm không hợp lý cần được sửa đổi trong
pháp lệnh
b)

Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính:
Đây là biện pháp tước bỏ quyền sở hữu của người vi phạm và chuyển sang

sở hữu nhà nước, ngoài ý nghĩa là hình thức phạt, việc tịch thu còn có ý nghĩa
nhằm loại bỏ hoặc hạn chế khả năng tiếp tục vi phạm hành chính của cá nhân, tổ
chức. Quy định còn chú ý đến việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp về tài sản cho người
chủ sở hữu, người quản lý, sử dụng hợp pháp khi họ không có lỗi.
Vẫn chưa có pháp luật quy định về vấn đề giới hạn tối đa của mức tịch thu.
Trong thực tế, ta thấy hình thức tịch thu đang bị vận dụng tùy tiện, dẫn đến tình
trạng kiện cáo, gây hoang mang trong nhân dân.
2.2.3. Hình thức trục xuất khỏi lãnh thổ Việt Nam
Trục xuất vừa là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung. Hình thức phạt
này đảm bảo sự thực hiện đồng bộ giữa Pháp lệnh xuất nhập cảnh, cư trú của
người nước ngoài tại Việt Nam, mặt khác đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Ngoài mục đích trừng phạt, răn đe người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt

Nam, quy định này còn ngăn ngừa triệt để khả năng tiếp tục vi phạm pháp luật của
người nước ngoài đó trên lãnh thổ Việt Nam.
Tuy vậy, trục xuất là một vấn đề phức tạp, nhạy cảm, có thể làm ảnh hưởng
đến quan hệ quốc tế và giữa các quốc gia, nên pháp luật quy định thẩm quyền quy
định thủ tục trục xuất thuộc về Chính phủ và thẩm quyền quyết định áp dụng hình
HÀ DUY TÂN - DS33A058


7

thức xử phạt trục xuất thuộc về Bộ trưởng bộ công an là hợp lý, phù hợp với tính
chất quan trọng của vấn đề.

3.

Đánh giá tính hợp lý của các biện pháp khắc phục hậu quả vi

phạm hành chính
3.1. Các biện pháp khắc phục hậu quả:
Về mặt bản chất, các biện pháp khắc phục hậu quả không mang tính trừng
phạt mà chỉ nhằm mục đích khôi phục lại tình trạng ban đầu, khắc phục những hậu
quả mà vi phạm hành chính đã để lại trên thực tế. Các biện pháp khắc phục hậu
quả quy định tại Khoản 3 điều 12 Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính 2002 quy
định:
"3. Ngoài các hình thức xử phạt được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều
này, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều
biện pháp khắc phục hậu quả sau đây:
a) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành
chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép;
b) Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường,

lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra;
c) Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hoá, vật
phẩm, phương tiện;
d) Buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây
trồng, văn hoá phẩm độc hại;
đ) Các biện pháp khác do Chính phủ quy định".

3.2. Đánh giá tính hợp lý của các biện pháp khắc phục hậu quả vi
phạm hành chính
3.2.1. Buộc khôi phục lại tình trạnog ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành
chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép
Quy định này nhằm khôi phục lại nguyên trạng những thay đổi do tác động
của vi phạm hành chính. Việc khôi phục được hiểu là cá nhân, tổ chức đã thực
hiện hành vi vi phạm hành chính dẫn đến những thay đổi so với tình trạng ban đầu
HÀ DUY TÂN - DS33A058


8

của sự vật thì phải tự mình bằng mọi cách đưa sự vật trở lại trạng thái ban đầu.
Việc tháo dỡ các công trình xây dựng trái phép chủ yếu để khắc phục hậu quả
những vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng.
Quy định này là hoàn toàn cần thiết trong thực tế để đảm bảo giữ gìn cơ sở
vật chất quốc gia, trật tự quản lý nhà nước, để đảm bảo khi vi phạm xảy ra không
những phải có biện pháp xử phạt răn đe mà còn phải khắc phục hậu quả đã xảy ra,
khôi phục tình trạng ban đầu.
3.2.2. Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường,
lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra
Trong tình trạng xã hội với nền công nghiệp hóa ngày càng phát triển,
nhưng ý thức của người dân cũng như các tổ chức lại không hề cao trong vấn đề

giữ gìn bảo vệ môi trường mình đang sống và làm việc. Gần đây đã nổi lên những
vụ việc phức tạp gây bức xúc trong nhân dân như việc công ty Vedan xả nước thải
chưa qua xử lý ra song Thị Vải, mức độ ô nhiễm đáng báo động ở sông Trà, cũng
cùng một nguyên nhân như trên.
Việc pháp luật quy định các biện pháp khắc phục khi có lỗi trong việc làm ô
nhiễm môi trường hay lây lan dịch bệnh là hoàn toàn cần thiết, nhằm mục đích bảo
vệ sức khỏe lợi ích cộng đồng, bảo vệ môi trường sinh thái chung. Tùy trường hợp
cụ thế, người có thẩm quyền sẽ quyết định biện pháp thích hợp và có hiệu quả
nhất.
3.2.3. Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hoá, vật
phẩm, phương tiện
Biện pháp này được áp dụng chủ yếu trong quá trình xử lý các vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan hoặc lĩnh vực có liên quan đến xuất nhập khẩu. Khi
có sự vi phạm, công việc này là cần thiết: nhập khẩu trái phép thì bị đưa ra khỏi
lãnh thổ, nếu hàng tạm nhập tái xuất mà không tái xuất thì bị buộc tái xuất.
Biện pháp này đảm bảo cho sự ổn định của thị trường, không gây hoang
mang lo lắng cho người dân và giữ vững sự quản lý của nhà nước trong mọi lĩnh
vực. Chỉ bằng cách đưa ra khỏi lãnh thổ hay tái xuất những hàng hóa, vật phẩm,
phương tiện này thì mới bảo đảm những điều nêu trên.
HÀ DUY TÂN - DS33A058


9

3.2.4. Buộc tiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây
trồng, văn hóa phẩm độc hại
Biện pháp này chủ yếu được áp dụng để khắc phục những hậu quả do vi
phạm hành chính trong các lĩnh vực liên quan đến việc kinh doanh những sản
phẩm liên quan đến con người như thuốc chữa bệnh, thực phẩm, văn hóa…
Biện pháp này trên thực tế đã được chứng minh là cần thiết để bảo vệ những

giá trị về sức khỏe, cuộc sống vật chất và những giá trị về mặt tinh thần chung của
cộng đồng. Để bảo vệ con người, vật nuôi, cây trồng khỏi những tác động nguy hại
của những vật, sản phẩm là tang vật của vi phạm hành chính, pháp luật quy định
tang vật này phải được tiêu hủy là hoàn toàn cần thiết. Cũng như vậy, văn hóa
phẩm độc hại cũng gây ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống tinh thần của nhân dân,
truyền thống văn hóa dân tộc, nên phải bị tiêu hủy. Tiêu hủy nhằm mục đích ngăn
chặn sự phát tán ra cộng đồng những sản phẩm này một lần nữa.
3.2.5. Biện pháp khắc phục hậu quả khác do người có thẩm quyền quyết định
áp dụng theo quy định của Chính phủ
Do pháp luật không thể dự liệu hết và đặt ra toàn bộ những biện pháp khắc
phục hậu quả của mọi vi phạm hành chính nên nhằm khắc phục những lỗ hổng của
pháp luẩ, tình trạng thiếu hành lang pháp lý, Pháp lệnh 2002 đã đặt ra quy định về
vấn đề này.

4.

Các điểm còn thiếu sót và một số yêu cầu để hoàn chỉnh chế tài

xử lý vi phạm hành chính
4.1. Đánh giá chung những điểm còn thiếu sót
Nhóm chế tài các biên pháp khắc phục hậu quả chỉ có thể áp dụng kèm theo
các hình thức phạt. Vi phạm hành chính sẽ không bị xử phạt nếu quá thời hạn 3
tháng, 1 năm, 2 năm đối với vi phạm tương ứng, kể từ ngày vi phạm được thực
hiện. Như vậy, quá thời hạn trên, các chế tài khôi phục sẽ không được áp dụng nếu
vi phạm không bị phạt. Như vậy là không phù hợp với thực tế. Cho nên đúng hơn
pháp luật cần quy định các chế tài khôi phục hành chính có thể được áp dụng độc
lập trong các trường hợp quá hạn xử phạt, mà việc không áp dụng chúng sẽ làm
HÀ DUY TÂN - DS33A058



10

cho quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ vẫn đang ở trạng thái bị vi phạm. Đó
cũng là điểm khác của chế tài khôi phục so với chế tài phạt. Với chế tài phạt, nếu
quá thời hạn nhất định ( được pháp luật quy định) mà vẫn tiến hành xử phạt thì
việc xử phạt ấy không còn ý nghĩa phòng ngừa vi phạm nữa.

4.2. Một số yêu cầu để hoàn chỉnh chế tài xử lý vi phạm hành chính:
● Các hình thức xử phạt và các biện pháp khắc phục hậu quả cần phải xây
dựng xuất phát từ nhu cầu thực tế của đời sống xã hội, đi vào vấn đề thực chất của
vi phạm hành chính. Khi xây dựng cần đặt ra mục đích : phòng ngừa, giáo dục, răn
đe và khôi phục. Tuy nhiên việc áp đặt ý chí chủ quan là rất nguy hiểm, cần phải
xuất phát từ nền tảng thực tế, không xây dựng những quy định chỉ mang tính chất
hình thức. Cơ cấu bên trong của hệ thống chế tài hành chính phải phản ánh được
đặc điểm của vi phạm hành chính diễn ra trong hoàn cảnh xã hội nhất định.
● Các chế tài không được quá đáng, cũng không quá dễ dãi. Quá đáng sẽ
mang tính hà khắc, trừng phạt nhiều hơn là giáo dục, trong khi đó, chế tài hành
chính được pháp luật quy định không phải là công cụ duy nhất để xử lý vi phạm
hành chính, nếu quá nghiêm khắc sẽ làm xuất hiện phản ứng chống đối từ người vi
phạm cũng như người dân. Tuy nhiên, cũng không được dễ dãi sẽ dẫn đến tình
trạng coi thường, khinh nhờn pháp luật.
● Đảm bảo sự thống nhất của hệ thống các chế tài hành chính về cả mặt bên
trong và bên ngoài. Bên trong là đảm bảo nguyên tắc công bằng, nhân đạo, tính
pháp chết, kết hợp giữa giáo dục với thuyết phục. Bên ngoài là các quy định không
được mâu thuẫn nhau giữa Pháp lệnh quy định chung với các văn bản hướng dẫn
cụ thể trong từng ngành.
● Những quy định về các hình thức xử phạt và các biện pháp khắc phục hậu
quả phải có khả năng áp dụng, thích ứng linh hoạt với các vi phạm hành chính đa
dạng xảy ra trong đời sống xã hội, tuy nhiên cũng phải có tính xác định cao, tránh
tình trạng áp dụng pháp luật tùy tiện gây hoang mang và mất lòng tin trong nhân

dân.

HÀ DUY TÂN - DS33A058


11

● Ranh giới, mức độ giữa chế tài hành chính và chế tài hình sự phải được
xác định rõ ràng để đảm bảo mục đích của từng loại chế tài tương ứng với tính
chất mức độ của các loại vi phạm.
Hệ thống chế tài cần có tính ổn định, việc bổ sung thay thế hay bỏ các quy
định nào đó, nhất thiết không được do ý muốn của các nhà làm luật mà phải do
yêu cầu cấp thiết của thực tiễn.
Ngày càng bổ sung các quy định còn thiếu sót trong giai đoạn diễn biến các
vi phạm hành chính trở nên phức tạp và bùng nổ về số lượng như hiện nay.

5.

Kết Luận
Vi phạm hành chính trước hết là vi phạm pháp luật. Đây là dạng vi phạm

pháp luật xảy ra khá phổ biến trong đời sống xã hội. Tuy mức độ nguy hiểm cho
xã hội của nó thấp hơn so với tội phạm nhưng vi phạm hành chính là hành vi gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, tập thể, lợi ích của cá
nhân cũng như lợi ích chung của toàn thể cộng đồng, là nguyên nhân dẫn đến tình
trạng phạm tội nảy sinh trên các lĩnh vực của đời sống xã hội nếu như không được
ngăn chặn và xử lý kịp thời. Chính vì lẽ đó, công tác đấu tranh phòng và chống vi
phạm hành chính luôn là vấn đề được xã hội quan tâm. Chính vì vậy, pháp luật đã
quy định một hệ thống hình phạt và biện pháp khắc phục hậu quả để áp dụng cho
cá nhân hay tổ chức. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp

khắc phục hậu quả trên thực tế đã phát huy được hiệu quả. Nhưng bên cạnh đó vẫn
còn nhiều vấn đề hạn chế cần phải được khắc phục thì mới có thể đảm bảo mục
đích đảm bảo trật tự xã hội.

HÀ DUY TÂN - DS33A058


12

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Trường đại học luật Hà Nội, Nxb công
an nhân dân 2008.
2. Giáo trình luật hành chính, Trường đại học quốc gia Hà Nội khoa luật, Nxb
đại học quốc gia Hà Nội 2005.
3. Giáo trình luật hành chính và tài phán hành chính Việt Nam, Học viện hành
chính quốc gia, Nxb giáo dục 2006.
4. PHÁP LỆNH CỦA UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI SỐ 44/2002/PL-

UBTVQH10 NGÀY 2 THÁNG 7 NĂM 2002 VỀ VIỆC XỬ LÝ VI PHẠM
HÀNH CHÍNH
5. PHÁP LỆNH CỦA UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI SỐ 31/2007/PL-

UBTVQH11 NGÀY 08 THÁNG 3 NĂM 2007 SỬA ĐỔI MỘT SỐ ĐIỀU
CỦA PHÁP LỆNH XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
6. PHÁP LỆNH SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA PHÁP LỆNH XỬ

LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH CỦA ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI SỐ
04/2008/UBTVQH12 NGÀY 2 THÁNG 4 NĂM 2008
7. NGHỊ ĐỊNH CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 128/2008/NĐ-CP NGÀY 16 THÁNG 12
NĂM 2008 QUY ĐỊNH CHI TIẾT THI HÀNH MỘT SỐ ĐIỀU CỦA PHÁP

LỆNH XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH NĂM 2002 VÀ PHÁP LỆNH SỬA
ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA PHÁP LỆNH XỬ LÝ VI PHẠM
HÀNH CHÍNH NĂM 2008
8. www.chinhphu.vn
9. www.thuvienphapluat.com

HÀ DUY TÂN - DS33A058



×