Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

CÁC TRƯỜNG HỢP PHÁT SINH THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.32 KB, 11 trang )

LUẬT DÂN SỰ


THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
MỤC LỤC
I) Khái niệm
II) Các trường hợp phát sinh thừa kế theo pháp luật
III) Diện và hàng thừa kế
3.1 Diện thừa kế
3.2 Hàng thừa kế
IV) Thừa kế thế vị
V) Phân chia di sản thừa kế theo pháp luật

1


I - KHÁI NIỆM
Thừa kế theo di chúc là sự dịch chuyển tài sản từ người đã chết cho những
người còn sống theo ý chí của người có di sản. Tuy nhiên, trên thực tế không phải
lúc nào người để lại di sản chết cũng để lại di chúc hoặc di chúc do người ấy lập ra
là hợp pháp. Chính vì vậy, thừa kế theo pháp luật ra đời.
Nếu như ở thừa kế theo di chúc, người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân
hoặc cơ quan tổ chức và nếu là cá nhân thì có thể không phải là người có quan hệ
hôn nhân, quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng với người để lại di sản. Tuy nhiên, đối
với thừa kế theo pháp luật thì chỉ có cá nhân mới được hưởng thừa kế và các cá
nhân này phải có mối quan hệ trong ba mối quan hệ với người để lại di sản: quan
hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng. Tuy nhiên, không phải bất
cứ cá nhân nào có một trong ba quan hệ này với người để lại di sản cũng được
hưởng thừa kế mà được xác định theo hàng. Tương tự như vậy, không phải ai
trong các hàng thừa kế cũng được hưởng di sản mà điều này còn phụ thuộc vào
nguyên tắc ưu tiên của hàng thừa kế.


Theo quy định tại Điều 674, BLDS 2005 thì: “Thừa kế theo pháp luật là thừa
kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định”.
Như vậy, pháp luật trực tiếp quy định những người có quyền hưởng thừa kế,
phân định di sản thừa kế cho những người thừa kế cùng hàng và các trình tự khác
trong quá trình dịch chuyển di sản.
II - CÁC TRƯỜNG HỢP PHÁT SINH THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
Không phải chỉ khi nào người lập di chúc không để lại di chúc mới phát
sinh thừa kế theo pháp luật mà thừa kế theo pháp luật có thể phát sinh theo nhiều
tình huống khác nhau. Theo quy định tại Điều 675, BLDS 2005 thì thừa kế theo
pháp luật được áp dụng trong những tình huống sau đây:
Toàn bộ di sản được chia theo pháp luật trong các trường hợp sau:
Không có di chúc: Đây là trường hợp theo quy định của pháp luật thì người
để lại di sản có năng lực chủ thể trong việc lập di chúc nhưng người này lại không
thực hiện quyền lập di chúc, do đó không có di chúc; di chúc có nội dung không rõ
ràng mà những người thừa kế đã không thống nhất về cách hiểu nội dung của di
chúc thì coi như không có di chúc.; kể từ thời điểm mở thừa kế, di chúc bị thất lạc,
di chúc bị hủy hoại đến mức không thể thực hiện được đầy đủ và rõ ràng ý chí của
người lập di chúc.
-

Di chúc không hợp pháp: Người để lại di sản có để lại di chúc nhưng di chúc đó
không đáp ứng đủ các điều kiện có hiệu lực của di chúc Điều 652 và những điều
kiện chung của một giao dịch dân sự theo Điều 122 BLDS 2005 sẽ bị coi là di
2


chúc không hợp pháp. Trường hợp này di chúc bị coi là vô hiệu nên di sản được
chia theo pháp luật.
-


Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng một thời điểm
với người lập di chúc: Cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không
còn vào thời điểm mở thừa kế. Trong trường hợp này di chúc sẽ bị coi là vô hiệu
và di sản được chia theo pháp luật. Tuy nhiên, nếu chỉ có một trong số những
người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di
sản (đối với cá nhân) hoặc một trong số cơ quan, tổ chức không còn tồn tại vào
thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di sản liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức
này vô hiệu và được chia thừa kế theo pháp luật.

-

Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền
hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản: Đây là trường hợp người thừa kế thế
vị phạm vào khoản 1, Điều 643, BLDS 2005 và người lập di chúc không biết hành
vi của người thừa kế này hoặc người được hưởng thừa kế theo di chúc từ chối
quyền nhận di sản . Tuy nhiên, cũng cần lưu ý có trường hợp người thừa kế
nhường quyền thừa kế của mình cho người khác (thực chất là người thừa kế cho
người khác phần di sản mà lẽ ra họ được hưởng) thì cũng không coi là từ chối
quyền nhận di sản.
Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:

-

Phần di sản không được định đoạt trong di chúc: Người để lại di sản có nhiều di
sản nhưng học chỉ định đoạt một phần nhất định trong tổng số khối di sản do họ để
lại. Đối với phần di sản không được định đoạt trong di chúc sẽ được chia theo
pháp luật.
Ví dụ: Ông A chết để lại 500 triệu đồng, ông A lập di chúc để định đoạt 100
triệu đồng, như vậy di sản còn lại là 400 triệu đồng sẽ được chia theo pháp luật.


-

Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật: nếu di
chúc có một phần vô hiệu mà không ảnh hưởng đến các phần còn lại thì chỉ phần
di sản có liên quan đến phần của di chúc vô hiệu được chia theo pháp luật còn
phần khác vẫn được chia theo ý chí của người lập di chúc.

-

Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có
quyền được hưởng di sản, từ chối quyền nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng
thời điểm với người lập di chúc, liên quan đến cơ quan tổ chức được hưởng di sản
theo di chúc, nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế.

3


III – DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ:

3.1 Diện thừa kế:
Diện thừa kế là phạm vi những người hưởng di sản thừa kế của người chết theo
qui định của pháp luật. Như đã nói ở trên, diện những người thừa kế được pháp
luật quy định dựa trên ba mối quan hệ chính với người để lại di sản:
- Quan hệ hôn nhân: Xuất phát từ việc kết hôn giữa vợ và chồng.
- Quan hệ huyết thống: Quan hệ giữa những người cùng dòng máu (Cụ với ông,
bà; Ông, bà với cha mẹ; Cha mẹ với các con; Anh chị em ruột...)
- Quan hệ nuôi dưỡng: Xuất phát từ sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng lẫn nhau
giữa những người không cùng huyết thống hay không có quan hệ hôn nhân (Cha
mẹ nhận nuôi con nuôi)
Ở Việt Nam thời phong kiến, dựa theo khuôn mẫu gia đình "tam, tứ đại đồng

đường" là kiểu gia đình mở rộng, nơi ba bốn thế hệ chung sống dưới cùng một mái
nhà. Vì thế diện thừa kế theo pháp luật được xác định hết sức rộng rãi , bao gồm
toàn bộ những người thích thuộc của người chết mà không theo mức độ gần
gũi.Theo sự ghi nhận của các bộ dân luật thời phong kiến thì tất cả người thân
thuộc của người chết dù xa hay gần , dù thân hay sơ đều thuộc diện thừa kế theo
luật của người đó. Khi không còn ai bên nội tộc còn sống thì di sản được chuyển
dịch sang bên ngoại.
Sau khi dành được chính quyền và thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,
nhà nước ta đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật xác định phạm vi những
người thuộc diện thừa kế theo pháp luật:
-Thông tư 1742 do Bộ tư pháp ban hành ngày 19 tháng 8 năm 1956 qui định diện
những người thừa kế theo pháp luật bao gồm: Vợ ( chồng), các con đẻ, các con
nuôi, cháu, chắt,cha mẹ của người để lại di sản và những người thừa kế
khác.Nhưng thông tư này không xác định rõ những người thừa kế khác là ai nên
trong thời kì này anh, chị, ông bà không thuộc diện thừa kế.
-Thông tư 594 xác định diện thừa kế bao gồm: Vợ góa (cả vợ cả và vợ lẽ); con đẻ
và con nuôi; bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi, ông bà nội, ông bà ngoại; anh chị em
ruột và anh chị em nuôi. Thông tư này đã thêm được anh chị em và ông bà vào
diện thừa kế nhưng lại bỏ đi cháu, chắt ra khỏi diện thừa kế.
- Thông tư 81 xác định rõ cơ sở pháp lý của việc thừa kế theo pháp luật là ba mối
quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng.Đây là một quan điểm tiến bộ vẫn
được sử dụng cho đến ngày nay. Vì vậy diện thừa kế được qui định trong thông tư
bao gồm: Vợ góa (vợ cả và vợ lẽ) hoặc chồng góa, các con đẻ và con nuôi; bố mẹ
đẻ hoặc bố mẹ nuôi; ông bà nội ngoại; anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác
mẹ, cùng mẹ khác cha và anh chị em nuôi.Ngoài ra thông tư còn qui định " Người
thừa tự " cũng là người thừa kế theo pháp luật tức là cháu được quyền thừa kế của
ông bà nếu cha mẹ không còn.
4



- Pháp lệnh thừa kế do hội đồng nhà nước (Nay là ủy ban thường vụ Quốc Hội)
ban hành vào ngày 30 tháng 8 năm 1990. Diện thừa kế theo pháp lệnh này mở
rộng hơn so với Thông tư 81. Đối với những người có quan hệ huyết thống với
người để lại tài sản theo trực hệ được xác định đến tận 4 đời ( Từ đời cụ xuống đời
chắt).Đối với những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản theo
bàng hệ (ngành ngang) đã được mở rộng sang 2 đời ( chú ruột, bác ruột, cô ruột, dì
ruột, cậu ruột của người chết là cháu và ngược lại). Pháp lệnh thừa kế bác bỏ
quyền thừa kế của anh chị em nuôi.
-Bộ luật dân sự 1995 không qui định trực tiếp về diện thừa kế nhưng dựa vào hàng
thừa kế theo pháp luật và những người thừa kế thế vị thì đã xác định được diện
thừa kế bao gồm: vợ hoặc chồng; các con đẻ và con nuôi (thuộc hàng thừa kế thứ
nhất); bố mẹ đẻ hoặc bố mẹ nuôi; ông bà nội ngoại; anh chị em ruột ( thuộc hàng
thừa kế thứ hai); cụ nội , cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu
ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột,
chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột (thuộc hàng thừa kế thứ ba); cháu ruột của
người chết mà người chết là ông bà nội ngoại, chắt ruột của người chết mà người
chết là cụ nội, cụ ngoại (thừa kế thế vị). Cho đến hiện nay bộ luật dân sự năm
2005 thì diện thừa kế vẫn được xác định như năm 1999.Tuy nhiên có một điểm
khác biệt là chắt được liệt thêm vào hàng thừa kế thứ ba.

3.2 Hàng thừa kế:
Theo pháp luật, di sản của người chết được chia cho những người thân thích, gần
gũi đối với người chết.Tuy nhiên mức độ gần gũi, thân thiết của những người thân
thích đó với người chết là khác nhau khiến cho việc phân chia di sản thừa kế trở
nên khó khăn, phức tạp. Vấn đề này xảy ra ở rất nhiều nước trên thế giới chứ
không phải chỉ ở riêng Việt Nam. Và phần lớn các nước đặt ra qui định về hàng
thừa kế để giải quyết vấn đề này.
Hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ gần gũi với
người chết và theo đó họ cùng hưởng ngang nhau đối với di sản thừa kế mà người
chết để lại.

Theo khoản 1 điều 676 BLDS 2005, pháp luật Việt Nam chia những người trong
diện thừa kế ra làm ba hàng:
-Hàng thứ nhất bao gồm: Vợ (chồng), cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi của người chết.
Ở hàng thừa kế này có hai mối quan hệ giữa những người có quyền hưởng di sản
của nhau:
+ Quan hệ thừa kế của vợ chồng:
Căn cứ để xác định quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là quan hệ hôn nhân. Theo
khoản 6 điều 8 luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam 2000 thì " hôn nhân là quan
hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn".Vì thế vào thời điểm mở thừa kế nếu quan

5


hệ hôn nhân giữa họ về mặt pháp lý vẫn còn tồn tại thì họ được quyền hưởng thừa
kế của nhau. Do nhiều thay đổi trong luật pháp nên việc xác định quyền thừa kế
của vợ chồng cần chú ý các trường hợp sau:
> Trường hợp một: Vợ chồng đã chia tài sản chung hoặc sống ly thân hoặc một
người đã bỏ đi sống với ngưòi khác một cách bất hợp pháp nhưng chưa ly hôn, về
mặt pháp lý quan hệ hôn nhân vẫn còn tồn tại. Nên người này được quyền thừa kế
khi người kia chết.
> Trường hợp hai: Vợ chồng đang xin ly hôn mà chưa được tòa án chấp nhận
hoặc đã được chấp nhận nhưng quyết định hoặc bản án cho ly hôn chưa có hiệu
lực pháp luật thì một người chết. Khi đó người còn lại vẫn được quyền hưởng di
sản của người chết.
> Trường hợp ba: Nếu một người có nhiều vợ mà tất cả các cuộc hôn nhân đều
tiến hành trước ngày 13 tháng 1 năm 1960 ở miền Bắc ( ngày luật hôn nhân và gia
đình năm 1959 có hiệu lực ở miền Bắc) và trước ngày 25 tháng 3 năm 1977 ở
miền Nam (ngày áp dụng thống nhất các văn bản pháp luật trên toàn quốc) thì việc
người đó có nhiều vợ vẫn được chấp nhận. Do đó khi người này chết thì tất cả các

bà vợ (còn sống vào thời điểm đó) đều có quyền hưởng thừa kế theo hàng thứ nhất
và ngược lại người chồng có thể hưởng thừa kế ở hàng thứ nhất khi các bà vợ qua
đời.
> Trường hợp bốn: Nếu cán bộ chiến sĩ đã có vợ ở miền Nam, sau khi tập kết ra
miền Bắc, lấy vợ ở miền Bắc mà việc kết hôn sau không bị hủy bỏ bằng một bản
án có hiệu lực pháp luật thì những người vợ đó đều là người thừa kế ở hàng thứ
nhất của người chồng và ngược lại.
> Trường hợp năm: Đối với các trường hợp hôn nhân không đăng kí kết hôn
nhưng được thừa nhận là hôn nhân thực tế ( gồm các cuộc hôn nhân tiến hành
trước ngày luật Hôn nhân và gia đình 1986 có hiệu lực pháp luật có đủ điều kiện
kết hôn nhưng không đăng kí kết hôn) thì quan hệ vợ chồng giữa họ vẫn được thừa
nhận nên họ là người thừa kế theo pháp luật ở hàng thứ nhất của nhau.
> Trường hợp sáu: hai vợ chồng đã ly hôn nhưng sau đó quay lại sống chung với
nhau trước ngày luật Hôn nhân gia đình 1986 có hiệu lực mà cuộc sống chung đó
không bị hủy bỏ bằng một bản án có hiệu lực thì quan hệ vợ chồng đó vẫn được
chấp nhận.Và họ vẫn là người thừa kế hàng thứ nhất của nhau.
* Quan hệ thừa kế giữa cha mẹ và con:
Quan hệ này được xác lập theo hai căn cứ. Thứ nhất là mối quan hệ huyết thống
giữa những người cùng dòng máu trực hệ trong phạm vi hai đời liền kề nhau.
Trong đó cha mẹ đẻ là người đã sinh ra người đó nên được pháp luật qui định ở
hàng thừa kế thứ nhất. Thứ hai là mối quan hệ nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con.
Mối quan hệ nuôi dưỡng ở đây có thể là của bố mẹ đẻ với con đẻ cũng có thể là
của bố mẹ nuôi với con nuôi và ngược lại. Do đó việc pháp luật qui định bố mẹ

6


nuôi và con nuôi vào hàng thừa kế thứ nhất là hoàn toàn hợp lý. Sau đây là một số
trường hợp cần lưu ý trong việc xác định quyền thừa kế trong mối quan hệ này:
- Một người đã nhận người khác làm con nuôi của mình theo quy định của pháp

luật là cha nuôi, mẹ nuôi của người con nuôi đó. Vì thế họ là những người thừa kế
ở hàng thứ nhất của con nuôi và ngược lại, con nuôi là người thừa kế ở hàng thứ
nhất của cha mẹ nuôi mình (Điều 678)
Đối với trường hợp nhận con nuôi mà không đăng kí theo quy định của pháp luật
nhưng được công nhận là có quan hệ nuôi con nuôi thực tế (hiện nay đang được
áp dụng theo Nghị định số 32/2002/NĐ- CP ngày 27/3/2002 của Chính phủ quy
định việc áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình đối với các dân tộc thiểu số) thì giữa
cha mẹ nuôi và con nuôi thực tế đố vẫn thừa kế tài sản của nhau theo luật định.
Điều 678 quy định: "Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau
và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676 và Điều 677 của Bộ luật
này"
Theo điều luật trên thì một người vừa được thừa kế di sản của cha mẹ nuôi, vừa
được thừa kế đối với gia đình cha mẹ đẻ. Quy định trên cần được hiểu:
• Đối với cha mẹ: vừa có quan hệ thừa kế với con đẻ, vừa có quan hệ thừa kế
với con nuôi
• Đối với việc thừa kế của người con cần xác định:
> Về phía gia đình cha mẹ nuôi của người đi làm con nuôi: người con nuôi chỉ
có quan hệ thừa kế với cha nuôi, mẹ nuôi nhưng không có quan hệ thừa kế với
cha mẹ và con đẻ của người nhận nuôi con nuôi. Cha mẹ của người nhận nuôi
con nuôi cũng không được thừa kế của người con đó.
Nếu cha nuôi hoặc mẹ nuôi kế hôn với người khác thì người con nuôi không
đương nhiên trở thành con nuôi của người khác đó, vì thế họ không trở thành
người thừa kế của nhau theo pháp luật.
> Về phái gia đình cha mẹ đẻ của người đi làm con nuôi: Người đã đi làm con
nuôi của người khác vẫn có quan hệ thừa kế với cha mẹ đẻ, ông bà nội ngoại,
các cụ nội ngoại, anh chị em ruột, cô dì chú bác, cậu ruột như người không đi
làm con nuôi.
- Đối với mối quan hệ của “con riêng với bố dượng, mẹ kế”. Nếu như đối với
trường hợp con nuôi ta có thể khẳng định đó là mối quan hệ nuôi dưỡng thì trong
trường hợp này có nhiều điểm cần lưu ý: Như trường hợp mẹ kế sống với bố còn

con riêng sống với mẹ đẻ như vậy hai người này không có quan hệ huyết thống mà
cũng chẳng có quan hệ nuôi dưỡng; Hoặc là các trường hợp con riêng sống với bố
dượng, mẹ kế nhưng bị ghét bỏ, không nhận được sự quan tâm, chăm sóc nuôi
dưỡng ( các trường hợp này rất phổ biến ở nhiều nước) nên việc cho con riêng, bố
dượng, mẹ kế thừa kế của nhau trong các trường hợp này là không hợp lý. Vì thế
điều 679 -BLDS 2005 đã qui định:"con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ
7


chăm sóc nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau
và còn được thừa kế di sản theo qui định tại điều 676 và 677 của bộ luật này".
Như vậy là trong trường hợp pháp luật xác định được chắc chắn mối quan hệ nuôi
dưỡng của con riêng với bố dượng, mẹ kế là mối quan hệ nuôi dưỡng như cha con
hoặc mẹ con thì họ mới được hưởng thừa kế của nhau và còn được hưởng thừa kế
ở hàng thứ nhất hoặc thừa kế thế vị.
- Tiếp đến là mối quan hệ giữa cha mẹ và các con dâu con rể.Theo qui định của
pháp luật thì con dâu, con rể không nằm trong diện thừa kế. Nhưng trong trường
hợp con dâu, con rể tham gia lao động chung trong gia đình, xây dựng khối tài sản
trong gia đình cha, mẹ thì khi cha mẹ chết đi họ vẫn được hưởng một phần tài sản
xứng đáng với công sức mà họ bỏ ra nhưng không phải với tư cách người thừa kế
mà là người đồng sở hữu tài sản. Việc chia taì sản cho con dâu, con rể sẽ được
chia ngay từ lúc xác định tài sản của người chết trong khối tài sản chung, rút phần
của người chết ra để chia cho những người thừa kế, phần của con dâu, con rể và
những người khác (nếu có) nằm trong khối tài sản chung chưa bị chia kia.
-Hàng thừa kế thứ hai bao gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh
ruột, chị ruột, em ruột của người chết ; cháu ruột của người chết mà người
chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
+ Mối quan hệ thừa kế giữa ông bà và cháu:
Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ hai của
cháu nội, cháu ngoại của mình. Ngược lại, các cháu nội, cháu ngoại cũng là người

thừa kế ở hàng thừa kế thứ hai của ông, bà nội, ngoại. Tuy nhiên các chau chỉ
được hưởng thừa kế ở hàng thừa kế thứ hai của ông bà trong trường hợp không
còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất
quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
VD: Ông A có vợ là bà B và 2 con là C và D, C có con là X. Ông A chết không để
lại di chúc và có di sản thừa kế là 200 triệu đồng. Bà B từ chối nhận di sản, C và
D bị tòa án tước quyền hưởng di sản. Trong trường hợp này X được hưởng di sản
thừa kế của ông A cùng những người khác ở hàng thừa kế thứ 2.
Cũng tình huống trên, C chết trước ông A thì X được hưởng thừa kế thế vị
thay C và được hưởng di sản bằng phần di sản của bà B và anh D (B=D=X=1/3 *
200 triệu đồng).
Lưu ý: "Con nuôi của một người không đương nhiên trở thành cháu của cha mẹ
người nhận nuôi con nuôi". Vì thế nếu ông bà là bố mẹ đẻ của cha mẹ nuôi của
người chết thì ông bà không đương nhiên là người thừa kế ở hàng thứ 2 của người
chết và ngược lại. VD: AB là bố mẹ đẻ của CD, CD có con nuôi là E.
Trong trường hợp ông bà là bố mẹ nuôi của bố mẹ đẻ của người chết thì ông bà
mới là người thừa kế hàng thứ 2 của người chết và ngược lại.

8


VD: AB là bố mẹ nuôi của CD, CD có con đẻ là X, AB và X là người thuộc hàng
thừa kế thứ 2 của nhau.
+ Quan hệ thừa kế giữa anh, chị, em ruột:
Căn cứ để phát sinh quyền thừa kế giữa những người này cũng là mối quan hệ
huyết thống. Anh ruột, chị ruột, em ruột là những người cùng cha cùng mẹ hoặc
cùng mẹ khác cha hoặc cùng cha khác mẹ, con trong giá thú hay con ngoài giá thú
miễn là họ có chung dòng máu của người sinh ra mình thì đương nhiên theo pháp
luật họ được quyền hưởng thừa kế ở hàng thứ hai của nhau.Ngoài ra pháp luật còn
qui định rõ con riêng của vợ hoặc chồng không phải là anh em ruột của nhau; Con

nuôi không phải là anh chị em ruột đối với con đẻ của bố hoặc mẹ nuôi nên không
được nhận thừa kế từ những anh chị em đó nhưng vẫn được nhận thừa kế từ anh
chị em ruột của chính mình và ngược lại
- Hàng thừa kế thứ ba bao gồm: cụ nội , cụ ngoại của người chết; bác ruột,
chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết
mà người chết là bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột; cháu ruột của
người chết mà người chết là ông bà nội ngoại, chắt ruột của người chết mà
người chết là cụ nội, cụ ngoại.
+ Quan hệ thừa kế giữa bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột với cháu
ruột :
Quan hệ thừa kế giữa những người này với nhau cũng là dựa trên mối quan hệ
huyết thống. Bác ruột, cô ruột, dì ruột, cậu ruột, chú ruột là những anh chị em ruột
của bố hoặc mẹ và từ đó ta xác định ngược lại được cháu ruột phải là con đẻ của
những anh chị em ruột của người chết. Những người này theo pháp luật được xếp
hưởng thừa kế vào hàng thứ ba của nhau.
+ Quan hệ thừa kế giữa cụ và chắt:
Khi cụ nôi, ngoại chết thì chắt là người thừa kế ở hàng thứ 3 của các cụ, ngược lại
khi chắt chết trước thì cụ nội, ngoại là người thừa kế ở hàng thứ 3 của các chắt.
Tuy nhiên các chắt chỉ có quyền hưởng di sản từ cụ khi ông bà của họ không có
quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản ở hàng thừa
kế thứ 2 và cũng không còn ai ở hàng thừa kế này.
IV) THỪA KẾ THẾ VỊ
Điều 677 BLDS năm 2005 đã quy định là người thừa kế ở hàng thứ ba của người
đó là: "Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng
một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha
hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống, nếu cháu cũng đã chết trước hoặc
cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà
cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống".

9



Theo quy định trên thì: Thừa kế thế vị là việc con thay thế vị trí của bố hoặc mẹ để
nhận di sản thừa kế từ ông bà nội, ông bà ngoại, cụ nội, cụ ngoại nếu bố mẹ đã
chết trước hoặc chết cùng thời điểm với những người này. Phần di sản mà người
con được hưởng trong di sản của người để lại thừa kế nói trên là phần di sản mà
bố hoặc mẹ của họ được hưởng nếu còn sống vào thời điểm mở thừa kế.
Như vậy, thừa ké thế vị chỉ xảy ra ở hàng thừa kế thứ nhất (Điều 677BLDS).
Trong hàng thừa kế thứ nhất, người thừa kế thế vị được hưởng di sản chỉ có thể là
cháu hoặc chắt. Tức là sự thừa kế thế vị chỉ áp dụng cho đối tượng thuộc trược hệ
thứ ba với điều kiện cháu phải sống vào thời điểm ông bà chết mới là người thế vị
tài sản của ông bà, chắt phải sống vào thời điểm cụ chết mới là người thừa kế thế
vị tài sản của cụ. Cháu sinh ra khi ông bà chết nhưng đã thành thai khi ông bà còn
sống cũng là người thừa kế thế vị tài sản của ông bà (với chắt cũng vậy) nhưng khi
sinh ra nó phải còn sống. Các phần thừa kế của những người nhận thừa kế với tư
cách là thừa kế thế vị sẽ phải chia nhau (chia đều) phần mà người cha, người mẹ
hay người ông, người bà của cúng eneus còn sống sẽ được hưởng.
VD:

A có vợ là B, 2 con là C và D
C có con là E và F, D có con là G và H
C chết trước A, D và G chết cùng thời điểm với A.
A chết không để lại di chúc và có khối di sản là 90 triệu đồng.
Di sản thừa kế của A được chia như sau:
- Theo điều 676 BLDS, hàng thừa kế thứ nhất của ông A gồm: B, C, D (B
=C= D = 90 triệu : 3 = 30 triệu đồng)
- Do C chết trước A nên E và F thay C hưởng phần di sản thừa kế của A
theo điểu 677 (E=F= 30 triệu đồng : 2 = 15 triệu đồng)
- Do D chết cùng thời điểm với A nên H thay D hưởng di sản thừa kế của A
(vì G đã chết, H = 30 triệu đồng)


V - PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
Khác với việc phân chia di sản theo di chúc là phân chia di sản theo ý chí
của người để lại di sản, thì phân chia di sản thừa kế theo pháp luật là việc áp dụng
các quy định của pháp luật về thừa kế để phân chia di sản cho những người thừa
kế theo quy định chung của pháp luật.
Khi phân chia di sản thừa kế theo pháp luật phải tuân theo nguyên tắc:
Chia trước và chia hết di sản cho những người thừa kế ở hàng trước, theo
thứ tự ưu tiên chia trước và chia đều bằng nhau cho những người ở hàng thừa kế
thứ nhất. Nếu không có ai ở hàng thừa kế thứ nhất do đã chết, không có quyền
hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền hưởng di sanrthif di

10


sản chuyển xuống chia đều cho những người thừa kế hàng thứ hai. Tương tự như
vậy ở hàng thừa kế thứ hai, di sản sẽ được chuyển xuống chia đều cho hàng thừa
kế thứ ba (Điều 676 BLDS). Trong trường hợp di sản không có người nhận thừa
kế thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà người chết để lại
sẽ thuộc về nhà nước (Điều 644 BLDS)
- Khi tiến hành phân chia di sản thừa kế theo pháp luật thì những người thừa
kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng
hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và
thỏa thuận về người nhận hiện vật (có thể thanh toán giá trị chênh lệch của hiện
vật cho những người thừa kế khác hoặc không thanh toán); nếu không có thỏa
thuận thì hiện vật được bán để chia.
Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau
(khoản 2, Điều 676 BLDS) Pháp luật cho phép một người thành thai trước thời
điểm người có tài sản chết, sinh ra còn sống sau thời điểm người có tài sản chết
cũng được hưởng di sản. Do đó, khi phân chia di sản nếu có người thừa kế cùng

hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải để dành lại một phần di sản bằng
phần mà người thừa kế khác được hưởng, để nếu người thừa kế đố còn sống khi
sinh ra, được hưởng; nếu chết trước khi sinh ra thì người thừa kế khác được
hưởng.
------------------------------

11



×