Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ PHÁO LỆNH TRONG TÀI THƯƠNG MẠI NĂM 2003 ĐẾN LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI NĂM 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.3 KB, 23 trang )

CĂN CỨ THỦ TỤC TỐ TỤNG XÁC ĐỊNH THẨM
QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TRỌNG
TÀI THƯƠNG MẠI

I – TRANH CHẤP TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ PHƯƠNG THỨC
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI

1.1 Tranh chấp trong thương mại quốc tế
1.2 Phương thức giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế bằng trọng tài
1.3 Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài
II – CĂN CỨ XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
2.1 Thỏa thuận trọng tài
2.2 Điều kiện hợp pháp của một thỏa thuận trọng tài
2.2.1 Vấn đề hiệu lực của thỏa thuận trọng tài
2.2.2 Khả năng giải quyết bằng trọng tài
2.2.3 Năng lực của các bên trong hợp đồng

III – THỦ TỤC CHO PHÉP GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VỀ THẨM
QUYỀN

1


IV - SƯ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ PHÁO LỆNH
TRONG TÀI THƯƠNG MẠI NĂM 2003 ĐẾN LUẬT TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI NĂM 2010

LỜI MỞ ĐẦU
-------*------Hơn lúc nào hết, tranh chấp và giải quyết tranh chấp đang là vấn đề “nổi
cộm” của nền kinh tế thế giới hiện nay. Có thể khẳng định như vậy bởi lẽ quá trình hội


nhập quốc tế hiện nay đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, trong điều kiện đó mỗi quốc gia
không thể đứng ngoài, tự tách mình khỏi quá trình hội nhập quốc tế. Đối với nền kinh tế
của mỗi quốc gia, sản phẩm làm ra của mỗi tập đoàn không còn bó buộc trong một
phạm vi và lãnh thổ nhất định, mà được gắn kết với nền kinh tế toàn cầu. Quá trình toàn
cầu hoá và khu vực hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ cùng với đòi hỏi ngày càng cao của
người tiêu dùng, buộc các nhà sản xuất, kinh doanh không những nâng cao chất lượng
sản phẩm, khả năng phục vụ, mà còn mở rộng hợp đồng với rất nhiều đối tác. Quá trình
liên doanh, liên kết, mở rộng hợp đồng, sự phát sinh ngày càng nhiều các quan hệ tư tất
yếu sẽ nảy sinh những vấn đề tranh chấp. Sự ra đời của trọng tài như là một hệ quả tất
yếu trong việc đa dạng hoá các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp.
Pháp luật hoàn toàn cho phép các nhà kinh doanh, các cá nhân, tổ chức có quyền được
lựa chọn mô hình mà mình yêu thích để giải quyết những tranh chấp phát sinh. Chính
điều này đã tạo cơ sở cho sự ra đời của các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn
(ADR), mà phương thức có vị trí quan trọng nhất trong số đó là giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài.

2


Vậy khi có tranh chấp, căn cứ nào xác định thầm quyền giải quyết tranh chấp
của trọng tài và thủ tục giải quyết tranh chấp về thẩm quyền sẽ diễn ra như thế nào. Bài
viết sẽ tập trung giải quyết vấn đề trên.

3


I – TRANH CHẤP TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ PHƯƠNG THỨC
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI:

1.1 Tranh chấp trong thương mại quốc tế:

Tranh chấp trong hoạt động thương mại là những mâu thuẫn, bất đồng giữa
các bên tham gia quan hệ thương mại mà chủ yếu là lien quan đến việc thực hiện (hoặc
không thực hiện) các quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng. Tranh chấp thương mại
thường có các yếu tố sau đây: 1. Có quan hệ thương mại tồn tại giữa các bên tranh
chấp; 2. Có sự vi phạm (hoặc giải thiết vi phạm) nghĩa vụ của một bên làm ảnh hưởng
tới quyền và nghĩa vụ của bên kia; 3. Có sự bất đồng quan điểm của các bên vè sự vi
phạm hoặc việc xử lý hậu quả phát sinh từ vi phạm. Tranh chấp thương mại thường có
yếu tố tài sản, gắn liền với lợi ích của các bên tranh chấp và phát sinh trực tiếp từ quan
hệ hợp đồng, vì vậy các bên luôn có quyền định đoạt và giải quyết theo nguyên tắc
bình đẳng, thỏa thuận.
Tranh chấp trong thương mại quốc tế là những mâu thuẫn, bất đồng xảy ra
trong quá trình thực hiện các giao dịch thương mại quốc tế mà chủ yếu là quan hệ hợp
đồng thương mại quốc tế. Các tranh chấp này là điều khó tránh khỏi vì xuát pháp từ đặc
thù của quan hệ thương mại quốc tế; giữa các bên tham gia hợp đồng thường có sự xa
cách về mặt địa lý, khác biệt về truyền thống pháp luật và tập quán thương mại, và có
thể còn sự thiếu tin tưởng, hiểu biết lẫn nhau… Hơn nữa, điều kiện ngoại cảnh ở mỗi
nước đều có thể gây ra cho mỗi bên những khó khăn không lường trước được khi tham
gia các quan hệ thương mại có yêu tố nước ngoài.1
1.2 Phương thức giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế bằng trọng tài:
Tranh chấp thương mại trước hết là những mâu thuẫn bất đồng về quyền và

1 Nguyễn Bá Diến (chủ biên), Giáo trình Luật thương mại quốc tế, Khoa Luật Đại học quốc gia
Hà Nội, NXB. Đại học quốc gia Hà Nội, 2005, tr.582

4


nghĩa vụ của các bên trong mối quan hệ cụ thể. Những mâu thuẫn đó phát sinh từ hoạt
động thương mại và phát sinh chủ yếu giữa các thương nhân. Khi xảy ra tranh chấp, các
bên liên quan có thể lựa chon các phương thức giải quyết là thương lượng, hòa giải, tòa

án và trọng tài. Thương lượng, hòa giải và trọng tài thương mại là các phương thức giải
quyết tranh chấp không mang tính quyền lực nhà nước mà chủ yếu được giải quyết
dựa trên nền tảng ý chí tự định đoạt của các bên tranh chấp hoặc phán quyết của bên
thứ ba độc lập theo thủ tục linh hoạt , mềm dẻo. Kinh tế thương mại ngày càng phát
triển, những tranh chấp thương mại ngày càng rắc rối cùng với đó việc vận dụng giả
quyết tranh chấp bằng biện pháp trọng tài thương mại cũng ngày càng được áp dụng
nhiều hơn.
Tại khoản 1 điều 3 của Luật trọng tài Thương mại Việt Nam năm 2010 đã quy định
“Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt
động thương mại được các bên thỏa thuận bằng văn bản và được tiến hành theo
trình tự, thủ tục tố tụng do pháp luật quy định”2.
Theo khoản a điều 2 Luật Mẫu của Ủy Ban Liên Hợp Quốc về Luật Thương mại
quốc tế (UNCITRAL) về Trọng Tài Thương mại năm 1985 quy định: “Trọng Tài nghĩa
là mọi hình thức trọng tài có hoặc không có sự giám sát của một tổ chức trọng tài
thường trực”.3
Trọng tài cũng là một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại mang tính
phán. Không giống như tòa án quốc gia, không có hội đồng trọng tài cố định để giải
quyết tranh chấp thương mại mà ở đó cùng có một số trọng tài viên nhất định giải quyết
nhiều vụ, Trong tài là một phương thức giải quyết tranh chấp tư, dựa trên thảo thuận
giữa các bên. Quy tắc chung là “ Không có thỏa thuận giải quyết bằng phương thức
trọng tài, không có tố tụng trọng tài”. Trừ một số ngoại lệ, các bên phải thỏa thuận
trong hợp đồng sử dụng phương thức trọng tài, và quy định chi tiết các quy tắc điều
chỉnh quá trình tố tụng (chỉ định trọng tài viên, vv..) hoặc sử dụng các quy tắc tố tụng
2 Tại khoản 1 điều 3 của Luật trọng tài Thương mại Việt Nam năm 2010
3 Khoản a điều 2 Luật mẫu UNCITRAL về Trong tài Thương mại quốc tế năm 1985

5


trọng tài dưới sự giám sát của một tổ chức trọng tài quy chế. Trong trọng tài vụ việc,

các bên tự quyết định số lượng trọng tài sẽ được tiến hành như thế nào và không có sự
trợ giúp của tổ chức trọng tài quy chế. Trong trọng tài quy chế, (cũng được coi như
trọng tài được giám sát), tố tụng trọng tài được tiến hành với sự trợ giúp một một tổ
chức trọng tài quy chế.
Tùy thuộc vào cách thỏa thuận của các bên, cách thức tiến hành tố tụng trọng tài
có thể khác hoặc không khác với cách thức tiến hành tố tụng tại một tòa án quốc gia.
Tuy nhiên tự các bên (hoặc tổ chức trọng tài quy chế, hoặc bất kì bên thứ ba nào được
các bên chỉ định) cũng có thể tự thành lập hội đồng trọng tài. Hơn nữa, các quy tắc tố
tụng trọng tài thường linh hoạt hơn và ít nghi thức hơn các quy tắc của pháp luật quốc
gia. 4
1.3 Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài
Pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế(TCTMQT) bằng trọng tài
được cấu thành bởi hai bộ phận có mối quan hệ khăng khít, đó là: pháp luật hình thức và
pháp luật nội dung. Nếu như pháp luật hình thức quy định về cách thức, trình tự thủ tục
để giải quyết TCTMQT bằng trọng tài thì những quy định của pháp luật nội dung chính
là căn cứ pháp lý để xem xét, đánh giá và đưa ra quyết định phân xử vụ tranh chấp.
Pháp luật nội dung
Pháp luật nội dung là tất cả những điều khoản có liên quan trong các điều ước quốc tế,
tập quán quốc tế, pháp luật quốc gia,…được áp dụng để điều chỉnh quan hệ TCTMQT –
việc giải quyết những quan hệ tranh chấp về thương mại trong phạm vi một quốc gia sẽ
chỉ căn cứ vào những quy đinh cụ thể trong pháp luật về thương mại của quốc gia đó.
Nhưng để giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài thì hoàn toàn không
đơn giản như vậy. TCTMQT tất yếu dẫn đến việc điều chỉnh hai hay nhiều hệ thống pháp
luật.Trên thực tế pháp luật nội dung của các nước hoàn toàn không giống nhau, thậm chí
4 Trọng tài và phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn, Trung tâm Thương Mại quốc tế, Bộ sách về

Luật Thương Mại, NXB Tài Chính năm 2008, tr.66

6



trái ngược nhau, do đó đòi hỏi phải lựa chon một hệ thống pháp luật xác định để giải
quyết quan hệ tranh chấp. Đây gọi là sự xung đột pháp luật.
Sự xung đột pháp luật giữa các bên
Xung đột pháp luật về TCTMQT là hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác
nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ tranh chấp. Do đó khi giải
quyết một vụ TCTMQT thì việc đầu tiên phải giải quyết của hội đồng trọng tài là chọn
luật áp dụng. Việc xác định hệ thống pháp luật nào để điều chỉnh quan hệ tranh chấp
trước hết căn cứ vào thỏa thuận của các bên tranh chấp. Trong trường hợp không có thỏa
thuận chọn luật áp dụng giữa các bên hoặc thỏa thuận quá chung chung, không rõ ràng thì
hội đồng trọng tài(HĐTT) sẽ quyết định việc lựa chọn pháp luật dựa vào các quy phạm
xung đột trong pháp luật quốc gia, điều ước quốc tế.
Để giải quyết TCTMQT tại Việt Nam, không chỉ pháp luật Việt Nam mà các hệ
thống pháp luật khác cũng được lựa chọn để giải quyết tranh chấp giữa các bên, chẳng
hạn trong tranh chấp giữa thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài, thì cả
pháp luật Việt Nam cả pháp luật thương nhân kia mang quốc tịch thậm chí các điều ước
quốc tế, tập quán thương mại,hay pháp luật của một nước thứ ba khác (nếu các bên có
thỏa thuận) đều có thể được áp dụng để giải quyết tranh chấp.
Pháp luật trọng tài thương mại quy định HĐTT sẽ chọn pháp luật để giải quyết vụ
tranh chấp có yếu tố nước ngoài theo nguyên tắc áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn.
Trong trường hợp các bên không lựa chọn được pháp luật để giải quyết vụ tranh chấp thì
HĐTT sẽ quyết định.
Sự xung đột giữa thỏa thuận các bên và pháp luật
Đối với việc giải quyết những quan hệ tranh chấp trong nước, vấn đề xung đột pháp luật
giữa thỏa thuận các bên không được đặt ra bởi chỉ những thỏa thuận phù hợp với quy
định của pháp luật quốc gia mới được tiến hành trên thực tế. Tuy nhiên do TCTMQT liên
quan đến nhiều hệ thống pháp luật mà nội dung của chúng có thể khác nhau nên dẫn đến
tình trạng thỏa thuận giữa các bên tranh chấp có thể trái với quy định của pháp luật một

7



số hoặc tất cả các hệ thống pháp luật đó, liên quan đến vấn đề này có thể xảy ra các
trường hợp:
Thỏa thuận của các bên có thể trái với pháp luật của một quốc gia nhưng lại phù hợp với
một quốc gia khác.
Thỏa thuận của các bên trái với tất cả quy định của các hệ thống pháp luật liên quan đến
tranh chấp.
Pháp luật hình thức
Pháp luật hình thức liên quan đến việc giải quyết TCTMQT bằng trọng tài tại Việt Nam
bao gồm hai bộ phận: Luật trọng tài thương mại năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi
hành; quy tắc tố tụng của trọng tài thương mại hoặc quy tắc tố tụng theo sự thỏa thuận
của các bên tranh chấp
Đối với các TCTMQT do có ít nhất hai hệ thống pháp luật quốc gia khác nhau có thể
áp dụng để giải quyết tranh chấp nên các bên có quyền thỏa thuận để lựa chọn một hệt
thống pháp luật nhất định điều chỉnh quan hệ tranh chấp. Đồng thời các bên cũng tự do
xác định một quy tắc thỏa thuận trọng tài cho bất kì vụ tranh chấp nào.
Có thể nói giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tức là cho các bên quyền tự định đoạt tối
đa trong việc lựa chon luật áp dụng. Do đó khi tham gia vào một quan hệ thương mại
quốc tế các bên cần đặc biệt chú trọng thỏa thuận các điều khoản liên quan đến việc giải
quyết tranh chấp, bởi lẽ đó là cơ sở pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp phát sinh(nếu
có) một cách nhanh chóng và hiệu quả. Nếu các bên thỏa thuận giải quyết tranh chấp theo
thủ tục trọng tài thì trong điều kiện về giải quyết tranh chấp phải làm rõ luật áp dụng cho
hợp đồng, tên thủ tục trọng tài, xác định quy tắc tố tụng để giải quyết tranh chấp

II – CĂN CỨ XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI:
2.1 Thỏa thuận trọng tài:

8



“Thỏa thuận trọng tài” là thỏa thuận mà các bên đưa ra trọng tài mọi hoặc các
tranh chấp nhất định phát sinh hoặc có thể phát sinh giữa các bên về quan hệ phát lý xác
định, dù là quan hệ hợp đồng hay không là quan hệ hợp đồng. Thỏa thuận trọng tài có
thể dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận
riêng.5
Thỏa thuận trọng tài là một hình thức pháp lý thể hiện sự thống nhất ý chí của các
bên về việc đưa tranh chấp ra giải quyết tại tổ chức trọng tài do các bên lựa chọn. Thỏa
thuận trọng tài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì không có thỏa thuận này thì không
phát sinh việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Về mặt thủ tục, các tổ chức trọng tài
chi chấp nhận đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp khi nguyên đơn gửi kèm theo văn bản
thỏa thuận trọng tài do các bên lập ra trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp.
Trong văn bản thỏa thuận trọng tài, các bên có quyền lựa chọn hình thức trọng tà,
các bên có quyền lựa chon hình thức trọng tài được áp dụng là trọng tài vụ việc hay
trọng tài thường trực, nếu là trọng tài thường trực thì phải chỉ rõ trung tâm trọng tài nào
sẽ giải quyết tranh chấp này, Trung tâm trọng tài đó sẽ áp dụng Quy tắc tố tụng nhất
định, thường là quy tắc của Trung tâm đó. Nếu trọng tài vụ việc được lựa chọn thì xác
định trình tự thủ tục trọng tài phù hợp hoặc hệ thống quy định mẫu về trọng tài đã có
sẵn và chỉ định trọng tài viên. Khi các bên đã thỏa thuận trọng tài thì phải có nghĩa vụ
thực hiện và không được quyền khiếu kiện ra tòa án, trừ trường hợp thỏa thuận không
có hiệu lực hoặc hết hiệu lực, không thể thi hành hoặc không thể áp dụng được. 6
Trong thực tế có nhiều trường hợp do các bên không có thỏa thuận trong tài hoặc
thỏa thuận trọng tài không đúng đắn hoặc không được tôn trọng nên đã phát sinh những
tranh chấp về thẩm quyền và thủ tục giải quyết tranh chấp giữa các bên.

2.2 Điều kiện hợp pháp của một thỏa thuận trọng tài:
5 Khoản 1 điều 7 Luật Mẫu UNCITRAL về Trọng tài Thương Mại Quốc Tế năm 1985
6 Theo khoản 1 điều 3 Công ước New York năm 1958 về Công nhận và thi hành quyết định của Trọng


tài nước ngoài thông qua tại New York ngày 10/6/1958. Việt Nam tham gia Công ước này năm 1995.

9


2.2.1 Vấn đề hiệu lực của thỏa thuận trọng tài:
Để một thảo thuận trọng tài phát huy tác dụng thì trước tiên nó phải có hiệu lực.
“Thỏa thuận trọng tài” có thể đề cập tới hai loại thỏa thuận:

- Điều khoản trọng tài được đưa vào hợp đồng ký kết giữa các bên;
- Thỏa thuận đưa tranh chấp ra trọng tài gải quyết, các bên có thể lập vào thời điểm tranh
chấp phát sinh và trong trường hợp các bên không có quy định điều khoản trong tài
trong hợp đồng.
Ở những nước theo luật Châu Âu lục địa, cả hai khái niệm trên đều được định nghĩa rõ
rang. Trong tiếng Pháp, điều khoản trọng tài được gọi là “la clause compromissoire”
trong khi thỏa thuận đưa tranh chấp ra trọng tài giải quyết thì gọi là “le compromise
d’arbitrage”7.
Hiệu lực của một thỏa thuận trọng tài rất quan trọng. Nhìn chung, các nguyên tắc pháp
lý được áp dụng để xác định hiệu lực của thỏa thuận trọng tài là những nguyên tắc của
một hợp đồng thương mại thông thường; bởi thực tế thỏa thuận trọng tài thường dưới
dạng một điều khoản trọng tài và một phần của hợp đồng thương mại. Thông thường,
điều khoản trọng tài thường được điều chỉnh bởi chính luật điều chỉnh những điều
khoản còn lại của hợp đồng và hiệu lực của điều khoản trọng tài sẽ được xem xét theo
luật đó, Tuy nhiên, có thể (mặc dù không phổ biến) điều khaorn trọng tài được điều
chỉnh bởi một luật trong khi phần còn lại của hợp đồng được điều chỉnh bởi một luận
khác.
Có một số đặc trưng riêng phân biệt thỏa thuận trọng tài với các loại thỏa thuận
khác. Những đặc trưng này liên quan đến năng lực, khả năng giải quyết bằng trọng tài,
hình thức và luật áp dụng. Khả năng giải quyết bằng trọng tài và năng lực là hai đặc
trung chính của trọng tài có thể gây tranh cãi về hiệu lực của một thỏa thuận trọng tài.

Các yêu cầu về khả năng giải quyết bằng trọng tài và năng lực phải được tuân thủ để
thỏa thuận trọng tài có hiệu lực. Tuy nhiên, các đặc trung này được điều chỉnh bởi các
7 Trọng tài và phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn, Trung tâm Thương Mại quốc tế, Bộ sách về

Luật Thương Mại, NXB Tài Chính năm 2008, tr.128

10


luật áp dụng khác nhau. Vấn đề năng lực được xác định theo “luật áp dụng cho một
bên” trong khi vấn đề khả năng giải quyết bằng trọng tài có thể xác định theo các luật
khác, kể cả “luật của nước nơi thi hành quyết định trọng tài”.
Vấn đề hiệu lực của một thỏa thuận trọng tài thường được một trong các bên đề
cập vào một giai đoạn nào đó trong quá trình tố tụng trọng tài. Khi bắt đầu tố tụng trọng
tài, một bên có thể yêu cầu khước từ đưa tranh chấp ra giải quyết ở trọng tài với lí do
thỏa thuận không có hiệu lực. Thông thường, bên bị đơn trong tô tụng trọng tài sẽ là
bên đưa ra khước từ. Sự khước từ có thể đưa ra hội đồng trọng tài hoặc một tòa án có
thẩm quyền.
Nếu các bên đã quy định trong hợp đồng sẽ giải quyết các tranh chấp bằng trọng
tài quy chế thì theo các quy tắc áp dụng cho tố tụng trọng tài, tổ chức trọng tài quy chế
có thể, quyết định xem liệu có chấp thuận bắt đầu trọng tài trên cơ sở điều khaorn thỏa
thuận trong hợp đồng không. Quyết định ràng buộc về mặt pháp lý này sẽ phải do hội
đồng trọng tài đưa ra theo nguyên tắc thẩm quyền của thẩm quyền8.
Nếu một tổ chức trọng tài quy chế quyết định không bắt đầu trọng tài với lí do
không có điều khoản trọng tài hoặc điều khoản trọng tài không đề cập tới tổ chức trọng
tài quy chế, bên không thỏa mãn có thể kiện ra một tòa án quốc gia tại nơi tổ chức trọng
tài quy chế có trụ sở.
Nếu hội đồng trọng tài quyết định là hợp đồng đó trong đó có điều khoản trọng tài
vô hiệu theo luật áp dụng, quyết định này không có nghĩa là điều khoản trọng tài trong
hợp đồng cũng vô hiệu. Nguyên tắc này, được coi như tính tách biệt của các điều khoản

trọng tài và được công nhận rộng rãi trong luật trọng tài của nhiều quốc gia. 9
8 Nguyên tắc “thẩm quyền của thẩm quyền”(Kompetenz- Kompetenz): nếu một bên không thừa nhận thẩm quyền
của hội đồng trọng tài với lý do thỏa thuận trọng tài không có hiệu lực, hội đồng trọng tài sẽ có quyền tự quyết định
thẩm quyền của mình. Khoản 1 điều 16 Luật Mẫu UNCITRAL về Trọng tài Thương Mại Quốc Tế năm 1985
9 Khoản 1 điều 16 Luật Mẫu UNCITRAL về Trọng tài Thương Mại Quốc Tế năm 1985 quy định: “…một điều
khoản tọng tài là một phần của hợp đồng sẽ được coi là một thỏa thuận độc lập với các điều khoản khác của hợp
đồng. Quyết định của hội đồng trọng tài rằng hợp đồng bị vô hiệu không làm cho điều khoản trọng tài bị vô hiệu
theo”.

11


Điều 19. Tính độc lập của thoả thuận trọng tài
Thoả thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ
hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực
của thoả thuận trọng tài.10

2.2.2 Khả năng giải quyết bằng trọng tài:
Khả năng giải quyết bằng trọng tài được đáp ứng nghĩa là đối tượng tranh chấp phải có
thể giải quyết bằng trọng tài. Nếu đối tượng tranh chấp koong thể giải quyết bằng trọng
tài, thỏa thuận trọng tài cũng không có hiệu lực. Các quy tắc xác định khả năng giải
quyết bằng trọng tài có thể khác nhau giữa các nước, giữa các hệ thống pháp luật. Các
trọng tài viên nên xem xét sự khác biệt này khi quyết định một vấn đề liên quan tới khả
năng giải quyết bằng trọng tài.
Thực tế khả năng giải quyết bằng trọng tài là sự giới hạn về trật tự công cộng đối
với phạm vi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Theo trật tự công cộn của mình, mỗi
quốc gia có thể quyết định vấn đề nào có thể giải quyết bằng trọng tài. Tuy nhiên, vì
phải xem xét cả trật tự công cộng của nước nơi thi hành hoặc công nhận quyết định
trọng tài - vì đây có thể là bất kì quốc gia nào trên thế giới nơi bên thua kiện có tài sảncác trọng tài viên thường phải tập trung vào các vấn đề mà hầu hết các quốc gia cho
rằng không thể giải quyết bằng trọng tài. Đây thường là các tranh chấp về luật cạnh

tranh và các vấn đề mất lòng tin, quan hệ hôn nhân, phá sản và một số quyền sở hữu trí
tuệ.
Công ước New York về Công nhận và thi hành Quyết định Trọng tài Nước ngoài
tại điều 12 là: “Việc công nhận và thi hành một quyết định trọng tài cũng có thể bị từ
chối nếu cơ quan có thẩm quyền tại một quốc gia nơi được yêu cầu công nhân và thi

10 Luật Trọng tài Thương mại Việt Nam năm 2010

12


hành cho rằng: a) Đối tượng của tranh chấp không thể giải quyết bằng trọng tài theo
luật nước đó”
Hơn nữa, một quyết định trọng tài có thể bị bác nếu quyết định về một đối tượng
không thế giải quyết bằng trọng tài. Đơn đề nghị hủy quyết định trọng tài có thể dựa
trên lý do không có khả năng giải quyết bằng trọng tài, như quy định trong luật của
nhiều quốc gia và Điều 34 của Luật mẫu UNCITRAL về Trọng tài Thương mại Quốc tế
năm 198511
2.2.3 Năng lực của các bên trong hợp đồng:
Để đáp ứng yêu cầu về năng lực nghĩa là các bên trong hợp đồng phải có năng lực pháp
lý để kí hợp đồng đó. Nếu một bên không có năng lực kí kết hợp đồng, hợp đồng là vô
hiệu. Các quy tắc xác định năng lực của một bên không thống nhất và có thể khác nhau
giữa các nước và giữa các hệ thống pháp luật. Các trọng tài viên nên xem xét sự khác
biệt này khi quyết định một vấn đề liên quan đến năng lực.
Với một thể nhân, năng lực chủ yếu liên quan đến tuổi mà người đó có thể bị ràng buộc
và độ tuổi này sẽ chủ yếu phụ thuộc vào quốc tịch của người đó và vào luật của quốc
gia mà người đó là công dân. Với một công ty, năng lực sẽ được xác định bởi luật áp
dụng của nước nơi công ty đó được thành lập.12
Nói chung, các quy tắc xác định liệu một bên có thể kí một điều khoản trọng tài hay
không sẽ giống như các quy tắc xác định liệu một bên có năng lực kí bất kì dạng hợp

đồng nào không. Điều này có nghĩa là các cá nhân như những người vị thành niên ,
những người phá sản và những người rối loạn tâm thần không có năng lực kí kết hợp
đồng.
11 Điều 34 Luật mẫu UNCITRAL về Trọng tài Thương mại Quốc tế: Quyết định trọng tài có thể bị hủy

bởi tòa án được quy định tài điều 6 nếu: b- tòa án nhận thấy: I – đối tượng của tranh chấp không thể giải
quyết được bằng trọng tài theo luật của quốc gia này.
12 Xem bài viết “Luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài trong trọng tài thương mại quốc tế”, Ts. Trần

Minh Ngọc, tạp chí Nghiên cứu Lập pháp,
/>
13


Nếu một bên không có năng lực kí thỏa thuận trọng tài, việc công nhận và thi hành quyết
định trọng tài có thể bị từ chối theo yêu cầu của bên phải thi hành quyết định. Nguyên
tắc này có trong Công ước New York về Công nhận và thi hành quyết định Trọng tài
nước ngoài năm 1985. 13
Vấn đề năng lực kí kết thỏa thuận trọng tài của một bên thường được đặt ra đối với các
quốc gia hoặc các cơ quan nhà nước đã ký hợp đồng quy định rằng các tranh chấp sẽ
được giải quyết bằng trọng tài. Trong khi ở nhiều nước, không hạn chế nhà nước hoặc
các cơ quan nhà nước ký thỏa thuận trọng tài, thì ở một số nước, quốc gia hoặc cơ quan
nhà nước bị cấm kí thỏa thuận trọng tài đối với những vấn đề trong nước hoặc họ chỉ có
thể làm như vậy với sự ủy quyền đặc biệt. Quyết định trọng tài có xu hướng duy trì
nguyên tắc một khi quốc gia đã ký thỏa thuận trọng tài thì quốc gia đó sẽ bị ngăn cản
đưa ra lập luận rằng quốc gia đó không có quyền làm như vậy.
Nguyên tắc cá thể nhân của Anh – Mĩ có quyền kí các thỏa thuận trọng tài có hiệu
lực trong hợp đồng quốc tế không còn bị tranh cãi ở đa số những nước châu Âu kể từ
kho nguyên tắc này được đưa vào Công ước Châu Âu về Trọng tài Thượng mại Quốc tế,
ký tại Geneva ngày 21-4-1961 dưới sự bảo trợ của Ủy ban Kinh tế Châu Âu của Liên

Hợp Quốc.

III – THỦ TỤC CHO PHÉP GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VỀ THẨM
QUYỀN:
Khi xuất hiện một sự phản đối thẩm quyền của trọng tài được đưa ra trước hội
đồng trọng tài, việc giải quyết phải theo một trình tự nhất định.
Đây là trường hợp một khiếu nại về thẩm quyền của trọng tài được gửi tới hội
đồng trọng tài khi hội đồng đang trong quá trình giải quyết vụ việc nhưng chưa đưa ra
13 Điều V 1a của Công ước quy định việc công nhận và thi hành quyết định trọng tài có thể bị từ chối,

theo yêu cầu của bên phải thi hành quyết định, nếu bên đó cung cấp chứng cứ cho cơ quan có thẩm quyền
nơi yêu cầu công nhận và thi hành quyết định trọng tài: các bên trong thỏa thuận (..) , theo luật áp dụng
không có đủ năng lực, hoặc thỏa thuận nói trên không có hiệu lực theo luật đó hoặc nếu không có chỉ ra
những luật đó thì theo luật của quốc gia nơi quyết định trọng tài được lập.

14


phán quyết cuối cùng. Khiếu nại về thẩm quyền trọng tài khá đa dạng, đó có thể là sự
viện dẫn về sự không rõ ràng trong lựa chọn toà án hay trọng tài của thoả thuận trọng tài,
hay lựa chọn một tổ chức trọng tài không có trên thực tế để xét xử tranh chấp v.v.. Để
xác định xem trọng tài có thẩm quyền không, lúc này cần phải căn cứ vào thoả thuận
trọng tài. Nhìn chung, trong trường hợp này, các trọng tài viên đều tôn trọng luật do các
bên thoả thuận lựa chọn điều chỉnh thoả thuận trọng tài để xác định tính hợp pháp của
thoả thuận trọng tài. Nếu các bên đã không có bất kỳ sự thoả thuận chọn luật nào như
vậy, thực tiễn trọng tài thường đi theo các hướng giải quyết khác nhau. Có ba hướng giải
quyết chính sau đây:
Thứ nhất, một số trọng tài viên đã đưa ra phán quyết rằng, nếu thiếu vắng sự chọn
luật của các bên, thoả thuận trọng tài sẽ được điều chỉnh bởi luật của nước nơi tiến hành
trọng tài (place of arbitration). Nguyên tắc này được thể hiện trong nhiều phán quyết của

toà án trọng tài thuộc Phòng thương mại và công nghiệp Bungari, nó cũng nhận được sự
đồng tình của các trọng tài viên thuộc Hiệp hội trọng tài Mỹ AAA. Trong vụ Baques
Centroamericanos v. Petroleo SA (1988), Hội đồng đã tuyên rằng: Luật Mỹ sẽ được áp
dụng để xem xét hiệu lực của thoả thuận trọng tài vì trọng tài đã được tiến hành tại New
York.
Thứ hai, một số trọng tài lại có quan điểm khác, theo họ, thoả thuận trọng tài được
điều chỉnh bởi luật áp dụng đối với nội dung tranh chấp. Phán quyết 5/9/1977 của Hội
đồng trọng tài thuộc Hiệp hội buôn bán dầu, chất béo và hạt chứa dầu Hà Lan ghi rõ:
“… luật áp dụng đối với nội dung tranh chấp cũng được áp dụng đối với việc xem xét
hiệu lực của điều khoản trọng tài.
Thứ ba, theo quan điểm khác, một số trọng tài lại tin tưởng vào các quy tắc trọng
tài của tổ chức trọng tài mà các bên đã lựa chọn để giải quyết tranh chấp. Họ cho rằng,
cần phải dựa vào những quy tắc này để điều chỉnh các vấn đề của thoả thuận trọng tài.
Vụ việc số 5486 năm 1989 do trọng tài ICC giải quyết là một tranh chấp phát sinh giữa
các bên liên doanh: một bên là công ty Bỉ và phía bên kia là công ty Tây Ban Nha về

15


hiệu lực của thoả thuận trọng tài. Toà án trọng tài ICC đã ra phán quyết về luật điều
chỉnh điều khoản trọng tài như sau: “Vì mục đích của tố tụng trọng tài, các bên đã thoả
thuận áp dụng các quy tắc trọng tài ICC… và việc làm như vậy, biến các quy tắc của
một tổ chức trọng tài quốc tế thành nguồn luật điều chỉnh thoả thuận trọng tài… do đó,
hiệu lực của điều khoản trọng tài phải được xác định dựa vào các quy tắc trọng tài
ICC.”14
IV - SƯ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ PHÁP LỆNH TRONG
TÀI THƯƠNG MẠI NĂM 2003 ĐẾN LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI NĂM
2010:
Ở các nước theo hệ thống luật án lệ hầu hết đều có Luật Trọng tài: Ví dụ: Mỹ có Luật
Trọng tài liên bang năm 1925, Anh có Luật Trọng tài năm 1959, 1975, 1979; Australia có

Luật liên bang về Trọng tài Thương mại quốc tế và các Luật Trọng tài của các bang, Braxin, Trung Quốc và rất nhiều các quốc gia khác ở các hệ thống pháp luật khác nhau từ lâu
đều đã có Luật Trọng tài. Ở các nước theo truyền thống luật dân sự, một số nước đưa các
quy định của pháp luật về Trọng tài vào trong Bộ luật Tố tụng Dân sự như Áo, Đức,
Pháp, Ý… Tuy nhiên có một số nước lại ban hành Luật Trọng tài riêng như Phần Lan,
Đan Mạch…
Nhìn chung, các nước trên thế giới đều quan niệm trọng tài là mô hình giải quyết tranh
chấp quan trọng. Tổng thư ký Tòa án Trọng tài Quốc tế (ICC) Jason Fry đã khẳng định
trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn có nhiều ưu thế, trong đó nổi bật
là tính nhanh gọn, bí mật và phán quyết của trọng tài là có giá trị chung thẩm… Ông
cũng nhấn mạnh thêm rằng: Đây là con đường mà các doanh nghiệp nước ngoài tin tưởng
và các doanh nghiệp Việt Nam cũng nên tin tưởng và lựa chọn. Đồng ý với quan điểm
đó, Giám đốc Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) khu vực châu Á cũng khuyến cáo: Trong
14 Xem bài viết “Luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài trong trọng tài thương mại quốc tế”, Ts. Trần

Minh Ngọc, tạp chí Nghiên cứu Lập pháp,
/>
16


điều kiện hiện nay, khi Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ làm ăn với các nước trên
thế giới, là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), một sân chơi mà vấn đề
tranh chấp thương mại diễn ra thường xuyên thì ngay từ lúc này, các doanh nghiệp Việt
Nam cần có một cái nhìn nghiêm túc về những ưu thế của trọng tài thương mại.
Khi xây dựng Luật Trọng tài, việc nghiên cứu tiếp thu kinh nghiệm nước ngoài, từ đó áp
dụng phù hợp với điều kiện hoàn cảnh hiện hành ở Việt Nam là nhân tố có vai trò quan
trọng. Trong việc nghiên cứu tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, điều quan trọng cần
nhấn mạnh là ảnh hưởng và mối quan hệ tương tác giữa pháp luật quốc gia với pháp luật,
thông lệ quốc tế và nhu cầu hội nhập về pháp luật. Một xu hướng đang trở thành phổ biến
trên thế giới là các nước tiếp thu có chọn lọc Luật Mẫu về Trọng tài Thương mại Quốc tế
của UNCITRAL làm cơ sở để xây dựng Luật về Trọng tài của quốc gia mình. Trong điều

kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, việc tiếp thu có chọn lọc Luật Mẫu của UNCITRAL
cũng là vấn đề cần thiết. Bên cạnh đó, cũng cần chú ý tới Luật Trọng tài của các nước có
điều kiện hoàn cảnh tương đồng Việt Nam với trường hợp điển hình là Luật Trọng tài
Trung Quốc, các nước có nền kinh tế và pháp luật về trọng tài phát triển như Anh,
Xingapo, Cộng hòa Liên bang Đức…
Để nâng cao hiệu quả của hoạt động trọng tài như một hình thức có nhiều ưu điểm trong
hệ thống các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn, đặc biệt là trong điều kiện thực
thi cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới, thì việc xây
dựng và ban hành Luật Trọng tài là một yêu cầu khách quan. Sự ra đời của Luật Trọng tài
góp phần tạo niềm tin cho các cá nhân, tổ chức đối với trọng tài, là cơ sở để các cá nhân,
tổ chức tự tin hơn khi đến với các tổ chức trọng tài.
So với Pháp lệnh Trọng tài Thương mại năm 2003, Luật Trọng tài thương mại năm 2010
đã có những điểm mới sau đây:15

15 Xem bài viết “Những điểm mới cơ bản của luật trọng tài thương mại”, Hà Phương
/>
17


1. Luật Trọng tài thương mại đã khắc phục những tồn tại của Pháp lệnh Trọng
tài thương mại năm 2003 (Pháp lệnh TTTM): khắc phục việc phân định không rõ ràng
phạm vi thẩm quyền của Trọng tài đối với các tranh chấp thương mại, trên cơ sở đó bảo
đảm sự tương thích giữa các văn bản pháp luật hiện hành như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố
tụng dân sự, Luật Thương mại, Luật Đầu tư và các luật chuyên ngành khác với Luật
Trọng tài thương mại (Luật TTTM). Luật TTTM đã dỡ bỏ hạn chế của Pháp lệnh TTTM
về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thương mại của Trọng tài thông qua việcmở
rộng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài tới nhiều loại tranh chấp liên quan đến quyền và
lợi ích của các bên (Điều 2 Luật TTTM). Đây là một trong những điểm mới quan trọng
nhất của Luật TTTM so với Pháp lệnh TTTM và hoàn toàn phù hợp với thực tiễn sử dụng
Trọng tài của các nước trên thế giới.

2. Khắc phục sự không rõ ràng của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 về
các tình huống có thể làm vô hiệu thoả thuận trọng tài. Điều 18 của Luật TTTM giới hạn
6 tình huống theo đó thoả thuận trọng tài vô hiệu. Đặc biệt, còn có quy định trường hợp
thỏa thuận trọng tài không rõ ràng thì bên khởi kiện (nguyên đơn) có quyền được tự do
lựa chọn tổ chức trọng tài thích hợp để khởi kiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Với quy định này sẽ ngăn chặn và giảm bớt tình trạng thỏa thuận trọng tài bị
vô hiệu hoặc tình trạng không có cơ quan nào giải quyết tranh chấp.
3. Luật TTTM có quy định tại Điều 17 nhằm bảo vệ người tiêu dùng trong việc lựa
chọn phương thức giải quyết tranh chấp.
Đối với các tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng,
mặc dù điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp
hàng hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn thỏa thuận trọng tài thì người tiêu dùng vẫn
được quyền lựa chọn Trọng tài hoặc Tòa án để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng
hóa, dịch vụ chỉ được quyền khởi kiện tại Trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận.
Quy định này dựa trên một thực tế là thông thường người tiêu dùng bị đặt ở một vị
thế có nhiều nguy cơ bị lạm dụng bởi các điều kiện và điều khoản trong hợp đồng in sẵn

18


của người bán hàng hoặc người cung cấp dịch vụ, do vậy cần có quy định bảo vệ họ trong
các tình huống cần thiết.
4. Kế thừa Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, Điều 20 Luật TTTM có các
quy định về tiêu chuẩn tối thiểu đối với Trọng tài viên nhằm hình thành ở nước ta một
đội ngũ trọng tài viên nòng cốt có năng lực, có tính chuyên nghiệp, có chuyên môn và uy
tín xã hội. Theo đó, cá nhân có năng lực hành vi dân sự, có trình độ đại học trở lên và đã
qua thực tế công tác từ năm năm trở lên có thể là trọng tài viên. Đặc biệt, Luật dành cho
các Trung tâm trọng tài quyền được đưa ra các tiêu chuẩn cao hơn đối với các Trọng tài
viên trong danh sách của mình. Tuy nhiên, về nguyên tắc, Trọng tài viên trong trường
hợp vụ tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm trọng tài hoặc do Trọng tài vụ việc giải

quyết đều do các bên đương sự tự lựa chọn dựa trên niềm tin của họ vào tính chuyên
nghiệp, kiến thức chuyên môn, uy tín của cá nhân đó và trong trường hợp đó thì nhà
chuyên môn nào cũng có thể được các bên chọn làm Trọng tài cho vụ việc của họ. Đó là
quá trình sàng lọc mang tính xã hội.
Khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, Luật
Trọng tài thương mại không yêu cầu Trọng tài viên phải có quốc tịch Việt Nam. Điều đó
có nghĩa là người nước ngoài cũng có thể được chỉ định làm trọng tài viên ở Việt Nam
nếu các bên tranh chấp hoặc tổ chức trọng tài tín nhiệm họ. Quy định này đáp ứng nhu
cầu thực tế trong giai đoạn Việt Nam tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế.
5. Về trọng tài quy chế, so với Pháp lệnh TTTM, Luật TTTM bổ sung một số điểm
mới sau đây:
Thứ nhất, Luật đã đưa ra định nghĩa pháp lý về Trọng tài quy chế để thay cho khái
niệm “Hội đồng trọng tài được thành lập tại Trung tâm trọng tài” do Pháp lệnh năm 2003
quy định. Theo đó, Trọng tài quy chế là hình thức trọng tài được tiến hành tại Trung tâm
trọng tài và theo quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài (khoản 6 Điều 3 Luật TTTM).

19


Thứ hai, Luật cho phép các Trung tâm trọng tài được ban hành quy tắc tố tụng
trọng tài phù hợp với quy định của Luật và đảm bảo đặc thù của mỗi Trung tâm để tăng
thêm tính hấp dẫn đối với các bên tranh chấp.
6. Cho phép các tổ chức trọng tài nước ngoài được mở chi nhánh, văn phòng đại
diện tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên (Chương XII với 07 Điều).
7. Nâng cao vị thế của Trọng tài thông qua việc cho phép Hội đồng Trọng tài
được thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng, áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm
thời (Điều 47, 48, 49 và 50). Quy định của Luật đã tiếp thu quy định của Luật mẫu
UNCITRAL được thông qua năm 2006 nhằm giúp cho tố tụng trọng tài vận hành có hiệu
quả hơn.

8. Hạn chế nguy cơ phán quyết của Trọng tài bị Tòa án tuyên hủy bởi quy định
không phù hợp của Pháp lệnh TTTM như quy định về quyền của một bên được gửi đơn
lên Toà án yêu cầu huỷ quyết định trọng tài nếu “không đồng ý với quyết định trọng tài”,
bởi vì các quy định này của Pháp lệnh đã làm cho tố tụng trọng tài trở nên rất rủi ro và
làm mất đi tính chung thẩm của phán quyết trọng tài mà pháp luật của hầu hết các nước
đều công nhận.
9. Luật TTTM là đã tiếp thu nguyên tắc cấm hành vi mâu thuẫn trong tố tụng là
nguyên tắc rất quan trọng đã hình thành lâu đời trong pháp luật tố tụng của các nước
phát triển. Quy định mới của Luật (Điều 13) xác định, khi một bên nhận thấy những quy
định của Luật hoặc của thoả thuận trọng tài bị vi phạm mà vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng
trọng tài và không phản đối vi phạm đó trong thời hạn luật định thì mất quyền phản đối
tại Trọng tài hoặc Toà án. Quy định này nhằm ngăn chặn một cách có hiệu quả các hành
vi cơ hội trong tố tụng trọng tài.
10. Một trong những điểm quan trọng nhất của Luật TTTM là thể hiện rõ nét mối
quan hệ giữa Trọng tài với Toà án trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ tranh chấp của
các bên. Luật đã đưa ra một loạt các quy định mới nhằm xác định mối quan hệ pháp lý

20


quan trọng này: xác định rõ Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài và liệt kê 8
nội dung thẩm quyền của Toà án trong quan hệ với Trọng tài bao gồm: thu thập chứng
cứ, lưu giữ chứng cứ; đăng ký phán quyết trọng tài; tuyên thoả thuận trọng tài vô hiệu;
xác định thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; giải quyết và yêu cầu huỷ phán quyết trọng
tài; bảo đảm sự có mặt của người làm chứng; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; chỉ
định, thay đổi trọng tài viên. Quy định tại các điều luật khác liên quan đã cụ thể hoá nội
dung những thẩm quyền này của Toà án. Quy định này đã khắc phục được những bất cập
của Pháp lệnh TTTM, tạo điều kiện để các Tòa án và Hội đồng trọng tài cũng như các
bên tranh chấp tránh được lúng túng trong các trường hợp cụ thể, góp phần tạo điều kiện
thuận lợi để trọng tài hoạt động có hiệu quả.

11. Quy định phù hợp hơn về thủ tục Tòa án xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng
tài
Khác với Pháp lệnh TTTM, thủ tục tòa án xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng
tài theo Luật TTTM chỉ có một cấp và có giá trị chung thẩm. Luật quy định một Hội
đồng gồm 03 thẩm phán xem xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài và quyết định của
Hội đồng là chung thẩm có hiệu lực thi hành ngay là phù hợp (Điều 71).
12. Nhằm khuyến khích hoạt động của các tổ chức trọng tài, tạo điều kiện cho các
Trọng tài viên nâng cao trình độ nghiệp vụ trọng tài, bảo vệ các quyền và thực hiện tốt
nghĩa vụ, Luật TTTM có 01 điều quy định về việc thành lập Hiệp hội trọng tài. Hiệp hội
trọng tài là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Trọng tài viên và các Trung tâm trọng tài.
Việc thành lập và hoạt động của Hiệp hội trọng tài được thực hiện theo quy định của
pháp luật về hội nghề nghiệp (Điều 22 Luật TTTM)

21


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật trọng tài Thương mại Việt Nam năm 2010
2. Luật mẫu UNCITRAL về Trong tài Thương mại quốc tế năm 1985
3. Công ước New York năm 1958 về Công nhận và thi hành quyết định của Trọng

tài
4. Nguyễn Bá Diến (chủ biên), Giáo trình Luật thương mại quốc tế, Khoa Luật Đại

học quốc gia Hà Nội, NXB. Đại học quốc gia Hà Nội, 2005
5. Trọng tài và phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn, Trung tâm Thương Mại

quốc tế Việt Nam, Bộ sách về Luật Thương Mại, NXB Tài Chính năm 2008
6. 500 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc, Trung tạm trọng tài Quốc tế Việt Nam,


NXB Chính Trị Quốc Gia, năm 2002
7.

“Luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài trong trọng tài thương mại quốc tế”, Ts.
Trần Minh Ngọc, tạp chí Nghiên cứu Lập pháp,
/>_te.html

8. “Giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế và yêu cầu cải cách hoạt động

của các cơ quan tài phán – thực tiễn gioải quyết tranh chấp bằng trọng tài”, TS. Lê
Nết

22


/>9. Những nội dung cơ bản của Luật Trọng tài thương mại năm 2010,

/>10. Trọng tài – phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án của Tây Ban Nha,

Đặng Hoàng Oanh
/>11. Về cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong Hiệp định Việt – Mỹ , Lê Thị

Thu Hương
/>12. “Những điểm mới cơ bản của luật trọng tài thương mại”, Hà Phương

/>ItemID=2775

23




×