Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Đề bài: Một số vấn đề về giao dịch dân sự có điều kiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.2 KB, 19 trang )

Bài tập học kì
Đề bài: Một số vấn đề về giao dịch dân sự có điều kiện
BÀI LÀM

I. Khái niệm giao dịch dân sự (GDDS) có điều kiện
1. Khái niệm về GDDS
“Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lí đơn phương làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” [Điều 121 Bộ luật
Dân sự (BLDS) năm 2005].
Trong GDDS có ý chí và thể hiện ý chí của chủ thể tham gia giao dịch.
Ý chí phải được thê hiện ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định để các
chủ thể khác có thể biết được ý chí của chủ thể muốn tham gia đã tham gia
vào một GDDS cụ thể. Bởi vậy, GDDS là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ
ý chí.
Mục đích của GDDS là hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi
xác lập giao dịch. Mục đích pháp lý (mong muốn) đó sẽ trở thành hiện thực ,
nếu như các bên trong giao dịch thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo qui
định của pháp luật.
GDDS là căn cứ phổ biến, thông dụng nhất trong các căn cứ làm phát
sinh, thay đổi và chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự; là phương tiện quan
trọng nhất trong giao dịch dân sự, trong việc di chuyển tài sản và cung ứng
dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của tất cả các thành viên trong
xã hội. Trong nền sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường , thông qua
GDDS (hợp đồng), các chủ thể đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh các nhu
cầu khác trong đời sống hàng ngày của mình.
2. Khái niệm về GDDS có điều kiện


Điều kiện để các bên thực hiện GDDS khi các bên thỏa thuận cùng
nhau xác lập một GDDS là khá phổ biến. Khi các bên xác lập GDDS với
nhau thì điều kiện đó chưa phát sinh, nhưng nó sẽ phát sinh sau một khoảng


thời gian hoặc phụ thuộc vào một sự kiện nhất định. Loại điều kiện này đã
tồn tại, ngày càng phát triển và có ý nghĩa pháp lý trong các GDDS; nhưng
trước ngày ban hành BLDS năm 1995 thì chưa có một văn bản pháp luật nào
qui định về vấn đề này. Trên thực tế, có những trường hợp trong quá trình đi
đến xác lập GDDS các bên thường thỏa thuận điều kiện đi kèm nhằm phát
sinh, thay đổi hay hủy bỏ GDDS đó. Ví dụ: công ty A sẽ thưởng 10 triệu
đồng cho vận động viên nào tham dự giải quần vợt do tỉnh B tổ chức, với
điều kiện vận động viên đi giày và dùng vợt có mang nhãn hiệu của công ty
A; ở ví dụ này, chúng ta thấy điều kiện vận động viên thi đấu bằng vợt và đi
giày có mang nhãn hiệu của công ty A sẽ phát sinh quyền được hưởng 10
triệu đồng, công ty A có nghĩa vụ chuyển 10 triệu đồng cho vận động viên
nào đi giày và dùng vợt mang nhãn hiệu của công ty A.
Pháp luật dân sự trước ngày BLDS năm 1995 có hiệu lực thi hành
không qui định cụ thể về GDDS có điều kiện, mà coi điều kiện trong giao
dịch như một hợp đồng của hợp đồng khác (làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
hợp đồng khác). Mặt khác, các tranh chấp về điều kiện trong giao dịch ít xảy
ra, bởi nó thường được thỏa thuận bằng miệng, qui định về điều kiện trong
nội dung văn bản hợp đồng ít thấy. GDDS có điều kiện cũng là dạng thể hiện
ý chí của các bên khi xác lập nó, nhằm phát sinh, thay đổi, chấm dứt một
GDDS với mục đích duy trì, thúc đẩy giao dịch ở trạng thái ổn định trong
tương lai gần, trong khuôn khổ do pháp luật qui định. Điều 125 BLDS qui
định: “Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc
hủy bỏ GDDS thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc
hủy bỏ”

2


Như vậy, ta có thể hiểu, GDDS có điều kiện là những giao dịch mà sự
phát sinh, thay đổi hay chấm dứt hiệu lực của nó phụ thuộc vào các điều kiện

mà một trong các bên xác lập GDDS đó đã đưa ra khi xác lập giao dịch
(hành vi pháp lí đơn phương hoặc hợp đồng); như vậy, đây là những GDDS
đã được xác lập nhưng nó chỉ phát sinh hiệu lực hoặc hủy bỏ khi có những
điều kiện nhất định xảy ra.

II. Một số vấn đề về GDDS có điều kiện
1. Đặc điểm của GDDS có điều kiện


Sự kiện được coi là điều kiện của giao dịch do chính người xác

lập giao dịch định ra (trong hợp đồng thì điều kiện đó do chính các bên thỏa
thuận). Trên thực tế. chúng ta thấy có các loại điều kiện sau:
- Điều kiện do một bên thực hiện, VD: A sẽ thực hiện hợp đồng mua
bán nhà của B với giá thỏa thuận nếu A bán được nhà của mình trong hạn 6
tháng . Như vậy A có nghĩa vụ thực hiện điều kiện bằng hành vi của chính
mình không phụ thuộc vào hành vi của B.
- Điều kiện do hai bên cùng thực hiện. VD: A sẽ thực hiện hợp đồng
thuê B lái ô tô với điều kiện A mua được ô tô và B học xong và được cấp
giấy phép lái xe ô tô. Ở ví dụ này, A có nghĩa vụ mua ô tô và B có nghĩa vụ
học và thi đỗ lấy được bằng lái xe.
- Điều kiện có thể là sự biến (trở ngại khách quan) do các bên thỏa
thuận trước. VD: A và B thỏa thuận nếu mưa bão từ cấp 6 trở lên sẽ đình chỉ
thực hiện hợp đồng vận chuyển hàng hóa.


Sự kiện được coi là điều kiện của giao dịch phải là sự kiện thuộc

về tương lai. Sự kiện đó là sự kiện khách quan, xảy ra hay không xảy ra
không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các chủ thể trong GDDS và mang

tính không ổn định. Nếu trong trường hợp, sự kiện được coi là điều kiện đó
xảy ra không khách quan, hay nói cách khác, nó xảy ra do có sự tác động

3


theo ý chí của các chủ thể mà lại trái với ý chí của chủ thể khác trong GDDS
đó, và sự tác động đó làm ảnh hưởng sự phát sinh hoặc hủy bỏ sự kiện được
coi là điều kiện đó thì cũng đã vi phạm nguyên tắc tự do ý chí trong một
GDDS. Khi điều kiện trong GDDS có điều kiện xảy ra trên thực tế sẽ làm
phát sinh các quyền và nghĩa vụ của các bên, và rất nhiều trường hợp nghĩa
vụ của đương sự trong giao dịch đó trở thành điều kiện trong GDDS có điều
kiện; tuy nhiên có một yếu tố căn bản của nghĩa vụ không thể được dùng làm
điều kiện được: chẳng hạn, một sự mua bán dưới điều kiện là người mua phải
trả tiền thì không phải là một sự mua bán có điều kiện mà là một sự mua bán
bình thường, bởi vì, việc trả tiền là một yếu tố của sự mua bán. Trái lại, ví dụ
một giao dịch mua bán bất động sản nào đó dưới điều kiện là người mua phải
kết hôn với người bán hoặc với ai đó theo ý của người bán thì sự mua bán
này có điều kiện; tuy nhiên, điều kiện đặt ra ở đây lại xảy ra không khách
quan, có thể trái với ý chí của chủ thể trong GDDS này.


Điều kiện do các bên xác lập trong GDDS phải tạo ra khả năng

nhất định (ở tương lai) có thể xảy ra hoặc các bên có thể thực hiện được. Có
nghĩa là về ý chí, các bên khi thỏa thuận tin rằng điều kiện nêu ra là thực tế,
sẽ xảy ra và vì vậy GDDS được xác lập sẽ phát sinh hoặc hủy bỏ. Điều kiện
không thể thực hiện được khi sự kiện được coi là điều kiện để GDDS phát
sinh, hủy bỏ đó không thể xảy ra được trên thực tế. VD: A bán cho B căn nhà
nếu A mua được căn nhà trên hành tinh mặt trời, điều kiện của giao dịch giữa

A và B là không thể có khả năng thực hiện được và sự kiện mua căn nhà trên
mặt trời cũng không thể xảy ra được trên thực tế, do đó điều kiện này không
phải là điều kiện được công nhận trong GDDS và sự vô hiệu của điều kiện
cũng làm cho GDDS đó cũng trở thành vô hiệu.


Để một GDDS có điều kiện có hiệu lực, các yêu cầu về GDDS

thông thường cũng phải được bảo đảm. Có nghĩa là, muốn thiết lập một
GDDS có điều kiện trên thực tế thì trước tiên đòi hỏi phải đáp ứng các yêu

4


cầu về một GDDS có hiệu lực (các điều kiện được qui định tại Điều 122
BLDS), như:
- Các bên khi tham gia GDDS có điều kiện phải có năng lực hành vi
dân sự. Bởi vì, bản chất của GDDS là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí
của chủ thể tham gia giao dịch. Chỉ những người có năng lực hành vi mới có
ý chí riêng và nhận thức được hành vi của họ để có thể tự mình xác lập, thực
hiện các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch, tự chịu trách nhiệm trong
giao dịch. Cho nên, GDDS có điều kiện do cá nhân xác lập cũng chỉ có hiệu
lực nếu phù hợp với mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân (từ Điều 17
đến Điều 23 BLDS). Đối với các chủ thể khác (pháp nhân, hộ gia đình, tổ
hợp tác) tham gia vào GDDS thông qua đại diện của họ (đại diện theo pháp
luật, theo ủy quyền); người đại diện xác lập GDDS có điều kiện ở đây làm
phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác trong phạm
vi nhiệm vụ của chủ thể đó được điều lệ hoặc pháp luật qui định.
- Mục đích và nội dung của GDDS có điều kiện phải hợp pháp, nghĩa
là điều kiện đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái với đạo đức

xã hội. Chỉ những điều kiện các bên đưa ra để xác lập GDDS mà không vi
phạm điều cấm của pháp luật (là những qui định của pháp luật không cho
phép chủ thể thực hiện hành vi nhất định), không trái đạo đức xã hội (những
chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được
cộng đồng thừa nhận và tôn trọng) thì mới được chấp nhận về mặt pháp lí, và
mới là đối tượng của GDDS. Chẳng hạn, không thể thỏa thuận điều kiện với
một người thực hiện hành vi trái pháp luật như mua bán thuốc phiện hay giết
người thì mới bán cho xe máy; hoặc A bán nhà cho B nếu B chịu chứa gái
mại dâm ở đó…
- Người tham GDDS có điều kiện hoàn toàn tự nguyện; có nghĩa là
điều kiện để giao dịch được phát sinh hay hủy bỏ phải thể hiện ý chí đích
thực của chủ thể. Các bên hoàn toàn tự do, tự nguyện lựa chọn, thảo luận

5


không những nội dung của GDDS mà còn cả về điều kiện kèm theo. Nếu một
bên bị lừa dối
- Hình thức của GDDS có điều kiện phải phù hợp với qui định của
pháp luật về hình thức của GDDS. Chẳng hạn, các GDDS bắt buộc phải được
lập thành văn bản như mua bán nhà, chuyển quyền sư dụng đất…thì khi trong
các giao dịch này có chứa các điều kiện để làm phát sinh hay hủy bỏ GDDS
cũng đòi hỏi phải có Công chứng chứng nhận, UBND cấp có thẩm quyền
chứng thực.
Ngoài các yêu cầu trên, GDDS có điều kiện còn phải bao gồm hai
nội dung cấu thành: + Phần GDDS, đó là nội dung của GDDS thông thường
do các bên xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự (hợp đồng mua, bán, tặng,
cho…)
+ Phần điều kiện nhằm làm phát sinh, thay đổi hay hủy bỏ GDDS.
Hai phần này có mối liên hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau

trong một GDDS có điều kiện cụ thể, nhưng chúng không quyết định nội
dung của nhau mà phần điều kiện chỉ nhằm làm cho giao dịch phát sinh hay
hủy bỏ và giao dịch được phát sinh hay hủy bỏ do điều kiện đó xảy ra hay
không.
Để hiểu rõ hơn nữa điều kiện của GDDS có điều kiện ta có thể nhìn
nhận điều kiện trong GDDS có điều kiện theo cách đặt nó bên cạnh điều kiện
có hiệu lực của GDDS để nhận biết bản chất, bởi cả hai hình thức đều nhằm
tạo ra sự ổn định, chắc chắn của GDDS; tuy nhiên giữa chúng có những điểm
khác nhau cơ bản về bản chất như sau:

Điều kiện trong GDDS

Điều kiện có hiệu lực của GDDS

có điều kiện
6


Về ý chí cho phép chủ thể

Bắt buộc chủ thể phải tuân

có thể lựa chọn điều kiện

theo khi xác lập GDDS.

đối với GDDS
Chủ thể tự do lựa chọn các
điều kiện để cho phép


Bắt buộc phải có các điều

GDDS phát sinh, thay đổi hay

Kiện qui định sẵn bởi pháp luật

hủy bỏ

GDDS có thể phát sinh, hủy bỏ
nếu điều kiện xảy ra và ngược lại khi
điều kiện xảy ra GDDS không phát

hiện phụ thuộc vào điều kiện và khi vi
phạm điều kiện thì hậu quả háp lí là
quyền và nghĩa vụ các các bên không

sinh hoặc hủy bỏ (ở đây thể

phát sinh kể từ thời điểm giao dịch xác

hiện mặt hình thức, bên ngoài

lập (thể hiện mặt nội dung, bên trong

của GDDS)



GDDS được xác lập, thực


của GDDS).

Điều kiện trong GDDS phụ thuộc vào các bên khi đặt ra điều

kiện đó. Về nguyên tắc, các bên phải có nghĩa vụ thực hiện điều kiện nhằm
làm phát sinh hay hủy bỏ GDDS, nhưng nghĩa vụ về điều kiện trong GDDS
có điều kiện không phải là nghĩa vụ của GDDS bởi điều kiện trong GDDS có
điều kiện là yếu tố bên ngoài, không phụ thuộc vào nội dung bên trong của
GDDS; tuy nó có điểm chung là do các bên thỏa thuận xác lập, vì vậy, ta có
thể phân biệt nghĩa vụ về điều kiện và nghĩa vụ như sau:

Nghĩa vụ về điều kiện trong GDDS

Nghĩa vụ về dân sự trong trong

có điều kiện

GDDS

7


Thực hiện nghĩa vụ làm phát sinh,

Thực hiện nghĩa vụ làm phát sinh,

hủy bỏ GDDS

thay đổi, chấm dứt GDDS


Nằm ngoài nội dung của GDDS

Nằm trong nội dung của GDDS

cụ thể
Thực hiện nghĩa vụ về điều kiện vì

Thực hiện nghĩa vụ vì lợi ích bên

lợi ích của các bên

có quyền

Không gắn trách nhiệm pháp lí khi
điều kiện xảy ra hoặc xảy ra ngoài ý
muốn của các bên thì phải bồi

Gắn trách nhiệm pháp lí và bồi
thường thiệt hại do không thực
hiện nghĩa vụ

thường thiệt hại

2. Phân loại GDDS có điều kiện theo pháp luật hiện hành
Tại khoản 1 điều 125 BLDS năm 2005 qui định: “Trong trường hợp
các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự
thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ”.
Như vậy, căn cứ vào qui định trên, chúng ta có hai loại GDDS có điều
kiện:
- GDDS xác lập với điều kiện phát sinh: là những GDDS đã được

xác lập nhưng nó chỉ phát sinh hiệu lực khi có những điêu kiện nhất định xảy
ra. VD: A và B ký một hợp đồng tặng cho. Theo hợp đồng này, A sẽ tặng B
một chiếc máy tính xách tay trị giá 20 triệu đồng nếu B dành được suất học
bỗng của trường Đại học Xây dựng để đi du học nước ngoài. Như vậy, ở đây
việc B dành được học bỗng để đi du học nước ngoài là điều kiện cần thiết để
hợp đồng A đã ký với B có hiệu lực (phát sinh hiệu lực).
- GDDS xác lập với điều kiện hủy bỏ: đó là những giao dịch dân
sự đã được xác lập và đã phát sinh hiệu lực nhưng khi có những điều kiện
8


nhất định xảy ra thì GDDS đó sẽ bị hủy bỏ, quyền và nghĩa vụ của các bên
tham gia vào GDDS đó sẽ chấm dứt.
VD: H và N ký một hợp đồng cung ứng quần áo đồng phục cho
công nhân làm việc tại công ty của N, theo hợp đồng này H sẽ giao cho N
1000 bộ quần áo đồng phục của công nhân với những chất liệu, kích cỡ, màu
sắc và thời gian mà H và N đã thỏa thuận với nhau. Ngoài những thỏa thuận
kể trên, H và N còn thỏa thuận nếu H vi phạm một trong những điều kiện về
chất liệu, kích cỡ, màu sắc và thời gian thì hợp đồng mà H và N ký kết sẽ bị
hủy bỏ. Như vậy, sự vi phạm của H về một trong các điều kiện về chất liệu,
kích cỡ, màu sắc và thời gian chính là điều kiện để hủy bỏ GDDS mà H và N
đã xác lập.
Ngoài ra, nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ
thể trong GDDS cũng như đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên, BLDS năm
2005, tại khoản 2 Điều 125 qui định: “Trong trường hợp điều kiện làm phát
sinh hoặc hủy bỏ GDDS không thể xảy ra được do hành vi cố ý cản trở của
một bên hoặc của người thứ ba thì coi như điều kiện đó đã xảy ra; nếu có sự
tác động của một bên hoặc của người thứ ba cố ý thúc đẩy cho điều kiện để
làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự xảy ra thì coi như điều kiện đó
không xảy ra”.

Trên thực tế, có những trường hợp các bên chủ thể xác lập GDDS với
điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ; nhưng lại vì một bên có mục đích, động
cơ không trong sáng hay một người thứ ba nào đó có thể vì liên quan đến lợi
ích của mình hoặc cũng vì tình cờ, đã có hành vi cố ý cản trở hoặc thúc đẩy,
nhằm làm cho điều kiện đó không xảy ra hoặc có hành vi thúc đẩy cho điều
kiện đó xảy ra để làm phát sinh hoặc hủy bỏ GDDS mà các bên đã tiến hành
xác lập. Căn cứ vào qui định trên, chúng ta có thể phân thành các trường hợp
như sau:
- Điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ GDDS không thể xảy ra được
do hành vi cố ý cản trở của một bên thì coi như điều kiện đó đã xảy ra. VD: A
9


và B ký với nhau một hợp đồng mua bán, theo hợp đồng này thì A sẽ bán cho
B con bò của A với giá 6000.000 đ nếu sau 1 tháng A không bán được con bò
này cho ai với giá cao hơn mức giá mà A với B thỏa thuận trong hợp đồng,
còn có người mua với mức giá cao hơn mức giá trê thì A sẽ bán cho người đó
và hủy bỏ hợp đồng với B. 3 ngày sau, có anh C đến hỏi mua con bò với mức
giá 6.500.000đ, nhưng ngày hôm sau khi C đến giao tiền thì B đã chủ động
gặp C trước, bịa đặt rằng con bò của A bị bệnh tụ huyết trùng và một số bệnh
khác. Do đó C đến đòi thỏa thuận lại mức giá dưới 6000.000 đ. A không chấp
nhận. Như vậy, điều kiện làm hủy bỏ GDDS giữa A và B (nếu A bán được
con bò của mình với mức giá trên 6 triệu đồng cho người khác sau 1 tháng)
đã không thể xảy ra do B đã có hành vi cố ý cản trở điều kiện đó xảy ra.
Trong trường hợp này khi có tranh chấp trước pháp luật thì coi như điều kiện
đó đã xảy ra, và GDDS giữa A và B sẽ bị hủy bỏ.
- Điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ GDDS không thể xảy ra được
do hành vi cản trở của người thứ ba thì coi như điều kiện đó đã xảy ra. VD:
Ông A, giám đốc một công ty, và B (là con trai của ông A, và là phó giám
đốc công ty) ký một hợp đồng tặng cho, theo đó ông A sẽ cho B căn biệt thự

mà C (anh trai ruột của B) đang tạm ở, còn C sẽ được cho một căn nhà khác;
với điều kiện B hoàn thành được nhiệm vụ ký một hợp đồng làm ăn với công
ty H mà ông A giao cho. Do sợ sau khi B hoàn thành nhiệm vụ thì căn biệt
thự sẽ không thuộc về mình nên C đã chủ động gặp đại diện công ty H và bịa
đặt những thông tin không tốt về B và cả công ty của ông A để làm cho B
không thực hiện được việc ký hợp đồng với công ty H. Như vậy, C là người
thứ ba (có lợi ích liên quan) đã có hành vi cản trở việc C hoàn thành nhiệm
vụ ký hợp đồng với công ty H mà ông A giao phó (là điều kiện để hợp đồng
tặng cho giữa ông A và B phát sinh hiệu lực), do đó trong trường hợp này,
nếu xảy ra tranh chấp trước pháp luật thì điều kiện để hợp đồng tặng cho giữa
ông A và B phát sinh hiệu lực vẫn coi như đã xảy ra (nghĩa là B vẫn phải
được tặng căn biệt thự theo như trong hợp đồng).
10


- Điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ GDDS xảy ra do có sự tác động
của một bên thúc đẩy cho nó xảy ra thì coi như điều kiện đó không xảy ra.
VD: Đại diện của chính quyền huyện A và công ty B ký hợp đồng cung ứng
nguyên liệu; theo đó chính quyền huyện A sẽ vận động nhân dân trong địa
phương đó thu hoạch sắn thời vụ để nhập cho công ty B hơn 5000 tấn sắn
nguyên liệu với giá thị trường, nếu sau khi lãnh đạo tỉnh cử chuyên gia về
kiểm tra, khảo sát qui trình sản xuất và công nghệ xử lí nước thải của công ty
đạt tiêu chuẩn. Do đang cần nguyên liệu để duy trì hoạt động chế biến tinh
bột sắn của nhà máy, mà nước thải của nhà máy thì toàn bộ đổ ra sông khu
vực người dân sinh sống đều chưa qua xử lí, sợ chính quyền địa phương
không ký hợp đồng nên công ty B đã hối lộ đoàn chuyên gia về kiểm tra.
Đoàn kiểm tra đã không báo cáo kết quả kiểm tra đúng như thực tế. Công ty
B được cung ứng nguyên liệu theo như hợp đồng. Trong trường hợp này, nếu
sau đó có phát hiện (hoặc có đơn khiếu nại, tố cáo của người dân sinh sống
quanh khu vực con sông có nước thải nhà máy đổ ra) thì hợp đồng đã ký kết

giữa công ty B và chính quyền huyện A sẽ bị vô hiệu, buộc công ty B phải
dừng hoạt động sản xuất và bồi thường mọi thiệt hại (tất nhiên các chủ thể
khác có liên quan cũng sẽ bị xử lí theo pháp luật).
- Điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ GDDS xảy ra do có sự tác động
của người thứ ba thì coi như điều kiện đó không xảy ra. VD: Công ty D và
công ty H ký hợp đồng mua bán, theo đó công ty D sẽ mua lại số máy móc
mà công ty H vừa nhập khẩu từ Nhật Bản về nếu kể từ ngày ký kết hợp đồng
cho đến ngày bàn giao máy móc số máy móc của công ty D có hỏng hóc và
cần phải thay thế. Do đang cần bán gấp số máy móc trên nên công ty H đã
thông đồng với các công nhân đứng máy của công ty D, làm cho số máy móc
đó bị hư hỏng trước ngày hết thời hạn hợp đồng. Trong trường hợp này, nếu
có phát hiện, thì hợp đồng mua bán giữa công ty D và công ty H sẽ bị vô hiệu
trước pháp luật; buộc các chủ thể liên quan đền bù thiệt hại (tất nhiên các cá
nhân có liên quan còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự).
11


3. Mối tương quan giữa GDDS có điều kiện với hành vi pháp lí đơn
phương (hứa thưởng, thi có giải) và hợp đồng dân sự có điều kiện
Trong các phần trên, các ví dụ đưa ra đều rơi vào hai trường hợp, đó là
GDDS thể hiện dưới hình thức hành vi pháp lí đơn phương (hứa thưởng) và
dưới hình thức hợp đồng có điều kiện. Vậy, giữa GDDS có điều kiện và hành
vi pháp lí đơn phương hẵn phải có một mối liên hệ nào đó với hợp đồng dân
sự có điều kiện, mà ở đây em xin được gọi là “mối tương quan” giữa chúng.
Hành vi pháp lí đơn phương mà chúng ta đang muốn nói tới ở đây chỉ
có thể là trường hợp hành vi pháp lí đơn phương phát sinh hậu quả pháp lí
khi có người khác đáp ứng được những điều kiện nhất định do người xác lập
giao dịch đưa ra; những người này phải đáp ứng được các điều kiện đó mới
làm phát sinh nghĩa vụ của người xác lập giao dịch, đó là các trường hợp hứa
thưởng, thi có giải.

Thế nào là hứa thưởng và thế nào là thi có giải? Chúng ta hiểu như sau:
Hứa thưởng là một sự cam kết đơn phương của một người hay của một
pháp nhân sẽ trả một phần thưởng bằng tiền hoặc bằng hiện vật cho ai thực
hiện được một công việc nào đó. Khoản 2 Điều 590 BLDS 2005 qui định:
“Công việc hứa thưởng phải cụ thể, có thể thực hiện được, không bị pháp
luật cấm, không trái đạo đức xã hội”. Về thi có giải, “thi” là một sự tranh đua
trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, thể thao, khoa học, kỷ thuật…Mục
đích của một cuộc thi bao giờ cũng có yếu tố giải thưởng; do đó các cuộc thi
để lấy bằng cấp hay học vị trong các chương trình Giáo dục đào tạo không
được coi là thi có giải; trái lại cũng có thể coi là thi có giải các hình thức
khuyến mãi mà kết quả không hoàn toàn có tính cách may rủi, ở đó người
tham gia phải trả lời một số câu hỏi và kiến thức tổng quát hoặc đưa ra một
sáng kiến về một đề tài theo yêu cầu của nhà tổ chức cuộc thi. Khoản 1 Điều
593 BLDS 2005 qui định một cách rộng rãi theo tinh thần là thi có giải có thể
12


được tổ chức trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, thể thao, khoa học, kỹ
thuật và các cuộc thi khác, miễn là không bị pháp luật cấm hoặc trái với đạo
đức xã hội.
Hợp đồng dân sự có điều kiện được qui định tại khoản 6 Điều 406
BLDS năm 2005: “Hợp đồng có điều kiện là hợp đồng mà việc thực hiện phụ
thuộc vào việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một sự kiện nhất định”.
Như vậy, chúng ta hiểu hợp đồng dân sự có điều kiện là những hợp đồng mà
khi giao kết, bên cạnh việc thỏa thuận về nội dung của hợp đồng các bên còn
thỏa thuận để xác định về một sự kiện để khi sự kiện đó xảy ra, thì hợp đồng
mới được thực hiện hoặc phải chấm dứt.
Tất nhiên rằng, sự kiện được xem là điều kiện để hành vi pháp lí đơn
phương phát sinh hoặc hủy bỏ phải đáp ứng được các yêu cầu như yêu cầu
đối với điều kiện trong GDDS có điều kiện, cũng như sự kiện được coi là

điều kiện mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng (các sự kiện đó phải mang
tính khách quan, là sự kiện xảy ra trong tương lai - xuất hiện sau khi hợp
đồng đã được giao kết; nếu điều kiện đó là một công việc phải làm thì phải là
những công việc có thể thực hiện được; sự kiện mà các bên chủ thể thỏa
thuận phải phù hợp với pháp luật và không trái với đạo đức xã hội…).
Theo qui định tại Điều 21 BLDS năm 2005: “Giao dịch dân sự là hợp
đồng hoặc hành vi pháp lí đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.” Như vậy, GDDS có thể được thể hiện dưới hai
hình thức là hành vi pháp lí đơn phương hoặc là hợp đồng. Xét về bản chất,
hành vi pháp lí đơn phương là hứa thưởng, thi có giải và hợp đồng dân sự có
điều kiện cũng là hai dạng hình thức thể hiện của GDDS có điều kiện. Hay
nói cách khác, GDDS có điều kiện có thể được thể hiện dưới hình thức là
hành vi pháp lí đơn phương hứa thưởng, thi có giải và dưới hình thức là hợp
đồng dân sự có điều kiện. Có thể biểu diễn mối tương quan này như sau:

13


Hành vi pháp lí đơn phương phát
sinh, hủy bỏ do có điều kiện xảy ra
(hứa thưởng, thi có giải)

Giao dịch dân sự có điều
Giao dịch dân
sự có điều kiện
kiện

Hợp đồng dân sự có điều kiện

Tuy nhiên, theo như cách kết cấu của BLDS năm 2005 thì lại không

cho chúng ta cách hệ thống theo như sơ đồ trên:
Trong BLDS năm 2005, hứa thưởng và thi có giải được xếp trong số
các hợp đồng thông dụng (được qui định tại mục 13 Chương XVIII – Hợp
đồng dân sự thông dụng). Nhưng thực ra ở đây là sự cam kết đơn phương, tức
là các hành vi có hiệu lực pháp lí tạo lập nghĩa vụ cho một người có ý chí đơn
phương của người đó. Chúng ta cũng không được nhầm lẫn sự cam kết đơn
phương với loại hợp đồng, nhất là loại hợp đồng đơn vụ. Vì hợp đồng đơn vụ
là một sự thỏa hiệp của ý chi có hiệu lực tạo lập nghĩa vụ cho một bên giao
kết, nó có tính đơn phương xét về hiệu lực nhưng lại là song phương xét về
sự thành lập. Trái lại sự cam kết đơn phương (bao gồm cả dưới hình thức hứa
thưởng và thi có giải) không cần có một sự thỏa thuận của ý chí nào cả, nó là
sự phát biểu của một ý chí đơn phương, nó có tính cách đơn phương trong sự
thành lập cũng như về hiệu lực.
Chúng ta cũng không thể áp dụng các nguyên tắc hợp đồng cho sự
hứa thưởng, bởi vì lời hứa thưởng không được coi là một lời đề nghị giao kết
hợp đồng, mà ở đây người hứa thưởng bị ràng buộc bởi lời hứa của mình
ngay cả trước khi làm công việc phát biểu ý chí chấp nhận. Điều 591 qui
định: “Khi chưa đến hạn bắt đầu thực hiện công việc thì người hứa thưởng
có quyền rút lại lời tuyên bố hứa thưởng của mình…”. Như vậy, khi thời hạn
14


thực hiện công việc đã bắt đầu thì người hứa thưởng bị ràng buộc bởi lời hứa
của mình, mặc dù chưa có ai phát biểu ý chí chấp nhận làm công việc yêu cầu
cả, nghĩa vụ của người hứa thưởng phát sinh do ý chí đơn phương của họ.
Ngoài ra, hiểu theo đúng tinh thần của Điều 591 này thì nếu người hứa
thưởng không đưa ra thời hạn bắt đầu công việc thì người này sẽ bị ràng buộc
bởi lời hứa của mình ngay khi tuyên bố hứa thưởng dù chưa có ai bày tỏ ý chí
chấp nhận lời hứa đó.
Về thi có giải, thi có giải cũng là một sự cam kết đơn phương có hiệu

lực tạo lập nghĩa vụ đối với người tổ chức cuộc thi, người này đề xướng ra
cuộc thi, nêu lên các thể lệ dự thi và các giải thưởng , kể từ đó họ bị ràng
buộc bởi các điều cam kết của mình ngay cả trước khi những người dự thi
chấp nhận tham gia.
Như vậy, với những phân tích ở trên, chúng ta thấy hứa thưởng và thi
có giải không phải là hợp đồng dân sự, nhưng hiện nay, BLDS vẫn đang có
cách kết cấu, hay nói cách khác, vẫn đang sắp xếp hứa thưởng, thi có giải vào
phần các hợp đồng dân sự thông dụng, nhưng bản chất của chúng lại là hành
vi pháp lí đơn phương và là một trong những dạng của GDDS có điều kiện.
Do đó, kết cấu của BLDS năm 2005 là chưa hợp lí. Theo em, cần phải sửa
đổi và trong kết cấu của BLDS, không xếp hứa thưởng và thi có giải vào
chương các hợp đồng dân sự thông dụng; mà nên xếp chúng thành một mục
trong phần GDDS. Đồng thời, chúng ta cũng thấy rằng, tại khoản 1 Điều 125
BLDS ghi: “Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh
hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự
phát sinh hoặc hủy bỏ”; điều luật có ý chỉ dẫn tới hợp đồng dân sự có điều
kiện, vì nói “thỏa thuận” tức là nói tới hợp đồng, mà thỏa thuận về điều kiện
phát sinh hoặc hủy bỏ thì nói tới hợp đồng dân sự có điều kiện; vì hành vi
pháp lí đơn phương hứa thưởng và thi có giải như đã phân tích, không phải là
hợp đồng dân sự, nên Điều 125 đã không đề cập đến hành vi pháp lí đơn
phương là hứa thưởng và thi có giải mà xét về bản chất, chúng cũng là một
15


dạng GDDS có điều kiện. Do đó, cũng cần bổ sung ý vào Điều 125 để chỉ
dẫn tới hành vi pháp lí đơn phương là hứa thưởng và thi có giải.

III. Một số vấn đề thực tiễn của GDDS có điều kiện
1. Vấn đề về điều kiện trong GDDS có điều kiện
Như đã nêu ở phần trên, GDDS có điều kiện muốn có hiệu lực trước

pháp luật thì phải tuân theo các điều kiện để có hiệu lực của một GDDS. Nó
phát sinh hoặc hủy bỏ còn phụ thuộc vào điều kiện để phát sinh hay hủy bỏ
GDDS đó. Hiểu theo tinh thần của các qui định trong BLDS về GDDS và
GDDS có điều kiện thì tất nhiên chúng ta phải hiểu rằng những điều kiện đặt
ra trong một GDDS có điều kiện là phải hợp pháp, không trái với đạo đức xã
hội thì GDDS có điều kiện đó mới có hiệu lực (phát sinh hoặc hủy bỏ) khi
điều kiện xảy ra. Tuy nhiên, cách qui định của BLDS hiện nay không qui
định rõ ràng vấn đề này.
Các điều kiện để một GDDS có hiệu lực được qui định tại Điều 122,
trong đó tại điểm b khoản 1 Điều 122 BLDS qui định: “Mục đích và nội dung
của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã
hội”. Tuy nhiên, như đã nêu ở mục II, 1; GDDS có điều kiện phải bao gồm
hai nội dung cấu thành là: phần thứ nhất là GDDS thông thường do các bên
xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự và phần thứ 2 là điều kiện nhằm làm phát
sinh, thay đổi hoặc hủy bỏ GDDS. Với qui định như trên thì chỉ mới đề cập
đến phần thứ nhất, còn phần thứ 2 (phần điều kiện làm phát sinh, thay đổi
hoặc hủy bỏ GDDS) của GDDS có điều kiện không được đề cập đến. Đã thế,
chúng ta cũng không thấy Điều 125 qui định về GDDS có điều kiện và khoản
6 Điều 406 qui định về hợp đồng dân sự có điều kiện đề cập đến vấn đề này.
Như vậy, trên thực tế nếu xảy ra các tranh chấp liên quan đến vấn đề tính hợp
pháp, không trái với đạo đức xã hội của điều kiện trong GDDS có điều kiện
thì phương hướng giải quyết đối với GDDS phụ thuộc vào điều kiện đó như
thế nào,theo em, BLDS sẽ thiếu đi cơ sở pháp lí để giải quyết vấn đề này.
16


Ví dụ: A muốn vay tiền của B, đã nhất trí với điều kiện B đưa ra là
phải có hành vi hạ thấp nhân phẩm của mình, xúc phạm danh dự của người
khác (như quỳ xuống van xin, chửi mắng người khác theo ý của A…), điều
kiện xảy ra, rõ ràng điều kiện trong giao dịch này vi phạm đạo đức xã hội,

không hợp pháp, cần phải giao dịch này phải bị coi là vô hiệu; đấy là chưa kể
đến trong giao dịch này còn xâm phạm nguyên tắc tự do ý chí. Nhưng trong
BLDS không có qui định nào qui định một cách rõ ràng rằng những điều kiện
mà A đưa ra đối với B là vi phạm về yêu cầu đối với điều kiện trong một
GDDS có điều kiện.
Vấn đề mà em muốn nêu ra ở đây là, cần phải có qui định bổ sung vào
Điều 122 BLDS là: điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ GDDS mà các bên
thỏa thuận phải không trái pháp luật hoặc trái với đạo đức xã hội.
2. Đối với hành vi pháp lí đơn phương hứa thưởng, thi có giải
Đối với các giao dịch một bên làm phát sinh nghĩa vụ cho chính chủ
thể xác lập giao dịch thì sự tác động lại do chính từ phía họ. Hứa thưởng và
thi có giải là hành vi pháp lí đơn phương, theo đó bên hứa thưởng, tổ chức
cuộc thi chỉ phải trả thưởng, trao giải khi chủ thể nào đó đã thực hiện được
các điều kiện hứa thưởng, đã đạt được những yêu cầu của cuộc thi, thông
qua đó, họ là người được thưởng các lợi ích từ việc hứa thưởng và thi có giải
đó. Việc thực hiện nghĩa vụ các giao dịch này luôn là gánh nặng về tài sản
của người hứa thưởng, người tổ chức cuộc thi. Bởi các điều kiện hứa
thưởng, điều kiện đoạt giải thưởng do chính họ đặt ra và tự họ là người đánh
giá, giám sát việc thực hiện các điều kiện đó, nên dễ dàng dẫn đến sự lừa dối
đối với những người đã thực hiện được các điều kiện hứa thưởng hoặc các
giải thưởng sẽ thuộc về những người do họ đã chọn trước. Trong trường hợp
này họ đã cố ý không thực hiện các điều kiện hứa thưởng mà hầu như không
phải chịu bất cứ hậu quả pháp lí nào. Vì thế cần phải có sự giám sát về về
việc thực hiện các điều kiện hứa thưởng và thi có giải để đảm bảo sự tự

17


nguyện của chính bên hứa thưởng và người tổ chức thi có giải. Chẳng hạn,
việc cơ sở sản xuất kinh doanh thông báo hứa thưởng cho khách hàng nếu

khách hành thực hiện được những yêu cầu do họ đặt ra. Họ chỉ tuyên bố số
lượng giải thưởng và điều kiện để trúng thưởng nhưng không có cơ quan nào
kiểm soát số lượng giải thưởng cũng như cách thức phân bổ giải thưởng trên
số lượng sản phẩm…Vấn đề hứa thưởng nhưng lại không trả thưởng hoặc
trả thưởng quá muộn cũng thường thấy ở trong lĩnh vực thể thao, nhiều pháp
nhân, thậm chí cả ban tổ chức hứa thưởng cho các vận động viên sau khi đạt
một mức thành tích nào đó nhưng rồi trả thưởng muộn hoặc không trả đủ
mức thưởng như đã hứa; mà gần đây nhất, báo chí đưa tin về chuyện các cầu
thủ bóng đá câu lạc bộ V.Ninh Bình chờ thưởng cho chức vô địch hạng nhất
mùa trước và được lên hạng, nhưng chờ gần một năm vẫn chưa thấy động
tĩnh từ ban tổ chức và ban lãnh đạo câu lạc bộ.
Như vậy, BLDS cũng cần bổ sung các qui định về việc bảo đảm trả
thưởng và trao giải thưởng; như qui định rõ ràng thời hạn trả thưởng đối với
từng mức tưởng (qui ra thành tiền), qui định có chủ thể giám sát việc trả
thưởng và trao giải…

IV. Kết luận
Mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự là vì lợi ích, quyền lợi…
mà các bên mong muốn đạt được theo ý định chủ quan của mình. Xuất phát
từ đây mà các chủ thể khi tham gia GDDS trong những trường hợp nhất định,
thấy việc thiết lập một điều kiện bằng sự thỏa thuận hoặc bằng hành vi pháp
lí đơn phương để giao dịch dân sự đó có hiệu lực, nhằm hướng tới lợi ích của
một bên hoặc hai bên, hoặc cũng hướng tới lợi ích cho xã hội…Đó là một
trong những nhu cầu của đời sống và pháp luật cũng đã dự liệu được vấn đề
này, nhằm can thiệp một cách hợp lí, vừa đặt nó vào khung pháp lí nhưng
cũng tạo điều kiện để các hình thức GDDS nói chung và GDDS có điều kiện

18



nói riêng, diễn ra một cách rộng rãi trên thực tế, qua đó thúc đẩy nền kinh tế
thị trường phát triển. Tuy nhiên, việc dự liệu và tiến hành điều chỉnh của
pháp luật đối với vấn đề này vẫn còn đòi hỏi sự hoàn thiện, vì pháp luật vẫn
phải luôn cố gắng để phù hợp với đời sống ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ. Việc
hoàn thiện dần các qui định liên quan đến vấn đề GDDS có điều kiện đòi hỏi
phải xuất phát từ việc nghiên cứu đặc điểm, bản chất đồng thời không quên
quan sát vào đời sống đang diễn ra ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn của xã hội để
sửa đổi, bổ sung pháp luật dân sự.

Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình luật dân sự đại học luật hà nội
2. Giáo trình luật dân sự đại học quốc gia HN
3. Táp chí luật học
4. internet

19



×