Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Tiểu luận tình huống xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản ở huyện ba vì, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.03 KB, 19 trang )

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Như chúng ta đã biết, Việt Nam với hơn ¾ diện tích là rừng che phủ khắp
chiều dài dải đất hình chữ S đã làm cho thế giới thực vật, động vật trong đó trở
lên phong phú, đa dạng hơn so với các nước trên thế giới; đó còn là nguồn tài
nguyên vô cùng quý giá mà con người chúng ta được sở hữu.
Ngày xưa rừng được ví như nguồn tài nguyên vô hạn: “Việt Nam rừng
vàng biển bạc” nhưng ngày nay điều đó đã không còn phù hợp. Từ nhận thức là
một tài nguyên vô hạn con người đã chuyển dần sang nhận thức nó là một tài
nguyên hữu hạn cần được bảo vệ tránh khỏi tình trạng rừng bị phá hoại, mất dần
diện tích xanh trong tương lai.
Quản lý Nhà nước về bảo vệ rừng là toàn bộ hoạt động của các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền để thực hiện chức năng quản lý, bảo vệ rừng trong đó Kiểm
lâm là lực lượng chuyên trách thực hiện chức năng này theo quy định tại Luật
bảo vệ và phát triển rừng năm 2004. Xã hội phát triển thì công tác quản lý, bảo
vệ rừng càng gặp nhiều khó khăn do nhiều nguyên nhân như: sự khai thác tài
nguyên không theo quy hoạch, diện tích rừng bị lấy mất do các chương trình dự
án phát triển, mở đường thông xe; cháy rừng, thiên tai... Ngoài những nguyên
nhân khách kể trên còn có nguyên nhân chủ quan mà lực lượng kiểm lâm có thể
hạn chế được thông qua công tác thực hiện nghiêm minh việc xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực mua bán, vận chuyển lâm sản trái phép chuyển trái
phép.
Xuất phát từ thực tế tình trạng vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng đang diễn
ra trên khắp các tỉnh của đất nước cùng với thực tế ở cơ sở nơi công tác tôi xây
dựng tiểu luận với chuyên đề là: “Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản ở huyện Ba Vì, Thành phố Hà
Nội”.

1


PHẦN II: NỘI DUNG


1. Mô tả tình huống
Vào hồi 12 giờ sáng ngày 07/10/2015 được tin từ quần chúng nhân dân và
xác định nguồn thông tin có căn cứ, Đội trưởng Đội kiểm lâm cơ động & PCCCR
số 2 đã giao nhiệm vụ cho Tổ công tác tổ chức thực hiện nhiệm vụ tuần tra kiểm
soát và phát hiện một chiếc xe ô tô vận tải chạy từ Thái Nguyên theo hướng Quốc
lộ 3 về Hà Nội, xe được phủ bạt kín, in biển xe trên thành bạt. Tổ công tác phát tín
hiệu dừng xe và kiểm tra hành chính trên địa bàn Huyện Sóc Sơn. Qua kiểm tra
phát hiện trên xe có chở 1,03 m3 gỗ nghiến xẻ nhóm IIA không có giấy tờ chứng
minh nguồn gốc do Nguyễn Đức Tường sinh năm 1955, trú tại Tổ 2, Phường Đông
Quan, TP Thái Nguyên điều khiển. Kiểm tra phương tiện và đăng ký xe ô tô phát
hiện ông Tường đã sử dụng biển số xe giả (22C- 03862) thay biển thật (20C06158) và được in phủ biển số cả trên thành bạt; trước đó ông Tường đã từng vận
chuyện lâm sản trái phép bằng hình thức biển giả và đã từng bị Hạt kiểm lâm Sóc
Sơn xử phạt về hành vi này vào thời điểm năm 2012. Kiểm tra về lâm sản bà La
Thị Ánh Tuyết, sinh năm 1970, trú tại xã Sơn Cẩm, huyện Phú Lương, TP Thái
Nguyên là chủ lô hàng trên xe nhưng không xuất trình được giấy tờ chứng minh
nguồn gốc. Tổ công tác đã kịp thời lập biên bản vi phạm và áp giải xe chở hàng về
trụ sở Đội kiểm lâm cơ động & PCCCR số 2 tại Thôn Nương Tụ - Xã Phú Sơn –
Huyện Ba Vì – TP Hà Nội. Hành vi vi phạm của lái xe và chủ lâm sản đã được tổ
công tác kịp thời tham mưu cho Đội trưởng Đội kiểm lâm cơ động & PCCCR số 2
ra quyết định tạm giữ xe ô tô biển số thật 20C-06158, giấy phép lái xe, đăng ký
phương tiện của ông Tường cùng toàn bộ số lâm sản không có giấy tờ trên xe để
chờ cấp có thẩm quyền xử lý.
2. Xác định mục tiêu xử lý tình huống
Một là: Nhằm xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm về mua
bán lâm sản trái phép của bà La Thị Ánh Tuyết và hành vi vận chuyển lâm sản
trái phép của ông Nguyễn Đức Tường một cách nhanh chóng, công minh, triệt
để, đúng tính chất mức độ vi phạm; tránh kéo dài gây sách nhiễu, phiền hà cho
2



người vi phạm trên cơ sở quy định của pháp luật về việc xử lý vi phạm do người
có thẩm quyền tiến hành.
Hai là: Giải quyết hợp tình, hợp lý vụ việc, không để xảy ra tình trạng oan
sai trong khi xử lý. Đảm bảo không có việc khiếu nại tố cáo về việc xử phạt theo
quy định của pháp luật. Tránh những suy nghĩ tiêu cực của người vi phạm trong
việc thi hành các mức xử phạt của lực lượng có quyền.
Ba là: Nâng cao vai trò, nhiệm vụ của cơ quan quản lý Nhà nước về quản lý
và bảo vệ rừng, đồng thời nâng cao nhận thức cho mọi người về tầm quan trọng
của bảo vệ rừng.
Bốn là: Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, tránh tình trạng sâu mọt
đục khoét hệ thống pháp luật Việt Nam.
3. Phân tích nguyên nhân và hậu quả
Bất kỳ một sự việc nào xảy ra trong đời sống xã hội đều có những nguyên
nhân của nó. Việc phân tích nguyên nhân của tình huống này sẽ giúp cho chúng
ta xây dựng được các phương án giải quyết có hiệu quả, mang tính khoa học và
đúng pháp luật.
3.1 Nguyên nhân
Thứ nhất: Do nhận thức của một số người dân còn hạn chế, sự kém hiểu
biết về pháp luật nên đã dẫn đến tình trạng phá rừng bừa bãi chỉ vì mục đích lợi
nhuận trước mắt, tạo điều kiện cho những tay lâm tặc thực sự lợi dụng hoành
hành ngang nhiên hơn.
Thứ hai: Do sự thiếu tôn trọng pháp chế xã hội chủ nghĩa của người bán,
người mua và người vận chuyển. Mặc dù biết hành vi đó là vi phạm nhưng vì lợi
ích kinh tế trước mắt nên vẫn cố tình thực hiện.
Thứ ba: Do hoạt động quản lý Nhà nước các cấp còn thiếu xót, chưa hiệu
quả; sự sa sút về phẩm chất đạo đức của một số cán bộ liên quan nên đã để cho
xe ô tô vận chuyển lâm sản từ Thái Nguyên về Hà Nội mới bị phát hiện tại

3



huyện Sóc Sơn thuộc TP Hà Nội trong khi xe đi qua một số chốt kiểm lâm trên
địa bàn Thái Nguyên mà không cơ quan nào hay biết.
Thứ tư: Do sự mất đoàn kết giữa người dân địa phương nơi xảy ra vụ việc
với cán bộ quản lý nơi đó nên họ có biết cũng không khai báo cho cơ quan quản
lý mà cứ để sự việc diễn ra.
3.2 Hậu quả
Thứ nhất: Gây thiệt hại về môi trường. Nếu không ngăn chặn và xử lý kịp
thời sẽ dẫn đến việc rừng bị tàn phá, lâm sản khai thác bừa bãi, môi trường sinh
thái bị phá hủy, chức năng phòng hộ không được đảm bảo...
Thứ hai: Thiệt hại về kinh tế. Rừng bị phá hoại khi không kịp thời ngăn
chặn sẽ kéo theo những khoản kinh phí nhà Nước phải chi ra để giải quyết hậu
quả của việc phá rừng như lũ lụt, hạn hán xảy ra hàng năm, chi phí trồng rừng
mới để tái tạo rừng...
Thứ ba: Thiệt hại về xã hội. Rừng bị phá hoại nhiều sẽ làm giảm sự tín
nhiệm của nhân dân đối với cán bộ, công chức có thẩm quyền; tình hình an ninh
trật tự ngày một rắc rối do lâm tặc hoành hành, họ tự đưa ra những “luật rừng”
riêng để xử lý nhau khi hợp tác không thuận lợi.
4. Xây dựng phương án và lựa chọn phương án giải quyết tình huống
a) Phương án 1
1. Đối với ông Nguyễn Đức Tường: Căn cứ điểm đ, khoản 3, Điều 22 Vận chuyển lâm sản trái pháp luật của Nghị định 157/2013/NĐ-CP.
- Phạt tiền: 15.000.000đ đối với hành vi vận chuyển lâm sản trái pháp luật.
2. Đối với bà La Thị Ánh Tuyết: Căn cứ điểm đ, khoản 3, Điều 23- Mua,
bán, cất giữ, chế biến, kinh doanh lâm sản trái với các quy định của Nhà nước
của Nghị định 157/2013/NĐ-CP.
- Phạt tiền: 15.000.000đ đối với hành vi mua lâm sản trái với các quy định
của Nhà nước.
4



- Hình thức phạt bổ sung: Tịch thu toàn bộ tang vật vi phạm là 1,03 m3 gỗ
nghiến xẻ nhóm IIA.
3. Thẩm quyền xử phạt: Đội trưởng Đội kiểm lâm cơ động &PCCCR số 2
Phương án này thì có những ưu, nhược điểm như sau:
Ưu điểm:
- Xử lý nhẹ với người vi phạm
Nhược điểm:
- Chưa đúng căn cứ pháp luật theo khoản 2 điều 5 Nghị định 157/2013/NĐCP ngày 20 tháng 6 năm 2012 quy định xử phạt vi phạm về quan lý rừng, phát
triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản thì Khối lượng gỗ tính bằng mét
khối (m3); thực hiện xác định khối lượng gỗ theo quy định về quản lý và đóng
búa bài cây, búa kiểm lâm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Khi xử
phạt vi phạm hành chính phải quy thành gỗ tròn. Quy đổi gỗ xẻ, gỗ đẽo thành gỗ
tròn bằng cách nhân với hệ số 1,6. Như vậy chưa quy đổi 1,03 m3 gỗ nghiến xẻ
ra gỗ tròn để tính mức xử phạt đúng (quy tròn 1,03x1,6 = 1,648m3).
- Theo Luật xử phạt vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 ngày 20 tháng 6
năm 2012 thì thẩm quyền xử lý ở phương án này sai, phải do chủ tịch UBND
huyện Ba Vì hoặc Chị cục trưởng chi cục kiểm lâm Hà Nội ( Tại điểm b, khoản
3, Điều 43 luật xử vi phạm hành chính 2012 thì Đội trưởng đội kiểm lâm cơ
động chỉ có thẩm quyền xử phạt đến 25.000.000đ trong khi đó cộng tổng tiền xử
phạt 2 hành vi vi phạm trên là 30.000.000đ).
b) Phương án 2
1. Đối với ông Nguyễn Đức Tường: Căn cứ điểm đ, khoản 4, Điều 22 Vận chuyển lâm sản trái pháp luật của Nghị định 157/2013/NĐ-CP.
- Phạt tiền: 25.000.000đ đối với hành vi vận chuyển lâm sản trái pháp luật.

5


2. Đối với bà La Thị Ánh Tuyết: Căn cứ điểm đ, khoản 4, Điều 23- Mua,
bán, cất giữ, chế biến, kinh doanh lâm sản trái với các quy định của Nhà nước
của Nghị định 157/2013/NĐ-CP.

- Phạt tiền: 25.000.000đ đối với hành vi mua lâm sản trái với các quy định
của Nhà nước.
- Hình thức phạt bổ sung: Tịch thu toàn bộ tang vật vi phạm là 1,03 m3 gỗ
nghiến xẻ nhóm IIA.
3. Thẩm quyền xử phạt: Chủ tịch UBND huyện Ba Vì hoặc Chi cục
trưởng chi cục kiểm lâm Hà Nội
Phương án này thì có những ưu, nhược điểm như sau:
Ưu điểm:
- Áp dụng đúng theo nguyên tắc, theo pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt nam đã quy định.
Nhược điểm:

.

- Chưa thể hiện được tính răn đe đối với người vi phạm. Lái xe Nguyễn
Đức Tường có hành vi tái phạm lỗi cố tình dùng biển giả để gây khó khăn cho
lực lượng chức năng trong việc phát hiện và thực thi nhiệm vụ. Do vậy căn cứ
vào tình tiết tăng nặng này cần có hình phạt bổ sung: tước quyền sử dụng giấy
phép lái xe có thời hạn.
c) Phương án 3
1. Đối với ông Nguyễn Đức Tường: Căn cứ điểm đ, khoản 4, Điều 22 Vận chuyển lâm sản trái pháp luật của Nghị định 157/2013/NĐ-CP và tình tiết
tăng nặng (tái phạm hành vi vận chuyển lâm sản trái phép với biển giả).
- Phạt tiền: 25.000.000đ đối với hành vi vận chuyển lâm sản trái pháp luật.
- Hình thức phạt bổ sung: Tước quyền sử dụng giấy phép lái xe trong thời
hạn 06 tháng.
6


2. Đối với bà La Thị Ánh Tuyết: Căn cứ điểm đ, khoản 4, Điều 23- Mua,
bán, cất giữ, chế biến, kinh doanh lâm sản trái với các quy định của Nhà nước

của Nghị định 157/2013/NĐ-CP
- Phạt tiền: 25.000.000đ đối với hành vi mua bán lâm sản trái phép.
- Hình thức phạt bổ sung: Tịch thu toàn bộ tang vật vi phạm là 1,03 m3 gỗ
nghiến xẻ nhóm IIA.
3. Thẩm quyền xử phạt: Chủ tịch UBND huyện Ba Vì hoặc Chi cục
trưởng Chi cục kiểm lâm Hà Nội.
Phương án này thì có những ưu điểm như sau:
Ưu điểm:
- Áp dụng đúng theo nguyên tắc, theo pháp luật nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã quy định.
- Có tính răn đe cao, hạn chế việc vận chuyển lâm sản trái phép đối với lái
xe Nguyễn Đức Tường.
d) Lựa chọn phương án giải quyết
Trong 03 phương án như đã nêu ở trên thì mỗi phương án đều có những ưu,
nhược điểm khác nhau. Sau khi cân nhắc những ưu nhược điểm của từng
phương án cụ thể thì tôi lựa chọn việc xử lý theo phương án 3 bởi vì phương án
này đồng thời thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật nhưng cũng đồng thời
thể hiện tính răn đe cao, hạn chế vi phạm.
5. Lập kế hoạch thực hiện phương án lựa chọn
Sau khi kiểm tra phát hiện ông Nguyễn Đức Tường và bà La Thị Ánh
Tuyết có hành vi vận chuyển và mua bán lâm sản trái phép thì cần có kế hoạch
biện pháp xử lý theo các bước chủ yếu như sau:
Bước thứ nhất: Đình chỉ ngay hành vi vi phạm của ông Nguyễn Đức
Tường, yêu cầu ông Tường cho kiểm tra xe, giấy phép lái xe, đăng ký xe và yêu
7


cầu bà La Thị Ánh Tuyết xuất trình giấy tờ hợp pháp của 1,03 m3 gỗ nghiến xẻ
nhóm IIA.
Bước thứ hai: Khi kiểm tra và phát hiện ông Nguyễn Đức Tường vận

chuyển lâm sản trái phép, dùng xe ô tô biển giả để vận chuyển và bà La Thị Ánh
Tuyết mua bán lâm sản trái phép, tổ công tác tiến hành lập biên bản vi phạm
hành chính và yêu cầu lái xe về trụ sở cơ quan để chờ cấp có thẩm quyển xử lý.
Bước thứ ba: Sau khi lập biên bản vi phạm hành chính, Đội trưởng ra quyết
định tạm giữ xe ô tô, đăng ký, giấy phép lái xe và toàn bộ lâm sản trái phép. Đội
trưởng Đội kiểm lâm cơ động & PCCCR số 2 làm công văn báo cáo hành vi vi
phạm và đề xuất mức xử phạt gửi Chủ tịch UBND Huyện Ba Vì xử lý (vụ việc
này không thuộc thẩm quyền Đội trưởng).
Bước thứ tư: Ông Chủ tịch UBND Huyện Ba Vì sau khi xem xét, tính chất,
mức độ vi phạm, nhân thân người vi phạm và những tình tiết tăng nặng được
quy định tại Nghị định 157/NĐ-CP và đề xuất của Đội trưởng Đội kiểm lâm cơ
động & PCCCR số 2 để ra quyết định hành chính với hình thức phạt tiền và các
biện pháp khác như tịch thu tang vật sung công quỹ Nhà nước, tước quyền sử
dụng giấy phép lái xe trong thời hạn 06 tháng.
Bước thứ năm: Sau khi quyết định xử phạt có hiệu lực, ông Nguyễn Đức
Tường và bà La Thị Ánh Tuyết phải nộp tiền phạt tại nơi ghi trong quyết định
xử phạt và được nhận biên lai thu tiền phạt. Tiền nộp phạt vào ngân sách Nhà
nước qua tài khoản mở tại Kho bạc Nhà nước Ba Vì.
Bước thứ sáu: Đối với 1,03 m3 gỗ nghiến xẻ nhóm IIA đã bị tịch thu, Đội
kiểm lâm cơ động & PCCCR số 2 có trách nhiệm bảo quản và tiến hành làm hồ
sơ gửi cơ quan có chức năng tiến hành bán đấu giá để nộp tiền vào ngân sách
Nhà nước.
Bước thứ bảy: Nếu ông Nguyễn Đức Tường và bà La Thị Ánh Tuyết có
đơn khiếu nại thì thủ tục, thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.

8


6. Ý nghĩa của việc giải quyết phương án
Ý nghĩa về khoa học: Xử lý vụ việc đúng trình tự, đúng pháp luật, khách

quan, dân chủ, đúng người, đúng tội. Đòi hỏi việc lập hồ sơ và củng cố hồ sơ
phải chặt chẽ, chứng cứ, tang vật vi phạm phải chính xác, rõ ràng để khi xử lý
không bị bỏ lọt hành vi của người vi phạm.
Ý nghĩa nhận thức: Qua công tác đấu tranh phòng ngừa các hành vi vi
phạm hành chính, đối với đương sự đã nhận thấy mình đã vi phạm pháp luật của
Nhà nước, tự giác chấp hành việc xử lý của cơ quan có thẩm quyền. Từ đó có
trách nhiệm phối hợp với cơ quan chức năng trong việc tuyên truyền, nhắc nhở
người dân chấp hành tốt các quy định của Nhà nước về lĩnh vực quản lý bảo vệ
rừng và quản lý lâm sản, góp phần nâng cao hiệu quả bảo v ệ rừng được tốt hơn.
Ý nghĩa thực tiễn: Qua việc xử lý hành vi mua bán của bà La Thị Ánh
Tuyết và vận chuyển lâm sản trái phép của ông Nguyễn Đức Tường để thấy
công tác xử lý được thuận lợi, bảo đảm quyền của người vi phạm và lợi ích của
Nhà nước, xử lý đúng pháp luật thì cán bộ công chức được giao nhiệm vụ củng
cố hồ sơ, tham mưu xử lý phải chuẩn bị đầy đủ các văn bản Nhà nước quy định
về công tác quản lý bảo vệ rừng, đấu tranh làm rõ, giải thích cho đương sự thật
sự hiểu rõ hành vi vi phạm của mình và có thái độ chấp hành tốt.
Ý nghĩa xã hội: Qua việc xử lý vi phạm hành chính trên, người dân tin và
hiểu hơn công việc của cán bộ kiểm lâm nói riêng và cán bộ công chức nói
chung trong công tác thực thi quyền lực Nhà nước. Củng cố lòng tin của người
dân vào Nhà nước và sự nghiêm minh của pháp luật, tạo cơ sở để xã hội phát
triển bền vững hơn.

9


PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nhiệm vụ bảo vệ rừng và quản lý lâm sản đã trở thành vấn đề cấp bách
không chỉ của các cơ quan quản lý Nhà nước, các cấp ngành, các địa phương mà
còn phải kể đến các tổ chức, cá nhân người dân.
Ở nước ta đã áp dụng rất nhiều các biện pháp như biện pháp chính trị,

kinh tế, hành chính, hình sự… tuy nhiên nạn phá rừng, vận chuyển lâm sản trái
phép, săn bắt, buôn bán động vật hoang dã, tình trạng phá rừng làm nương rẫy,
lấy gỗ vẫn diễn ra phức tạp, công tác quản lý gặp nhiều khó khăn, gây bức xúc
cho xã hội. Vậy để công tác bảo vệ rừng và quản lý lâm sản hiệu quả cần làm tốt
một số nội dung sau đây:
Thứ nhất, rà soát hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành
về bảo vệ và phát triển rừng; sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới các văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan theo hướng đảm bảo lợi ích của những người làm
nghề rừng, những người trực tiếp tham gia bảo vệ rừng, tạo động lực thu hút đầu
tư cho công tác bảo vệ rừng và phát triển rừng.
Thứ hai, thường xuyên tuyên truyền, giáo dục, phổ biến và triển khai ký
cam kết đến tận khu dân cư về việc thực hiện nghiêm chỉnh Luật bảo vệ và phát
triển rừng đã được Quốc hội ban hành ngày 03/12/2004, Nghị định 157/NĐ-CP
của Thủ tướng Chính phủ về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý
rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản, Nghị định 40/NĐ-CP của Thủ tướng
Chính phủ sửa đổi một số điều của Nghị định 157/NĐ-CP.
Thứ ba, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cùng với các cấp, các ngành
điều tra, xác định, phân rõ các loại rừng, lập kế hoạch quy hoạch bảo vệ, phát
triển rừng, giao rừng cho nhân dân quản lý và khai thác hợp lý. Đồng thời
thường xuyên thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết dứt điểm các tranh
chấp về rừng, đất lâm nghiệp.
Thứ tư, xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ
rừng và quản lý lâm sản, xử lý đúng người, đúng tính chất vi phạm và xử lý phải
10


do người có thẩm quyền tiến hành trên cơ sở của pháp luật. Nếu xét thấy hành vi
vi phạm có dấu hiệu của tội phạm thì lập hồ sơ để cơ quan tố tụng truy tố theo
quy định của pháp luật.
Thứ năm, Nhà nước phải thường xuyên tập huấn, đào tạo, đào tạo lại và

bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kiến thức quản lý Nhà nước cho cán bộ kiểm
lâm, củng cố cơ cấu tổ chức từ Trung ương đến cơ sở về bộ máy hoạt động,
quản lý của kiểm lâm cho tương xứng với nhiệm vụ đồng thời trang bị cơ sở vật
chất, phương tiện, vũ khí, công cụ hỗ trợ để cán bộ kiểm lâm thực hiện và hoàn
thành nhiệm vụ.
Thứ sáu, có chế độ khen thưởng, đãi ngộ tốt đối với cá nhân, đơn vị làm
tốt nhiệm vụ bảo vệ rừng và quản lý lâm sản, đồng thời có biện pháp xử lý
nghiêm khác đối với những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý,
bảo vệ rừng.
Thứ bảy, nâng cao đời sống và mức thu nhập đối với những hộ gia đình
nghèo khó ở các vùng núi, vùng đồi, vùng gần rừng, các khu bảo tồn để họ yên
tâm sản xuất, không canh tác, phá rừng bừa bãi. Tăng cường đầu tư vốn và
hướng dẫn người dân làm giàu từ những cây nông nghiệp, lâm nghiệp bản địa.
Trên đây là bài tiểu luận cuối khóa, rất mong Giảng viên Trường cán bộ
quản lý nông nghiệp và phát triển nông thôn I quan tâm, tạo điều kiện để tôi
hoàn thành khóa học.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 13 tháng 11 năm 2015
Người viết

Phan Thanh Tuân
11


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật bảo vệ và phát triển rừng (2004).
2. Luật xử phạt vi phạm hành chính (2012)
3. Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính.
4. Nghị định 32/2006/NĐ-CP ngày 30/3/2006 của Chính phủ về quản lý

thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm.
5. Nghị định số 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và
quản lý lâm sản.
6. Nghị định số 40/2015/NĐ-CP ngày 27/04/2015 sửa đổi, bổ sung một số
điều Nghị định 157/2013/NĐ-CP CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và
quản lý lâm sản.
7. Nghị định 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 về bán đấu giá tài sản.

12


CHI CỤC KIỂM LÂM HÀ NỘI

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

ĐỘI KLCĐ &PCCCR SỐ 2
Số: 05 /BB-VPHC

Ba Vì, ngày 08 tháng 10 năm 2015

BIÊN BẢN VI PHẠM HÀNH CHÍNH
Về Vận chuyển lâm sản trái pháp luật
Căn cứ biên bản khám phương tiện vận tải, đồ vật theo thủ tục hành chính
Hôm nay, hồi 07 giờ 20 ngày 08 tháng 10 năm 2015, tại Đội KLCĐ &
PCCCR số 2, Phú Sơn, Ba Vì, Hà Nội.
Chúng tôi gồm: (họ tên, chức vụ, đơn vị)
1. Ông: Thân Danh Tuấn - Phó Đội trưởng

số 2

- Đội KLCĐ & PCCCR

2. Ông: Lê Văn Tập

- KLV

-

nt

3. Ông: Chu Anh Dũng

- KLV Sơ cấp, Lái xe -

nt

4. Ông : Nguyễn Tá Canh - KLV TC

-

nt

Với sự chứng kiến của: ….. ...........................................................................................
Tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính đối với:
1. Ông : Nguyễn Đức Tường, là lái xe, sinh năm 1955, Quốc tịch: Việt Nam,
Nghề nghiệp/lĩnh vực hoạt động: Lái Xe; Địa chỉ: Tổ 2, Phường Đồng
Quang, Thành phố Thái Nguyên, Tỉnh Thái Nguyên.
2. Bà: La Thị Ánh Tuyết, là chủ lâm sản, sinh năm 1970, Quốc tịch:Việt Nam,

Nghề nghiệp/lĩnh vực hoạt động: lao động tự do; Địa chỉ: xã Sơn Cẩm,
huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên .
Các đương sự trên đã có các hành vi vi phạm hành chính: vận chuyển, mua
bán lâm sản trái pháp luật; vận chuyển 30 thanh gỗ Nghiến xẻ, nhóm IIA, khối
lượng: 1,03m3, (chất lượng kém, sâu mục); (Quy tròn: 1,03m3 x 1,6 = 1,64m3).
Toàn bộ số gỗ trên không có giấy tờ gì chứng minh nguồn gốc hợp pháp (Có lý
lịch gỗ kèm theo).
Quy định tại: Điều 12 luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004; điều 13
thông tư số 01/2012/TT_BNNPTNT, ngày 04/01/2012 của Bộ NN&PTNT quy
định hồ sơ hợp pháp và kiểm tra nguồn gốc lâm sản; điều 22 khoản 14 và điểm
đ, khoản 4, điều 23 đối với chủ lâm sản và điểm đ, khoản 4 điều 22 đối với lái
xe, được quy định tại Nghị định 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính
phủ về quy định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý rừng, phát triển rừng,
bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.
Cá nhân/tổ chức bị thiệt hại: ..........................................................................................
Ý kiến trình bày của cá nhân/đại diện tổ chức vi phạm:
13


........................................................................................................................................
Ý kiến trình bày của người chứng kiến: .........................................................................
Ý kiến trình bày của cá nhân/tổ chức bị thiệt hại: .........................................................
Chúng tôi đã yêu cầu Bà La Thị Ánh Tuyết là chủ lâm sản và ông Nguyễn Minh
Tường là lái xe chấm dứt ngay hành vi vi phạm.
Các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm xử lý vi phạm được áp
dụng gồm: đình chỉ ngay việc vận chuyển, mua bán lâm sản trái pháp luật và
tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.
Tang vật, phương tiện, giấy tờ bị tạm giữ gồm:
- 01 xe ô tô tải nhãn hiệu Cửu Long; Biển kiểm soát: 20C- 06158;
- 30 thanh gỗ nghiến xẻ, nhóm IIA, khối lượng: 1,03m3; (chất lượng kém,

sâu mục);
- 01 Giấy phép lái xe số: 190107193995; mang tên: Nguyễn Đức Tường,
hạng B2 (bản chính)
- 01 Gấy chứng nhận đăng ký xe Ô tô số: 003356 ; mang tên Nguyễn Thị
Lộc, địa chỉ Tổ 2, Đồng Quang, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên ; Biển số
đăng ký 20C-06158. (bản chính)
Ngoài những tang vật, phương tiện vi phạm hành chính nêu trên, chúng tôi
không tạm giữ thêm thứ gì khác.
Biên bản lập xong hồi 08 giờ phút ngày 08 tháng 10 năm 2015, được lập
thành 03 bản có nội dung, giá trị như nhau; đã đọc lại cho những người có tên
trên cùng nghe, công nhận là đúng và cùng ký tên dưới đây; giao cho cá nhân vi
phạm/đại diện tổ chức vi phạm 01 bản.

do
không

………………………………………………………

biên

bản:

Cá nhân/Tổ chức vi phạm gửi văn bản yêu cầu được giải trình đến ông
Hoàng Văn Phương trước ngày 10 tháng 10 năm 2015 để thực hiện quyền giải
trình.
NGƯỜI HOẶC ĐẠI DIỆN
TỔ CHỨC VI PHẠM
(Ký, ghi rõ họ tên)

NGƯỜI CHỨNG KIẾN

(Ký, ghi rõ họ tên)

ĐẠI DIỆN CHÍNH QUYỀN
(Ký, ghi rõ chức vụ, họ tên)

NGƯỜI LẬP BIÊN BẢN
(Ký, ghi rõ chức vụ, họ tên)

NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI
(Ký, ghi rõ họ tên)

14


CHI CỤC KIỂM LÂM HÀ NỘI

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

ĐỘI KLCĐ & PCCCR SỐ 2

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số:

Ba Vì, ngày 08 tháng 10 năm 2015

/TTr-KL

TỜ TRÌNH
V/v Đề xuất xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Nguyễn Đức Tường là lái xe địa chỉ: Tổ 2,

phường Đồng Quang, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái nguyên và bà: La Thị Ánh Tuyết là chủ lâm
sản, địa chỉ; xã Sơn Cẩm, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên về hành vi vận chuyển lâm sản
trái pháp luật
Kính gửi: Chủ tịch UBND Huyện Ba Vì.
Vào hồi 12 giờ sáng ngày 07/10/2015, được tin từ quần chúng nhân dân và xác định
nguồn thông tin có căn cứ. Một xe ô tô tải nhẫn hiệu Cửu long, biển kiểm soát 20C - 06158 vận
chuyển lâm sản trái pháp luật đi từ Thái Nguyên về TP Hà Nội tiêu thụ, tổ công tác Đội kiểm lâm
cơ động và PCCCR số 2 tiến hành dừng xe ôtô nói trên tại địa bàn huyện Sóc Sơn -TP Hà Nội để
kiểm tra. Qua kiểm tra sơ bộ cùng với lời khai của lái xe và chủ lâm sản trên xe ôtô có vận chuyển
khoảng 1,0 m3 gỗ Nghiến xẻ nhóm IIA không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc hợp pháp. Đội
kiểm lâm Cơ động và PCCCR số 2 ra Quyết định khám phương tiện vận tải, đồ vật theo thủ tục
hành chính và lập biên bản khám phương tiện vận tải, đồ vật theo thủ tục hành chính, đồng thời
áp giải xe ô tô và lâm sản nói trên về trụ sở Đội kiểm lâm cơ động và PCCCR số 2 để kiểm tra và
xử lý theo qui định của pháp luật.
Qua kiểm tra thực tế tại Đội, tổ công tác đã kịp thời tham mưu cho Đội trưởng ra Quyết
định tam giữ tang vật và phương tiện vi phạm hành chính, chứng chỉ hành nghề số 05/QĐTGTVPT và Biên bản tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục
hành chính số 05/BB-TGTVPTVPHC ngày 07/10/2015. Đồng thời lập biên bản vi phạm hành
chính số 05/BB-VPHC ngày 08/10/2015 đối với lái xe Nguyễn Đức Tường sinh năm 1955, địa
chỉ Tổ 2, phường Đồng Quang, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên và chủ lâm sản bà La Thị
Ánh Tuyết, sinh năm 1970, địa chỉ xã Sơn Cẩm, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Lâm sản
trái phép gồm 30 thanh gỗ nghiến xẻ nhóm IIA, khối lượng 1,03 m3 (chất lượng kém, sâu mục).
Toàn bộ số lâm sản trên không có thủ tục giấy tờ gì chứng minh nguồn gôc hợp pháp, đươc tạm
giữ tại Đội kiểm lâm cơ động và PCCCR số 2 chờ cấp có thẩm quyền quyết định xử phạt vi phạm
hành chính theo quy định của pháp luật (có các biên bản, quyết định tạm giữ phô tô kèm theo).
Các hành vi trên của lái xe và chủ lâm sản đã vi phạm quy định tại Điều 12 Luật bảo vệ và
phát triển rừng và Điều 22, khoản 4, điểm đ đối với lái xe; Điều 22, khoản 14 và Điều 23, khoản
4, điểm đ đối với chủ lâm sản được quy định tại Nghị định số 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013
của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng
và quản lý lâm sản.
Áp dụng điểm đ ; khoản 4; điều 22 đối với lái xe và điều 22, khoản 14, điều 23, khoản 4,

điểm đ đối với chủ lâm sản được quy định tại Nghị định số 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013
của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ
rừng và quản lý lâm sản, các đương sự trên bị xử phạt vi phạm hành chính là vượt thẩm quyền của
Đội trưởng, Đội kiểm lâm cơ động và PCCCR số 2.
Do vậy, Đội trưởng, Đội kiểm lâm cơ động và PCCCR số 2 đề xuất ông Chủ tịch UBND
Huyện Ba Vì ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ
rừng và quản lý lâm sản như sau:
15


1. Phạt Vi phạm hành chính bằng tiền đối với lái xe Nguyễn Đức Tường, địa chỉ: Tổ 2,
Phường Đồng Quang, Thành phố Thái Nguyên, Tỉnh Thái Nguyên là 25.000.000đ (Hai mươi
năm triệu đồng) về hành vi vận chuyển lâm sản trái pháp luật.
2. Phạt Vi phạm hành chính bằng tiền đối với Chủ lâm sản, Bà La Thị Ánh Tuyết, địa chỉ:
xã Sơn Cẩm, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên là 25.000.000đ (Hai mươi năm triệu đồng) về
hành vi vận chuyển, mua bán lâm sản trái pháp luật.
3. Hình phạt bổ sung: Tịch thu toàn bộ 30 thanh gỗ nghiến xẻ nhóm IIA, khối lượng: 1,03
m nhập kho sung công quỹ Nhà nước đối với Chủ lâm sản và tước quyền sử dụng giấy phép lái
xe trong thời gian 06 tháng đối với lái xe.
3

4. Sau khi các đương sự trên nộp đầy đủ số tiền phạt vi phạm hành chính
vào kho bạc nhà nước huyện Ba Vì, Đội Kiểm lâm cơ động và PCCCR số 2 trả
lại 01 xe ô tô tải nhãn hiệu Cửu Long, biển kiểm soát: 20C – 06158; 01 Giấy
phép lái xe số: 190107193995 sau khi hết thời hạn bị tước quyền sử dụng mang
tên Nguyễn Đức Tường, hạng B2 (bản chính) và 01 Gấy chứng nhận đăng ký xe
Ô tô số: 003356 ; mang tên Nguyễn Thị Lộc, địa chỉ Tổ 2, Đồng Quang, TP
Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên ; Biển số đăng ký 20C-06158. (bản chính)cho
đương sự.
Vậy kính đề nghị ông Chủ tịch UBND Huyên Ba Vì ra quyết định xử phạt vi phạm hành

chính theo thẩm quyền quy định.
Nơi nhận:

ĐỘI TRƯỞNG

- Như để gửi;
- Lưu VT + HS

Hoàng Văn Phương

16


ỦY BAN NHÂN DÂN
HUYỆN BA VÌ
Số:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

/QĐ - UBND

Ba Vì, ngày

tháng 10 năm 2015

QUYẾT ĐỊNH
V/v xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Nguyễn Đức Tường là lái xe, địa
chỉ: Tổ 2, phường Đồng Quang, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái nguyên và Bà La

Thị Ánh Tuyết là chủ lâm sản, địa chỉ: xã Sơn Cẩm, huyện Phú Lương, tỉnh
Thái Nguyên.
CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN BA VÌ
Căn cứ Luật tổ chức HĐND&UBND ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Luật Bảo vệ và phát triển rừng ngày 03 tháng 12 năm 2004;
Căn cứ Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012;
Căn cứ Nghị định số 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ
về quy định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ
rừng và quản lý lâm sản; Nghị định số 40/2015/NĐ- CP ngày 27/4/2015 của
Chính phủ về việc Sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 157/2013/NĐ-CP
ngày 11/11/2013 của chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý
rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản;
Xét đề nghị của Đội trưởng Đội kiểm lâm cơ động và PCCCR số 2 tại Tờ
trình số 46/TTr-KL ngày 08/10/2015 về việc đề xuất xử phạm vi phạm hành
chính đối vối ông Nguyễn Đức Tường là lái xe địa chỉ: Tổ 2, phường Đồng
Quang, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái nguyên và bà: La Thị Ánh Tuyết là chủ lâm
sản, địa chỉ; xã Sơn Cẩm, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên về hành vi vận
chuyển lâm sản trái pháp luật.
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Xử phạt vi phạm hành chính đối với:
* Ông: Nguyễn Đức Tường là lái xe địa chỉ: Tổ 2, phường Đồng Quang, TP
Thái Nguyên, tỉnh Thái nguyên về hành vi vận chuyển lâm sản trái pháp luật.
- Hình thức xử phạt: Phạt tiền
- Mức phạt: 25.000.000đ (Hai mươi năm triệu đồng).
- Phạt bổ sung: Tước quyền sử dụng giấy phép lái xe trong thời gian 06
tháng.
* Bà: La Thị Ánh Tuyết là chủ lâm sản, địa chỉ; xã Sơn Cẩm, huyện Phú Lương,
tỉnh Thái Nguyên về hành vi vận chuyển, mua bán lâm sản trái pháp luật.
17



- Hình thức xử phạt: Phạt tiền
- Mức phạt: 25.000.000đ (Hai mươi năm triệu đồng).
- Hình phạt bổ sung: Tịch thu toàn bộ 30 thanh gỗ nghiến xẻ nhóm IIA,
khối lượng: 1,03 m3 nhập kho sung công quỹ Nhà nước
Lý do: Ông Nguyễn Đức Tường có hành vi tái phạm vận chuyển lâm sản
trái pháp luật với biển giả; Bà La Thị Ánh Tuyết có hành vi vận chuyển, mua
bán lâm sản trái pháp luật.
Các hành vi trên đã vi phạm Điều 12 Luật Bảo về và phát triển rừng và vi
phạm Điều 22, khoản 4, điểm đ đối với lái xe; Điều 22, khoản 14 và Điều 23,
khoản 4, điểm đ đối với chủ lâm sản được quy định tại Nghị định số
157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ về quy định xử phạt vi phạm
hành chính về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.
Điều 2. Ông Nguyễn Đức Tường và Bà La Thị Ánh Tuyết có trách nhiệm
nộp tiền phạt vi phạm hành chính tại kho bạc Nhà nước Huyện Ba Vì trong thời
hạn 10 ngày kể từ ngày ra quyết định xử phạt. Nếu không tự nguyện chấp hành
quyết định xử phạt thì bị cưỡng chế theo quy định của pháp luật.
Giao Đội trưởng Đội kiểm lâm cơ động và PCCCR số 2 giao quyết định xử
phạt và đôn đốc ông Nguyễn Đức Tường và Bà La Thị Ánh Tuyết nộp đủ số tiền
phạt vi phạm hành chính nêu tại Điều 1 và bàn giao 01 xe ô tô tải nhãn hiệu Cửu
Long, biển kiểm soát: 20C – 06158; 01 Giấy phép lái xe số: 190107193995 sau
khi hết thời hạn bị tước quyền sử dụng mang tên Nguyễn Đức Tường, hạng B2
(bản chính) và 01 Gấy chứng nhận đăng ký xe Ô tô số: 003356 ; mang tên
Nguyễn Thị Lộc, địa chỉ Tổ 2, Đồng Quang, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên
Biển số đăng ký 20C-06158. (bản chính) cho đương sự, đồng thời báo cáo hội
đồng bán đấu giá tài sản tịch thu sung công quỹ Nhà nước huyện Ba Vì và tổ
chức bán đấu giá tài sản tịch thu theo quy định của pháp luật.
Ông Nguyễn Đức Tường và Bà La Thị Ánh Tuyết có quyền khiếu nại,
khởi kiện đối với Quyết định xử phạt vi phạm hành chính này theo quy định của
pháp luật.

Điều 3. Chánh văn phòng HĐND&UBND Huyện, Đội trưởng Đội kiểm
lâm cơ động và PCCCR số 2, phòng Tài chính Kế hoạch huyện, Kho bạc Nhà
nước Ba Vì và các đơn vị có liên quan, Ông Nguyễn Đức Tường và Bà La Thị
Ánh Tuyết chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.
KT. CHỦ TỊCH
Nơi nhận:

PHÓ CHỦ TỊCH

- Như Điều 3;
- CT, các PCT UBND huyện;
- Lưu VT.

Nguyễn Văn Hải
18


19



×