MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................ 1
II. PHẦN NỘI DUNG XỬ LÝ TÌNH HUỐNG ................................................... 2
1. Mô tả tình huống: .............................................................................................. 2
2. Các tình huống có liên quan đến sự việc: ......................................................... 3
3. Phân tích tình huống:......................................................................................... 4
3.1. Phân tích các tình tiết liên quan vụ việc: ....................................................... 4
3.2. Phân tích nguyên nhân phát sinh và hậu quả: ................................................ 6
4. Dự kiến phương án xử lý tình huống: ............................................................... 9
4.1. Mục tiêu giải quyết khiếu nại:........................................................................ 9
4.2. Dự kiến các phương án xử lý tình huống: .................................................... 10
4.3. So sánh, đánh giá và lựa chọn phương án tối ưu: ...................................... 10
4.4. Kế hoạch tổ chức thực hiện phương án đã chọn: ...................................... 12
5. Kiến nghị: ........................................................................................................ 13
III. PHẦN KẾT LUẬN ....................................................................................... 16
Tài liệu tham khảo ............................................................................................... 18
I. PHẦN MỞ ĐẦU
Đất đai là tài sản vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành
phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân
cư, xây dựng cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng... Khi nước ta
bước vào nền kinh tế thị trường thì đất đai trở thành một thứ hàng hoả cao cấp.
Chính vì điều đó trong những năm gần đây, tình hình đất đai ở nước ta diễn biến
khá phức tạp, tình trạng tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về việc quản lý, sử dụng
đất đai ngày càng tăng. Đảng và Nhà nước đã ban hành hành nhiều chủ trương,
chính sách, nhiều biện pháp thực hiện cải cách ruộng đất nhằm góp phần ổn định
kinh tế, an ninh trật tự xã hội và thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. Tuy
nhiên, vẫn còn tồn tại những bất cập trong việc ban hành và thực thi các chính
sách về đất đai, cũng như công tác quản lý đất đai ở một số nơi còn lỏng lẻo, có
phần buông lỏng dẫn đến tình trạng tranh chấp, khiếu nại, tố cáo.
Tại Thành phố Hà Nội nói chung và tại huyện Thanh Trì nói riêng, trong
những năm gần đây do tác động của cơ chế thị trường, tình hình đất đai bắt đầu
sôi động; bên cạnh đó, công tác quản lý, sử dụng đất ở một số địa phương còn
nhiều hạn chế, bất cập trong việc ban hành và thực thi các chính sách về đất đai,
do đó tình trạng tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về việc quản lý, bồi thường, giải
tỏa, tái định cư và sử dụng đất đai có xu hướng gia tăng. Đây chính là vấn đề
bức xúc hiện nay của các cơ quan nhà nước và của toàn xã hội.
Qua hơn 04 tháng học tập Bồi dưỡng tiêu chuẩn ngạch Chuyên viên lớp
K3A-2015, nhằm thu hoạch những gì đã học và bằng sự hiểu biết, kinh nghiệm
của bản thân, tôi xin phân tích, đánh giá tình huống “Giải quyết khiếu nại của
công dân trong việc bồi thường giải tỏa, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất” và tìm ra những nguyên nhân của sai phạm phát sinh bức xúc của công
dân, dẫn đến việc khiếu nại. Từ đó, kiến nghị một số giải pháp để tăng cường
hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước trên lĩnh vực đất đai, góp phần đáp ứng
yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
II. PHẦN NỘI DUNG XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
1. Mô tả tình huống:
Ngày 25/12/2014, ông Vương Tiến Lộc, địa chỉ: Thôn Lưu Phái, xã Ngũ
Hiệp, huyện Thanh Trì có đơn khiếu nại Quyết định số 7310/QĐ – UBND ngày
24/12/2014 của UBND huyện Thanh Trì về việc phê duyệt phương án bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư để thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình cầu
Ngọc Hồi tại km 186 + 300 – Quốc Lộ 1A, huyện Thanh Trì.
Nội dung đơn ông Vương Tiến Lộc trình bày: Năm 1984, do gia đình
đông nhân khẩu mà diện tích đất ở không đủ để sinh sống, thấy ở dưới cầu Ngọc
Hồi có một chỗ đất bỏ hoang diện tích khoảng 60m2 nên ông xuống san lấp và
làm 2 gian hàng để vợ xuống buôn bán.
Năm 1986 khi đủ tuổi về hưu, ông dọn xuống đấy ở cùng và mở thêm của
hàng sửa chữa xe đạp. Đến năm 1988 ông có đơn xuống UBND xã Ngũ Hiệp
xem xét về việc vợ chồng ông dọn xuống cầu Ngọc Hồi ở và làm ăn sinh sống.
UBND xã Ngũ Hiệp thấy hoàn cảnh gia đình ông khó khăn, nhà ở lại chật chội,
nên UBND xã đã tạo điều kiện và yêu cầu ông làm giấy cam kết khi nào nhà
nước thu hồi thì ông phải trả lại.
Từ đó đến nay 2 vợ chồng ông ở cầu Ngọc Hồi được gần 30 năm. Chỗ ở
100m2 ở ngã ba phố Lưu Phái, xã Ngũ Hiệp ông đã cho các con ở và đứng tên,
có 10 nhân khẩu đang ăn ở và sinh sống trong diện tích 100m2 là 2 con trai, 2
con dâu, 1 cháu gái, 4 cháu nội và 1 cháu ngoại.
Ngày 24/12/2014, ông nhận Quyết định số 7309/QĐ – UBND ngày
24/12/2014 của UBND huyện Thanh Trì về việc thu hồi 57,2m 2 đất ông Vương
Tiến Lộc đang quản lý và sử dụng để thực hiện dự án đầu tư xây dựng công
trình cầu Ngọc Hồi tại km 186 + 300 – Quốc Lộ 1A, huyện Thanh Trì và Quyết
định số 7310/QĐ – UBND ngày 24/12/2014 của UBND huyện Thanh Trì về
việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để thực hiện dự án
đầu tư xây dựng công trình cầu Ngọc Hồi tại km 186 + 300 – Quốc Lộ 1A,
huyện Thanh Trì.
Sau khi xem xét kỹ ông không đồng ý nội dung Quyết định số 7310/QĐ –
2
UBND ngày 24/12/2014 của UBND huyện Thanh Trì về việc phê duyệt phương
án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để thực hiện dự án đầu tư xây dựng công
trình cầu Ngọc Hồi tại km 186 + 300 – Quốc Lộ 1A, huyện Thanh Trì. Vì vậy,
ông Vương Tiến Lộc khiếu nại đến UBND huyện Thanh Trì.
2.Các tình huống có liên quan đến sự việc:
Ngày 26/6/2009, UBND thành phố Hà Nội ban hành Quyết định số
3197/QĐ-UBND về việc duyệt chủ trương đầu tư Dự án xây dựng công trình
cầu Ngọc Hồi tại km 186 + 300 – Quốc Lộ 1A, huyện Thanh Trì.
Sau khi nhận được dự thảo phương án, ngày 20/10/2014 UBND huyện đã có
văn bản số 2351/UBND – GPMB báo cáo UBND Thành phố, Ban chỉ đạo GPMB
thành phố đề xuất, kiến nghị cho phép UBND huyện bồi thường về đất cho gia
đình ông Lộc theo quy định tại mục 3, điều 23 nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ.
Ngày 26/11/2014, Ban Chỉ đạo GPMB Thành phố có tờ
trình số
1075/TTr – BCĐ báo cáo, trình UBND Thành phố và được UBND Thành phố
chấp thuận tại văn bản số số 9533/UBND – XDCB ngày 08/12/2014 về việc
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong công tác GPMB dự án xây dựng cầu Ngọc
Hồi tại km 186 + 300 Quốc lộ 1A.
Ngày 24/12/2014, UBND huyện Thanh Trì ban hành Quyết định số
7309/QĐ – UBND về việc thu hồi 57,2m 2 đất ông Vương Tiến Lộc đang quản
lý và sử dụng để thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình cầu Ngọc Hồi tại
km 186 + 300 – Quốc lộ 1A, huyện Thanh Trì.
Ngày 24/12/2014, UBND huyện Thanh Trì ban hành Quyết định
số7310/QĐ – UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư để thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình cầu Ngọc Hồi tại km 186 +
300 – Quốc Lộ 1A, huyện Thanh Trì đối với hộ gia đình ông Vương Tiến Lộc.
Không đồng ý Quyết định số7310/QĐ – UBND ngày 24/12/2014 của
UBND huyện Thanh Trì về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư để thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình cầu Ngọc Hồi tại km 186
+ 300 – Quốc Lộ 1A, huyện Thanh Trì, ông Vương Tiến Lộc khiếu nại đến UBND
huyện Thanh Trì. Vụ việc được giao Thanh tra huyện Thanh Trì thụ lý xác minh,
tham mưu Chủ tịch UBND huyện giải quyết.
3. Phân tích tình huống:
Để có cơ sở tham mưu Chủ tịch UBND huyện giải quyết hợp tình, hợp lý
các chính sách để giải quyết vụ việc, đảm bảo đúng quy định pháp luật. Thanh
tra huyện phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, tài liệu và xác minh, làm việc với các cá
nhân, tổ chức liên quan để làm sáng rõ vấn đề.
3.1. Phân tích các tình tiết liên quan vụ việc:
* Làm việc với ông Vương Tiến Lộc, địa chỉ: Thôn Lưu Phái, xã Ngũ
Hiệp, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
Liên quan nguồn gốc 57,2m2 đất ông Lộc trình bày như sau: Diện tích đất
ở vị trí dưới cầu Ngọc Hồi là do ông san lấp từ năm 1984. Do gia đình đông
nhân khẩu mà diện tích đất ở lại chật hẹp nên ông tự dọn ra để ở.
Ngày 6/6/1988, ông có đơn gửi UBND xã xin được ăn ở sinh hoạt tại diện
tích đất trên và cam kết khi nào nhà nước thu hồi thì sẽ trả lại.
Ngày 24/12/2014, ông nhận được Quyết định số7310/QĐ – UBND về
việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để thực hiện dự án
đầu tư xây dựng công trình cầu Ngọc Hồi tại km 186 + 300 – Quốc Lộ 1A,
huyện Thanh Trì. Ông không đồng ý 2 điểm:
+ Gia đình sử dụng 57,2 m2 đất từ năm 1984, gia đình phải được bồi
thường với mức giá 12.600.000đồng như các hộ gia đình khác.
+ Ngoài diện tích trên ông không còn nơi ăn ở nào khác trên địa bàn xã
nên gia đình đề nghị được bồi thường bằng đất ở tái định cư theo quy định.
Qua làm việc, ông Vương Tiến Lộc cung cấp các tài liệu gồm: Quyết định
số 7309/QĐ – UBND ngày 24/12/2014 của UBND huyện Thanh Trì về việc thu
hồi 57,2m 2 đất ông Vương Tiến Lộc đang quản lý và sử dụng để thực hiện dự
án đầu tư xây dựng công trình cầu Ngọc Hồi tại km 186 + 300 – Quốc Lộ 1A,
huyện Thanh Trì và Quyết định số 7310/QĐ – UBND ngày 24/12/2014 của
UBND huyện Thanh Trì về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư để thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình cầu Ngọc Hồi tại km 186
4
+ 300 – Quốc Lộ 1A, huyện Thanh Trì. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
2 con trai. Giấy xác nhận về việc sử dụng đất, các tài sản gắn liền với đất bị thu
hồi và về hộ gia đình cùng số nhân khẩu đang trực tiếp sinh sống tại địa điểm
thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng cầu Ngọc Hồi tại Km 186+300
Quốc lộ 1A, huyện Thanh Trì. Hồ sơ kỹ thuật thửa đất trong phạm vi thu hồi.
Bản cam kết với UBND xã.
* Làm việc UBND xã Ngũ Hiệp:
Kiểm tra bản đồ đo đạc 299/TTg lập năm 1986, diện tích 57,2m2 đất ông
Vương Tiến Lộc quản lý sử dụng không được đo đạc thể hiện trên bản đồ, chính
vì vậy không thể hiện trên sổ mục kê do UBND xã quản lý.
Theo bản đồ đo đạc năm 1994, 57,2m2 hộ gia đình ông Vương Tiến Lộc
sử dụng thuộc thửa số 50, tờ bản đồ số 22, đất phi nông nghiệp (một phần đất
sông Tô Lịch và một phần đường quốc lộ 1A) do UBND xã quản lý.
Về nguồn gốc, quá trình sử dụng 57,2m2 của hộ gia đình ông Vương Tiến
Lộc:
Năm 1988, ông Vương Tiến Lộc có giấy xin đổ đất để san lấp làm lều sửa
xe đạp và cam kết khi nhà nước cần để sử dụng việc công ích thì xin trả lại được
UBND xã Ngũ Hiệp xác nhận. Đơn xin phép đổ đất san lấp hỗ trũng cạnh bốt
cầu Ngọc Hồi ngày 06/6/1988 của ông Vương Tiến Lộc được UBND xã Ngũ
Hiệp xác nhận ngày 10/6/1988 có nội dung: “Đề nghị UBND xã cho tôi được
làm ra cạnh chỗ bốt cầu một quán để làm nghề, phục vụ và sinh sống thêm, khi
nào nhà nước cần đến sử dụng việc công ích tôi xin trả lại”.
Tại buổi làm việc ngày 17/3/2015 giữa Thanh tra huyện với UBND xã
Ngũ Hiệp, UBND xã Ngũ Hiệp báo cáo: Hiện nay ngoài thửa đất diện tích
57,2m2 ông Vương Tiến Lộc đang sử dụng tại phố Lưu Phái ông Lộc không còn
nơi ăn ở nào khác trên địa bàn xã Ngũ Hiệp.
* Làm việc với Ban BTGPMB
Phần diện tích gia đình ông Lộc đang sử dụng nằm trong chỉ giới thu hồi
đã được ông Lộc cam kết khi nào nhà nước thu hồi cần thì gia đình trả lại, vì vậy
Chủ đầu tư đã lập phương án bồi thường, hỗ trợ trong đó không bồi thường, hỗ
trợ về đất cho gia đình ông Lộc và niêm yết công khai.
Sau khi nhận được dự thảo phương án, ngày 20/10/2014 UBND huyện đã có
văn bản số 2351/UBND – GPMB báo cáo UBND Thành phố, Ban chỉ đạo GPMB
thành phố đề xuất, kiến nghị cho phép UBND huyện bồi thường về đất cho gia
đình ông Lộc theo quy định tại mục 3, điều 23 nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ. Diện tích được bồi thường không vượt quá hạn mức
công nhận đất ở quy định tại khoản 4, điều 4 quyết định số 22/2014/QĐ – UBND
ngày 20/6/2014 của UBND Thành phố.
Ngày 26/11/2014, Ban Chỉ đạo GPMB Thành phố có tờ trình số
1075/TTr – BCĐ báo cáo, trình UBND Thành phố và được UBND Thành phố
chấp thuận tại văn bản số số 9533/UBND – XDCB ngày 08/12/2014 về việc
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong công tác GPMB dự án xây dựng cầu Ngọc
Hồi tại km 186 + 300 Quốc lộ 1A. Trong đó có nội dung “Xét tình hình thực tế
quản lý, quá trình sử dụng đất của hộ gia đình ông Vương Tiến Lộc, liên ngành
thống nhất trình UBND Thành phố cho phép UBND huyện Thanh Trì hỗ trợ
bằng 50% giá đất phi nông nghiệp.
Đối chiếu với quy định nên trên, UBND huyện phê duyệt phương án trong
đó hỗ trợ bằng 50% giá đất phi nông nghiệp tại vị trí 1 đường Ngọc Hồi (Quốc
lộ 1A đoạn từ giáp xã Tứ Hiệp đến cầu Ngọc Hồi, phía đối diện đường tầu): Đơn
giá bằng 50% * 4.000.000 đồng/m2 = 2.000.000 đồng/m2) là đúng quy định,
kiến nghị của gia đình được bồi thường với mức giá 12.600.000 đồng/m2 đất là
không có cơ sở thực hiện.
Về nội dung ông Vương Tiến Lộc yêu cầu bồi thường bằng đất ở đối với
57,2m2 đất bị thu hồi: Phần diện tích đất gia đình ông Lộc đang sử dụng nằm
trong chỉ giới thu hồi đã được ông Lộc cam kết khi nào nhà nước cần thì gia
đình trả lại. Vì vậy, khi lập phương án bồi thường, hỗ trợ các đơn vị cho rằng gia
đình ông Lộc không được xem xét tái định cư.
3.2. Phân tích nguyên nhân phát sinh và hậu quả:
a. Nguyên nhân:
* Nguyên nhân khách quan:
- Nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng, mở rộng đô thị, một bộ phận nhân dân
bị thu hồi đất để xây dựng công trình công cộng, quỹ đất canh tác bị thu hẹp,
công ăn việc làm của một bộ phận người dân còn nhiều khó khăn, thiếu ổn định,
dân số phát triển nhanh. Mặt khác, cơ chế thị trường tác động mạnh đến giá cả
bất động sản, là cái cớ để một bộ phận người dân đặt ra cho nhà nước là phải có
chính sách đền bù, hoàn trả đất đai, nhà cửa theo yêu cầu mong muốn của họ
6
ngoài quy định của pháp luật.
- Cơ chế, chính sách pháp luật trên một số lĩnh vực, nhất là lĩnh vực quản
lý đất đai còn nhiều bất cập, còn chồng chéo, thiếu tính đồng bộ, thiếu cụ thể,
chưa rõ ràng, chưa phù hợp thực tế, chậm đi vào cuộc sống và không phát huy
được hiệu quả, nhất là trong quản lý và sử dụng đất đai.
- Một số quy định của Luật Khiếu nại, Luật Đất đai, Luật Tố tụng hành
chính có nhiều điểm chưa thống nhất, còn có sự mâu thuẫn giữa các văn bản
pháp luật; chưa có cơ chế thỏa đáng đền bù thiệt hại xảy ra để khắc phục hậu
quả khi khiếu nại của công dân là đúng; quy định về bồi thường thiệt hại do oan,
sai trong lĩnh vực hành chính còn thiếu và chưa rõ ràng.
- Các quy định của pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện các quyết định giải
quyết khiếu nại, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực khiếu nại
chưa đầy đủ. Hệ thống thanh tra hiện nay là công cụ của chính quyền các cấp,
nhưng chỉ có quyền kiến nghị khi kết thúc thanh tra, không được bảo đảm chỉ
tuân thủ pháp luật theo luật định, dẫn đến nhiều trường hợp kết luận thanh tra
bảo vệ quyền lợi cho người khiếu nại nhưng không phù hợp với ý chí và lợi ích
của người đứng đầu chính quyền các cấp, nơi xảy ra khiếu kiện là kết luận thanh
tra sẽ bị vô hiệu.
- Việc nhận thức pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của một số công
dân hạn chế, một bộ phận bị xúi giục kích động, đặc biệt có một số đối tượng
tiêu cực đã liên kết, vận động khiếu nại, gây áp lực cho chính quyền các cấp đòi
giải quyết theo yêu cầu không chính đáng hoặc vượt quá khuôn khổ theo quy
định pháp luật.
- Ngoài ra, chưa có quy định cũng như các chế tài để xử lý đối với những
người đeo bám khiếu nại dai dẳng, khiếu nại ra ngoài phạm vi quy định của
pháp luật, gây rối, gây mất trật tự an ninh.
* Nguyên nhân chủ quan:
- Việc thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước nhất là việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở còn nhiều hạn chế, chưa
thực hiện đúng chủ trương dân biết, dân bàn, dân kiểm tra; các cấp chính quyền
chưa quan tâm nhiều, đến công tác tuyên truyền, vận động, giải thích về chủ
trương, chính sách của Đảng, nhà nước về đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trên
địa bàn để người dân biết thực hiện, từ đó tích cực ủng hộ, tự giác chấp hành
việc thu hồi đất và giải tỏa mặt bằng. Quá trình triển khai thực hiện dự án tiến
hành chưa đúng trình tự thủ tục pháp luật quy định, chưa công bằng, thiếu công
khai, dân chủ. Công tác tái định cư, giải quyết các chính sách cho người dân làm
chưa tốt, chưa quan tâm giải quyết thỏa đáng lợi ích cho người dân và vân đê an
sinh xã hội đối với người có đất bị thu hồi.
- Công tác chỉ đạo điều hành và quản lý nhà nước về lĩnh vực đất đai còn
nhiều yếu kém, bị buông lỏng trong thời gian dài, để người dân tự ý sang
nhượng chuyển mục đích sử dụng đất trái phép; nhiều vi phạm trong quản lý
quy hoạch, chậm quy hoạch chi tiết việc sử dụng đất xây dựng cơ sở hạ tầng dẫn
đến người dân không thể ổn định cuộc sống, nhà cửa không được cải tạo, xây
dựng lại vì nằm trong quy hoạch...
- Kỷ cương, kỷ luật hành chính trong giải quyết khiếu nại chưa nghiêm,
cấp trên đã có ý kiến kết luận, quyết định chỉ đạo giải quyết nhưng cấp dưới
không thực hiện làm cho người dân bất bình tiếp tục khiếu nại lên cấp trên.
- Sự phối hợp còn thiếu chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, địa phương
trong quá trình giải quyết khiếu nại, một số vụ việc phức tạp, ý kiến giải quyết
của các cơ quan còn khác nhau, không trao đổi, bàn bạc thấu đáo dẫn đến việc
giải quyết không dứt điểm.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo
ở nhiều nơi chưa sâu rộng, chưa thường xuyên, nội dung tuyên truyền còn đơn
điệu, thiếu cụ thể và chưa phù hợp với thực tiễn; kinh phí dành cho công tác
tuyên truyền hàng năm quá ít và eo hẹp. Chưa chú trọng đến tuyên truyền, giáo
dục, xây dựng ý thức tôn trọng pháp luật trong nhân dân, dẫn đến nhiều người
dân chưa hiểu hết hoặc chưa hiểu đầy đủ, hiểu chưa đúng các quy định của pháp
luật, nhất là trong lĩnh vực đất đai, nhà ở, bồi thường khi thu hồi đất.
- Lãnh đạo địa phương còn xem nhẹ trách nhiệm giải quyết khiếu nại,
thực hiện giải quyết , chưa nghiêm túc; quá trình giải quyết còn thiếu khách
8
quan, phương pháp giải quyết cứng nhắc, không phù hợp thực tế nên ảnh hưởng
đến quyền lợi của công dân.... Do đó, rất dễ phát sinh đơn thư khiếu nại của
công dân.
b. Hậu quả:
- Việc ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại chưa xem xét kỹ các quy
định pháp luật, điều kiện, hoàn cảnh của công dân có thể gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến quyền và lợi ích của công dân, gây ra tâm lý bức xúc, căng thẳng của
người dân đối với chính quyền địa phương.
- Việc giải quyết chưa thấu tình, đạt lý làm ảnh hưởng đến hiệu quả của
công tác giải quyết khiếu nại. Trong nhiều trường hợp có thể dẫn đến tình trạng
khiếu nại kéo dài, tạo điểm nóng, gây bức xúc trong dư luận quần chúng nhân
dân, ảnh hưởng đến trật tự an ninh xã hội.
- Công tác quản lý đất đai yếu kém của chính quyền địa phương gây khó
khăn trong việc kết luận chính xác các khiếu nại của công dân, gây phức tạp tình
hình khiếu nại. Mặt khác, nó còn làm giảm lòng tin của người dân đối với Đảng,
Nhà nước trong công tác quản lý đất đai nói riêng, quản lý nhà nước trên các
lĩnh vực nói chung.
4. Dự kiến phƣơng án xử lý tình huống:
4.1. Mục tiêu giải quyết khiếu nại:
Xuất phát từ đơn khiếu nại của ông Vương Tiến Lộc, để giải quyết vụ
việc đúng pháp luật và có sức thuyết phục, quyết định giải quyết có tính khả thi
cao, đúng thẩm quyền, chúng ta cần đề ra các phương án giải quyết để so sánh
và lựa chọn phương án giải quyết tối ưu. Muốn vậy, phương án giải quyết cần
đảm bảo các mục tiêu sau:
- Phải đảm bảo đúng theo chính sách của Đảng và Nhà nước, pháp luật
hiện hành;
- Phải đúng thẩm quyền pháp lý, thẩm quyền chuyên môn, đảm bảo
nguyên tắc pháp chế, đảm bảo tính chấp hành;
- Phải đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân;
- Phải dựa trên cơ sở khoa học và phù hợp với đặc điểm của tình huống
cần giải quyết;
- Phải đảm bảo tính khách quan, công tâm, tạo tâm lý tích cực cho cấp
chính quyền cũng như cá nhân người chấp hành, người có liên quan.
4.2. Dự kiến các phương án xử lý tình huống:
Qua nội dung khiếu nại của ông Vương Tiến Lộc, các tài liệu, chứng cứ
thu thập trong quá trình thẩm tra xác minh, có thể đưa ra các phương án giải
quyết khiếu nại của ông Lộc như sau:
* Phương án 1:
- Về đất: Hộ gia đình ông Vương Tiến Lộc không đủ điều kiện được bồi
thường bằng đất ở đối với 57m2 đất mà chỉ được hỗ trợ bằng 50% giá đất phi
nông nghiệp tại vị trí 1 đường Ngọc Hồi;
- Về tái định cư: Không xem xét cấp đất tái định cư cho hộ ông Lộc.
* Phương án 2:
- Về đất: Hộ gia đình ông Vương Tiến Lộc không đủ điều kiện được bồi
thường bằng đất ở đối với 57m2 đất mà chỉ được hỗ trợ bằng 50% giá đất phi
nông nghiệp tại vị trí 1 đường Ngọc Hồi;
- Về tái định cư: vận dụng chính sách xã hội xem xét bán cho hộ ông Lộc
01 lô đất tái định cư theo diện không còn nơi ăn ở nào khác trên địa bàn.
4.3. So sánh, đánh giá và lựa chọn phương án tối ưu:
* Đổi với phương án 1:
- Ưu điểm: Việc không xem xét bồi thường đất, không cấp đất tái định cư
cho ông Lộc là phù hợp quy định pháp luật. Vì theo các tài liệu, chứng cứ thu
thập được trong quá trình thẩm tra xác minh thể hiện 57,2m2 đất gia đình ông
Vương Tiến Lộc sử dụng không được đo đạc thể hiện trên bản đồ 299 lập năm
1986, theo bản đồ đo đạc năm 1994, thuộc thửa số 50, tờ bản đồ số 22, đất phi
nông nghiệp (một phần đất sông Tô Lịch và một phần đường quốc lộ 1A) do
UBND xã quản lý được UBND xã Ngũ Hiệp xác nhận, do đó khi nhà nước thu
hồi đất mở rộng đường 1A, UBND huyện Thanh Trì đã xem xét báo cáo được
UBND Thành phố đồng ý hỗ trợ bằng 50% giá đất phi nông nghiệp tại vị trí 1
đường Ngọc Hồi: (50% * 4.000.000 đồng/m2 = 2.000.000 đồng/m2). Đơn giá
10
hỗ trợ UBND huyện phê duyệt tại quyết định số 7310/QĐ – UBND ngày
24/12/2014 của UBND huyện Thanh Trì là đúng quy định.
- Nhược điểm: Việc không xem xét bồi thường mà chỉ hỗ trợ về đất bằng
50% giá đất phi nông nghiệp tại vị trí 1 đường Ngọc Hồi và không xem xét cấp
đất tái định cư cho hộ ông Lộc có thể sẽ dẫn đến tâm lý tiêu cực, bức xúc của
công dân đối với chính quyền. Vì ông Lộc đã sử dụng diện tích đất trên được
gần 30 năm, và gia đình cũng thuộc diện khó khăn không có chỗ ở nào khác. Do
đó, rất dễ dẫn đến tình trạng chống đối quyết liệt của gia đình ông Lộc, gây mất
trật tự an ninh xã hội, ảnh hưởng đến tiến độ triển khai thực hiện Dự án và chính
sách “an dân” của Đảng và Nhà nước; sẽ khiếu kiện dai dẳng, kéo dài, gây mất
ổn định an ninh, trật tự.
* Đối với phương án 2:
- Ưu điểm: Xét về mặt tình cảm, thì việc xem xét hỗ trợ bằng 50% giá đất
phi nông nghiệp tại vị trí 1 đường Ngọc Hồi và vận dụng chính sách xã hội xem
xét bán cho ông Lộc 01 lô đất tái định cư theo diện không còn nơi ăn ở nào khác
trên địa bàn sẽ có phần hợp lý, vì điều này góp phần hỗ trợ một phần tiền mà
ông Lộc đã đầu tư xây dựng nhà, làm giảm thái độ căng thẳng của công dân,
chấp hành của công dân đối với nhà nước. Đồng thời, việc xem xét bán cho ông
Lộc 01 lô đất theo diện không còn nơi ăn ở nào khác trên địa bàn là thể hiện sự
quan tâm của nhà nước đối với đời sống của nhân dân, giúp người dân ổn định
cuộc sống sau thu hồi đất, thể hiện đúng với chính sách “an dân” của Đảng và
Nhà Nước, về mặt pháp lý, các chính sách hỗ trợ nêu trên là phù hợp với quy
định của pháp luật được quy định tại Quyết định 23/2014/QĐ – UBND ngày
20/6/2014 của UBND Thành phố Hà Nội Ban hành quy định các nội dung thuộc
thẩm quyền của UBND Thành phố Hà Nội do Luật đất đai năm 2013 và các
Nghị định của Chính phủ giao cho về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội, tại khoản 1, Điều 26 về Giao
đất, bán căn hộ chung cư đối với các trường hợp phải di chuyển chỗ ở nhưng
không đủ điều kiện được bồi thường về đất ở (Thực hiện khoản 4 Điều 6 và
khoản 5 Điều 7 Nghị định 47/2014/NĐ-CP của Chính phủ) quy định: “Hộ gia
đình, cá nhân đang sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất gắn liền với nhà ở
thuộc trường hợp phải di chuyển chỗ ở nhưng không đủ điều kiện được bồi
thường về đất ở, chỉ được hỗ trợ tỷ lệ % giá đất, nếu không có chỗ ở nào khác
trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất thu hồi và nơi đăng ký hộ khẩu
thường trú thì được mua 01 căn hộ chung cư có diện tích nhỏ nhất trong quỹ nhà
tái định cư của Thành phố hoặc giao 01 suất đất tái định cư tối thiểu (30m2)
trong trường hợp địa phương còn quỹ đất tái định cư theo giá quy định của
UBND Thành phố. Phần diện tích vượt diện tích nhà, đất tái định cư tối thiểu
phải mua theo giá quy định nhân hệ số điều chỉnh K = 1,1 và trả tiền ngay một
lần trước khi nhận đất, nhận nhà.”
- Mặc khác, hướng giải quyết nêu trên cũng phù hợp với chủ trương
“thấu tình, đạt lý” trong giải quyết khiếu nại của công dân.
- Nhược điểm: Phương án này có thể tạo ra sự bất đồng ý kiến giữa nhà
nước với những hộ dân không được xem xét. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là hiện
tượng tâm lý nhất thời, không căn bản. Trong quá trình chỉ đạo điều hành,
UBND huyện có thể điều chỉnh một số nội dung làm an lòng dân.
Qua phân tích ưu, nhược điểm của 02 phương án xử lý khiếu nại của ông
Vương Tiến Lộc nói trên, bản thân tôi lựa chọn phương án 2 để giải quyết, vì
phương án này vừa đảm bảo phù hợp quy định pháp luật, vừa đảm bảo tính khả
thi và quyền, lợi ích của người khiếu nại cũng được đảm bảo, thể hiện đúng với
chính sách “an dân” của Đảng và Nhà Nước.
4.4. Kế hoạch tổ chức thực hiện phương án đã chọn:
Để triển khai tổ chức thực hiện phương án 2, cần tiến hành các bước sau:
- Bước 1: Thanh tra huyện tiến hành mời UBND xã Ngũ Hiệp, phòng Tài
nguyên và Môi trường, Ban BTGPMB và các phòng, ban có liên quan để họp
bàn thống nhất các nội dung tại phương án 2 trước khi tham mưu Chủ tịch
UBND huyện xem xét, quyết định.
- Bước 2: Thanh tra huyện hoàn chỉnh báo cáo xác minh trình UBND
huyện xem xét, quyết định và chuẩn bị hồ sơ, nội dung đối thoại với ông Vương
Tiến Lộc. Qua đối thoại sẽ vận động, thuyết phục, giải thích các quy định pháp
12
luật đất đai cho ông Lộc hiểu và chấp hành.
- Bước 3: Thanh tra huyện tham mưu Chủ tịch UBND huyện ban hành
Quyết định giải quyết khiếu nại đối với ông Vương Tiến Lộc với nội dung:
+ Giải quyết hỗ trợ bằng 50% giá đất phi nông nghiệp tại vị trí 1 đường
Ngọc Hồi tại vị trí 1 đường Ngọc Hồi: (50% * 4.000.000 đồng/m2 = 2.000.000
đồng/m2) theo đơn giá hỗ trợ UBND huyện phê duyệt tại quyết định số
7310/QĐ – UBND ngày 24/12/2014 của UBND huyện Thanh Trì.
+ Xem xét bán cho hộ ông Lộc 01 lô đất tái định cư. Lý do: Hộ ông
Vương Tiến Lộc không còn nơi ăn ở nào khác trên địa bàn xã.
+ UBND xã Ngũ Hiệp nghiêm túc chấn chỉnh, tăng cường công tác
quản lý nhà nước về đất đai để xử lý các trường họp sử dụng đất không đúng
mục đích, xây dựng nhà ở trái phép tại địa phương, tránh phát sinh khiếu nại
phức tạp về sau.
5. Kiến nghị:
Để đảm bảo thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân, bản thân tôi có một vài kiến nghị giải pháp như sau:
- Các cấp, các ngành cần tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc Chỉ
thị số 09-CT/TW của Ban Bí thư, Thông báo số 130-TB/TW của Bộ Chính
trị, xác định công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo là một nhiệm vụ trọng tâm,
thường xuyên. Và coi trọng việc xem xét, giải quyết các khiếu kiện của công
dân; xem công tác giải quyết khiếu kiện của công dân là nhiệm vụ của cả hệ
thống chính trị.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, trước hết là quy định pháp
luật trong lĩnh vực quản lý đất đai để hạn chế kẽ hở, bất cập, chồng chéo, mâu
thuẫn làm phát sinh đơn thư khiếu nại, tố cáo. Bên cạnh đó, phải nâng quyền cho
Cơ quan Thanh tra các cấp như Cơ quan Kiểm toán chỉ tuân thủ pháp luật theo
luật định không phụ thuộc với ý chí và lợi ích của người đứng đầu chính quyền
các cấp, nơi xảy ra khiếu kiện để kết luận thanh tra có hiệu lực pháp luật.
- Ban hành các quy định cũng như các chế tài để xử lý đối với những
người đeo bám khiếu nại dai dẳng, khiếu nại ra ngoài phạm vi quy định của
pháp luật, gây rối, gây mất trật tự an ninh. Ban hành quy định buộc người đi
khiếu nại phải chịu trách nhiệm trong việc đi khiếu nại. Từ đó giảm bớt những
vụ việc công dân khiếu nại không chính xác.
- Tăng cường phối hợp giữa các ngành, các cấp, các địa phương trong công
tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, trong đó chú trọng đến việc phối hợp
giải quyết tình trạng khiếu kiện đông người, rà soát, giải quyết các vụ khiếu nại, tố
cáo phức tạp, tồn đọng, kéo dài giữa các cơ quan chức năng và giữa cơ quan quản
lý nhà nước với cấp ủy, các tổ chức chính trị xã hội như Ủy ban Mặt trận Tổ quốc,
Hội Nông dân, Hội Luật gia... để tranh thủ ý kiến chỉ đạo, tư vấn nhằm nâng cao
hiệu quả giải quyết, hạn chế khiếu nại, tố cáo vượt cấp lên cấp trên.
- Củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy làm công tác tiếp công dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo; xây dựng đội ngũ làm công tác tiếp dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo có nhận thức tốt về chính trị, có phẩm chất đạo đức, am hiểu pháp
luật, tận tụy phục vụ nhân dân, nêu cao trách nhiệm trong công việc của dân;
kiên quyết xử lý các cán bộ, công chức không đủ phẩm chất, năng lực.
- Đổi mới quy cách làm việc, thực hiện quy chế làm việc khoa học, dân
chủ, có hiệu quả và năng xuất cao; xóa bỏ lối làm việc quan liêu, cửa quyền, vô
trách nhiệm, vô kỷ luật, gây phiền hà cho nhân dân, tăng cường kỷ luật, kỷ
cương nhà nước.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật nói chung
và pháp luật về khiếu nại, tố cáo nói riêng trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức, đảng viên và nhân dân.
- Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn nâng cao, bồi dưỡng nghiệp vụ,
chính trị cho cán bộ làm công tác quản lý đất đai ở địa phương; nâng cao chất
lượng công tác hòa giải ở cơ sở.
- Có chính sách đầu tư kinh phí, trang thiết bị, phương tiện làm việc cần
thiết phù hợp với yêu cầu mới của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá để
quản lý, chỉ đạo điều hành công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo có hiệu lực, hiệu
quả cao;
- Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về đất đai, thường xuyên tổ
14
chức thanh tra, kiểm tra, giám sát công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố
cáo ở địa phương để xử lý kịp thời xử lý, chấn chỉnh các sai phạm, thiếu sót
trong công tác quản lý đất đai và nâng cao chất lượng công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo ở các cấp chính quyền cơ sở.
III. PHẦN KẾT LUẬN
Từ thực tế công tác giải quyết khiếu nại của công dân nói chung và giải
quyết khiếu nại về quản lý đất đai nói riêng của các cấp chính quyền và qua vụ
việc khiếu nại nêu trên, tôi rút ra được một số kết luận sau:
- Đất đai là vấn đề nhạy cảm, những khiếu nại về đất đai luôn chiếm tỷ lệ
lớn trong tổng số các khiếu nại phát sinh; vì vậy nó có tác động rất lớn đến xã
hội. Bên cạnh đó, vì đất đai ngày càng có giá nên những tiêu cực liên quan đến
đất đai vẫn phát sinh trong cuộc sống hiện tại, hơn nữa ngày càng trở nên tinh vi
hơn. Vì vậy cần tăng cường hơn nữa trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo về
đất đai của Thủ trưởng các cấp, ngành sẽ góp phần ổn định đời sống xã hội, phát
triển kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội.
- Việc tiếp nhận, xử lý và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, phản ánh
kiến nghị phải giải quyết ngay từ cơ sở, đảm bảo theo đúng quy định về khiếu
nại, tố cáo nhằm hạn chế thấp nhất việc gửi đơn thư vượt cấp, kéo dài.
- Các cấp ủy đảng, chính quyền, các đoàn thể, các cấp, các ngành cần chủ
động thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực, nhất là
các lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh tiêu cực, dễ phát sinh đơn thư khiếu nại, tố
cáo như quản lý, sử dụng đất; quản lý thu, chi tài chính; chế độ chính sách...
Đồng thời, dành nhiều thời gian cho công tác tiếp công dân, trực tiếp đối thoại
với người khiếu nại để hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của người dân, từ đó có
hướng giải quyết đúng pháp luật, có lý, có tình.
- Thực tế trong công tác giải quyết khiếu nại đất đai cho thấy rất nhiều vụ
việc được giải quyết đúng quy định pháp luật nhưng người giải quyết khiếu nại
vẫn thấy áy náy vì như vậy người dân quá bị thiệt thòi, dù đã cố gắng nghiên
cứu, tìm tòi các quy định nào có lợi hơn để giải quyết cho người dân nhằm giảm
thiểu bớt thiệt thòi cho họ. Trong các trường hợp này, người giải quyết cần vận
dụng các chính sách xã hội kèm vào việc giải quyết.
- Hệ thống pháp luật nói chung và đất đai của nước ta nói riêng khá đồ sộ
và luôn thay đổi nên ngay cả những cán bộ làm trong ngành quản lý đất đai cũng
không phải ai cũng nắm chắc, nắm đầy đủ. Thế nên người dân càng không có
16
điều kiện nắm đầy đủ những chính sách, quy định pháp luật liên quan quyền lợi
của mình. Người có thẩm quyền giải quyết nếu giải thích rõ ràng, đầy đủ cho
công dân hiểu quyền và nghĩa vụ của họ liên quan đến các nội dung họ khiếu nại
thì có thể hạn chế được rất nhiều vụ việc khiếu nại lên cấp trên.
Qua khóa đào tạo, bồi dưỡng tiêu chuẩn ngạch Chuyên viên tại Trường
Cán bộ Lê Hồng Phong được các thầy, cô truyền đạt đã giúp tôi củng cố và hiểu
biết thêm về cơ chế, chính sách, các văn bản pháp luật, để hoàn thiện thêm các
kỹ năng, nghiệp vụ trong ngành cũng như trong công tác tại đơn vị Thanh tra
huyện Thanh Trì. Qua vận dụng kiến thức lý thuyết từ chương trình đào tạo, bồi
dưỡng tiêu chuẩn ngạch Chuyên viên, cũng như kết hợp quy định của pháp luật
để phân tích và đưa ra phương án xử lý tình huống. Tuy nhiên, với trình độ nhận
thức còn hạn chế sẽ còn nhiều thiếu sót trong bài tiểu luận, kính mong thầy, cô
giúp đỡ, đóng góp nhằm giúp tôi vững vàng hơn về những kiến thức lý luận để
áp dụng vào thực tiễn công tác tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn và kính chúc quý thầy, cô dồi dào sức khỏe,
hạnh phúc và thành công trong cuộc sống ./.
Tài liệu tham khảo
- Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992;
- Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân ngày 26 tháng 11
năm 2003.
- Luật Đất đai năm 2013;
- Luật tố tụng hành chính năm 2010;
- Luật Thanh tra năm 2010;
- Luật Khiếu nại năm 2011;
- Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 01 tháng 07 năm 2014 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều Luật Đất đai;
- Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22 thang 9 năm 2011 quy định chi
tiết và hướng dẫn một số điều cùa Luật Thanh tra.
- Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2012 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Khiếu nại;
- Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 01 tháng 07 năm 2014 của Chính
phủ quy định về giá đất;
- Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định
về bồi thường hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất;
- Quyết định 23/2014/QĐ – UBND ngày 20/6/2014 của UBND Thành
phố Ban hành quy định các nội dung thuộc thẩm quyền của UBND Thành phố
Hà Nội do Luật đất đai năm 2013 và các Nghị định của Chính phủ giao cho về
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành
phố Hà Nội.
- Hồ sơ, tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ việc;
- Tài liệu đào tạo Bồi dưỡng tiêu chuẩn ngạch chuyên viên.
TRƢỜNG CÁN BỘ LÊ HỒNG PHONG
LỚP BỒI DƢỠNG NGHẠCH CHUYÊN VIÊN K3A - 2015
----------
TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
XỬ LÝ TÌNH HUỐNG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ PHƢƠNG ÁN
BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ TÁI ĐỊNH CƢ
Học viên thực hiện
:
CHỬ VĂN HẢI
Chức vụ
:
Chuyên viên
Đơn vị công tác
:
Thanh tra huyện Thanh Trì
HÀ NỘI, THÁNG 11/2015