Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

vai trò của pháp luật thuế là gì? Cần có những giảipháp gì để phát huy được vai trò của pháp luật thuế trong nền kinh tế thịtrường hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.75 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU

Nói đến thuế không thể không nhắc đến vai trò của pháp luật thuế, vì pháp
luật thuế là hành lang pháp lý đảm bảo cho việc thu – nộp thuế đúng quy định
của pháp luật, vậy những vai trò của pháp luật thuế là gì? Cần có những giải
pháp gì để phát huy được vai trò của pháp luật thuế trong nền kinh tế thị
trường hiện nay, dưới đây là bài tiểu luận tìm hiểu về những nội dung trên.

NỘI DUNG

1.

KHÁI NIỆM THUẾ
Thuế vừa là phạm trù kinh tế vừa là phạm trù lịch sử. Lịch sử xã hội loài

người đã chứng minh rằng thuế ra đời là một tất yếu khách quan, gắn với sự
hình thành và phát triển của nhà nước. Để duy trì sự tồn tại đồng thời với việc
thực hiện các chức năng của mình, Nhà nước cần có nguồn vật chất để thực
hiện những chỉ tiêu có tính chất xã hội. Bằng quyền lực chính trị, Nhà nước
thu một bộ phận của cải xã hội để có được nguồn vật chất đó. Quan hệ thu –
nộp những nguồn vật chất này chính là thuế. Thu thuế được thực hiện từ hình
thức thu bằng hiện vật chuyển sang thu dưới hình thức thu bằng giá trị.
Đối với Việt Nam, “thuế má” cũng xuất hiện vào thời kì đầu của
chế độ phong kiến nhằm tập trung nguồn công quỹ cho nhà Vua nhưng chủ
yếu dưới dạng cống vật. Ngoài các loại thuế thu ổn định các triều đại còn thu
thêm một số loại thuế như: thuế mỏ, thuế đò, thuế chợ, thuế muối, thuế thổ
sản _ thời Trịnh; thuế xuất xuất cảng, thuế nhập cảng _ thời nguyễn. Đến thời
Pháp thuộc, chính phủ thuộc địa Pháp đặt ra nhiều loại thuế, tiêu biểu là: thuế
rượu, thuế quan, thuế môn bài, thuế thổ trạch,…hệ thống thuế thời kì này

1




mang nặng tính vơ vét, bóc lột. khi Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
ra đời đã xóa bỏ nhiều thứ thuế phi nhân đạo, Nhà nước dần hình thành thứ
thuế mới. Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, yêu cầu cầu đặt ra trong
từng giai đoạn cụ thể, hệ thống thuế của Việt Nam ngày càng đi tới sự ổn định
và hoàn thiện.
Để đưa khái niệm mới về thuế hoàn toàn không đơn giản. Các nhà kinh
tế học đã có quá trình nghiên cứu sâu sắc ở nhiều khía cạnh khác nhau nhằm
tìm khái niệm thuế theo quan điểm của mình. Theo Các Mác: “ thuế là cơ sở
kinh tế của bộ máy nhà nước, là thủ đoạn đơn giản để kho bạc thu được tiền
hay tài sản của người dân để dùng vào việc chi tiêu của nhà nước”. Bằng các
định nghĩa khác, các nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng thuế là “ một hình thức
phân phối thu nhập tài chính của nhà nước để thực hiện chức năng của mình,
dựa vào quyền lực chính trị, tiến hành phân phối sản phẩm thặng dư của xã
hội một cách cưỡng chế và không hoàn lại”.
Ở khía cạnh nghiên cứu thuế với tư cách là nội dung điều chỉnh của pháp
luật, các chuyên gia về thuế nhận định “ thuế là một trật tự đã được thiết lập
hòa bình giữa chính phủ với cộng đồng trong sự tôn trọng thực hiện nghĩa vụ
thu, nộp vào ngân sách. Thuế không có bất kì sự phân biệt đối sử nào giữa
các bang hay vùng lãnh thổ”.
Mặc dù tiếp cận dưới góc độ nào đi chăng nữa thuế cũng mang những đặc
điểm chung nhất định:
Thứ nhất, thuế là khoản thu nộp bắt buộc vào ngân sách. Tính bắt buộc thể
hiện ở chỗ, đối với người nộp thuế, đây là nghĩa vụ chuyển giao tài sản của họ
cho nhà nước khi có đủ điều kiện mà không phải là quan hệ thanh toán dù
trong hợp đồng hay ngoài hợp đồng. Đối với các cơ quanthu thuế, khi thay
mặt nhà nước thực hiện các hành vi nhất định cũng không được phép lựa chọn
thực hiện hay không thực hiện hành vi thu thuế, có sự phân biệt đối xử với
người nộp thuế.


2


Thứ hai, thuế gắn với yếu tố quyền lực. Tính quyền lực của thuế được xuất
phát bởi lí do xuất hiện các khoản thu về thuế của nhà nước. Thuế xuất hiện
cùng với sự xuất hiện của nhà nước, thực hiện việc cung cấp cơ sở vật chất
cho nhà nước thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình. Bằng quyền lực
chính trị, nhà nước tạo ra cho thuế tính cố định, sự tuân thủ của đối tượng nộp
thuế. Các yếu tố như đối tượng nộp thuế, thuế suất,…được quy định trước và
mang tính ổn định trong một khoảng thời gian nhất định. Chỉ gắn với yếu tố
quyền lực, thuế mới đảm bảo nhiệm vụ tạo nguồn thu tài chính cho nhà nước.
Thứ ba, thuế không mang tính đối giá, không hoàn trả trực tiếp. Thuế
không phải là khoản trả khi các đối tượng nọp thuề đã nhận được một lợi ích
hay quyền lợi cụ thể từ phía nhà nước. Khi đủ điều kiện là đối tượng phải nộp
thuế, bất kì “ ai” cũng phải thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước, không phân
biệt họ đã nhận được những lợi ích công cộng nào. Đây là điểm để phân biệt
thuế với các khoản thu _ nộp do đối tượng nộp chỉ thực hiện nghĩa vự của
mình đã nhận được một lợi ích nhất định từ phía nhà nước. Đó là các khoản
thu từ phí, lệ phí. Thuế xuất hiện do nhu cầu chi tiêu của nhà nước, của các
chủ thể quản lí xã hội. Kết quả của việc sử dụng các khoản thu từ thuế chủ
yếu là các sản phẩm công. Điều đó giải thích tại sao thuế không có tính hoàn
trả. Tuy nhiên, kết quả những sản phẩm do nhà nước sử dụng các khoản thu từ
thuế, đó là sự yên bình xã hội, sự phát triển thịnh vượng, chế độ phúc lợi công
cộng,…Nói cách khác, người nộp thuế được hoàn trả một cách gián tiếp
những khoản tiền nộp cho nhà nước.
2.

VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT THUẾ - CÁC GIẢI PHÁP CHỦ


YẾU ĐỂ PHÁT HUY VAI TRÒ ĐÓ TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ.

2.1.

Vai trò của pháp luật thuế.
Như chúng ta đã biết để đảm bảo cho bộ máy nhà nước được duy trì và

phát triển cần có một nguồn tài chính ổn định để tạo điều kiện về cơ sở vật
chất; nguồn thu từ thuế để củng cố an ninh quốc phòng, phát triển giao thông,
3


xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, phát triển văn hóa giáo dục,…Thuế ra
đời như một tất yếu khách quan, dần dần phát triển theo xu hướng ngày càng
hoàn thiện và đáp ứng yêu cầu của xã hội. Thuế đóng vai trò quan trọng trong
việc điều tiết nền kinh tế đất nước, đóng góp vào nguồn thu ngân sách nhà
nước đảm bảo sự tồn tại của nhà nước; mặt khác, thuế lại được nhà nước sử
dụng như là công cụ để thực hiện những nhiệm vụ và mục tiêu nhất định mà
mình đề ra.
Thuế và nhà nước là hai phạm trù lịch sử luôn đi đôi với nhau, chi phối và
phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, thuế vừa được hiểu là công cụ kinh tế hỗ trợ cho
sự tồn tại của nhà nước; mặt khác, thuế lại được nhà nước sử dụng như là
công cụ để thực hiện những nhiệm vụ và mục tiêu nhất định. Mặc dù bất kì
nhà nước có chủ quyền nào cũng được quyền thu thuế nhưng để nguồn thu từ
thuế trở thành hiện thực và đặc thù nhất của mình để giải quyết các mục tiêu
định trước. Có thể chỉ ra hệ thống pháp luật thuế có những vai trò sau đây:
Thứ nhất, pháp luật thuế tạo cơ sở pháp lí quan trọng và ổn định cho
nguồn thu, đáp ứng yêu cầu chi tiêu của nhà nước
Thuế đóng vai trò quan trọng, nguồn thu từ thuế có vị trí quyết định đến

cơ cấu nguồn thu ngân sách nhà nước ( chiếm khoảng 90 % trong tổng thu
ngân sách nhà nước ). Theo quy định tại khoản 1, điều 2 Luật Ngân sách nhà
nước: “ Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế, phí lệ phí,
các khoản thu từ hoạt động kinh tế Nhà nước, các khoản đóng góp của các tổ
chức, cá nhân; các khoản viện trợ, các khoản thu khác theo quy định của pháp
luật”. Mặt khác, theo quy định tại điều 30, điều 31 Luật Ngân sách nhà nước
quy định về nguồn thu của Ngân sách trung ương, nguồn thu của ngân sách
địa phương đa phần các nguồn thu về ngân sách nhà nước được thu từ các loại
thuế như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh
nghiệp và thuế thu nhập cá nhân,…Theo kết quả tho dõi thuế quan qua các
thời kì tồn tại và phát triển cho thấy: thu từ thuế chiếm phần lớn tổng số thu

4


ngân sách nhà nước, đảm nhiệm hàng loạt các yêu cầu chi tiêu cho bộ máy
nhà nước, cho cộng đồng xã hội.
Trong 5 năm vừa qua (2006 - 2010) ngành Thuế thực hiện Chiến lược cải
cách, hiện đại hóa hệ thống thuế và Luật Quản lý thuế, trong bối cảnh kinh tế
trong nước và quốc tế gặp khó khăn do suy giảm, lạm phát. Tuy vậy, ngành
Thuế đã đạt được những kết quả tích cực, tạo đòn bẩy để tiếp tục xây dựng
mục tiêu 5 năm tiếp theo (2011- 2015). Với mục tiêu đề ra cho giai đoạn tiếp
theo là tăng gần gấp 2 lần số thu ngân sách, chiến lược mới của ngành Thuế
cũng đã đề ra những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để có thể hoàn thành)
Kết quả 5 năm (2006 - 2010) vừa qua, tổng thu nội địa đạt khoảng trên
1.150 nghìn tỷ đồng, bằng 116,5% dự toán, tăng gấp hai lần so với giai đoạn
2001-2005; tỷ lệ động viên thu ngân sách nhà nước (NSNN) bình quân đạt
23%/năm. Cơ cấu nguồn thu thay đổi theo chiều hướng tích cực, tỷ trọng thu
từ sản xuất, kinh doanh trong nước (trừ dầu thô) trong tổng thu NSNN tăng từ
52% (năm 2006) lên 63,4% (năm 2010). Số địa phương có số thu trên 1 nghìn

tỷ đồng/năm tăng từ 21 (năm 2006) lên 42 (năm 2010) và số địa phương có số
thu trên 3000 tỷ đồng tăng từ 7 lên 17. Đến năm 2010 có trên 10 địa phương
cân đối được thu chi và có điều tiết về Trung ương.
Trên cơ sở dự báo tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011-2015, ngành Thuế
đặt mục tiêu thu ngân sách gần gấp 2 lần (so với giai đoạn trước); tỷ lệ huy
động thuế, phí đạt khoảng 22-23% GDP; tỷ trọng thu nội địa (không kể dầu
thô) chiếm khoảng 70% tổng thu NSNN. Để thực hiện có kết quả mục tiêu
này, hiện ngành Thuế đã và đang triển khai đồng bộ nhiều giải pháp trọng
tâm.
Trong những năm qua, nguồn thu từ thuế vào ngân sách nhà nước đã huy
động được một phần lớn nguồn tài chính từ xã hội để đầu tư xây dựng các
công trình kết cấu hạ tầng – kinh tế; đầu tư hỗ trợ cho các doanh nghiệp; các
sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa thông tin, văn học nghệ thuật, thể dục thể 5


thao – khoa học công ngệ; quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội; hỗ trợ quỹ
bảo hiểm xã hội, trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội,…Công tác kiểm
soát chi ngân sách qua kho bạc, hoạt động thanh tra, kiểm tra tài chính đã
được tăng cường, thực hiện công khai minh bạch quyết toán và dự toán ngân
sách hàng năm.
Điều 8, Luật Ngân sách nhà nước quy định: “ Ngân sách nhà nước được cân
đối theo nguyên tắc tổng thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi
thường xuyên và tích lũy ngày càng cao vào đầu tư phát triển”. Với những lí
do đó, bất kì quốc gia nào cũng cần phải có và mong muốn có được hệ thống
pháp luật thuế đầy đủ với tư cách là căn cứ pháp lí vững chắc để tạo nguồn thu
ổn định cho ngân sách nhà nước. Mọi thay đổi về cơ cấu hệ thống luật thuế,
nội dung từng luật thuế đều ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả thu ngân sách nhà
nước từ thuế. Vì vậy, có thể khẳng định vai trò của pháp luật thuế trong việc
tạo căn cứ pháp lí hình thành nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước.
Thứ hai, pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ điều tiết nền kinh

tế, thực hiện đường lối trong một thời kì nhất định của nhà nước
Tác động của thuế quan đối với nền kinh tế. Xét dưới góc độ quốc gia
đánh thuế thì thuế quan sẽ mang lại thu nhập thuế cho nước đánh thuế, thuế
quan lại làm phúc lợi chung do nó làm giảm hiệu quả khai thác nguồn lực của
nền kihn tế thế giới, nó làm thay đổi cán cân thương mại, điều tiết hoạt động
xuất khẩu và hoạt động nhập khẩu của quốc gia. Thuế quan cao sẽ ảnh hưởng
đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa và do đó làm giảm lượng hàng hóa
được tiêu thụ, kích thích tệ nạn buôn lậu. Thuế quan cao cũng là nguyên nhân
chủ yếu dẫn tới hiện tượng gian lận thuế, trốn thuế. Thuế xuất khẩu làm tăng
giá hàng hóa trên thị trường quốc tế và giữ giá thấp hơn ở thị trường nội địa.
Điều đó có thể làm giảm lượng khách hàng ỏ nước ngoài do họ sẽ cố gắng tìm
kiếm các sản phẩm thay thế. Đồng thời, nó cũng không khích lệ các nhà sản
xuất trong nước áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ để tăng năng
suất, chất lượng và giảm giá thành. Tuy nhiên, nếu khả năng thay thế thấp,
6


thuế quan suất khẩu sẽ làm giảm nhiều khối lượng hàng hóa xuất khẩu và vấn
mang lại lợi ích đáng kể cho nước xuất khẩu. Thuế nhập khẩu có vai trò quan
trọng trong việc bảo hộ thị trường nội địa, đặc biệt là bảo hộ các nghành công
nghiệp non trẻ. Thuế quan nhập khẩu sẽ làm tăng giá hàng hóa, do vậy sẽ
khuyến khích cho nhà nước sản xuất trong nước. Tuy nhiên, điều đó cũng sẽ
làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước. Thuế nhập
khẩu có thể giúp cải thiện thương mại của nước đánh thuế. Có nhiều sản phẩm
mà giá của chúng không tăng đáng kể khi bị đánh thuế. Đối với loại hàng hóa
này thuế quan có thể khuyến khích nhà sản xuất ở nước ngoài giảm giá. Khi
đó lợi nhuận sẽ được chuyển dịch một phần cho nước nhập khẩu. Tuy nhiên,
để đạt được hiệu ứng đó nước nhập khẩu phải là nước có khả năng chi phối
đáng kể đối với cầu thế giới của hàng hóa nhập khẩu.
Chính sách thuế quan trong điều kiện hội nhập: nhìn chung chính sách thuế

quan của các quốc gia trong điều kiện hiện nay đều có ảnh hưởng nới lỏng sự
hạn chế thương mại, từng bước giảm dần các mức thuế trên cơ sở hiệp định đa
phương va song phương. Thương lượng trong việc xây dựng biển thuế quan
được coi là một đặc trưng cơ bản của chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu trong những thập kỷ gần đây. Sự hình thành của các liên minh thuế quan
đã có ảnh hưởng nhất định đến lượng hàng hóa được trao đổi giữa các nước
trong liên minh và các nước ngoài liên minh. Chính sách liên minh thuế quan
đã có tác động làm tăng đáng kể khối lượng thương mại giữa giữa các nước
thuộc liên minh trong đó nó tạo ra một hàng rào ngăn cản hàng hóa của các
nước ngoài liên minh. Điều này dường như đã trỏ thành một xu hướng trong
việc hoạch định chính sách thuế quan hiện nay nhằm tự do hóa thương mại
giữa các nước trong khu vực và bảo hộ thị trường khu vực trước sự cạnh tranh
của hàng hóa đến từ bên ngoài. Trong trường hợp tự do hóa thương mại, lợi
ích thương mại cho các thành viên không còn là điều phải tranh cãi vì mỗi
quốc gia nhờ đó sẽ tận dụng triệt để những nguồn lực có thế mạnh; loại bỏ
nhứng ngành sản xuất không hiệu quả, đồng thời người dân cũng sẽ được tiêu
7


dùng những sản phẩm rẻ hơn với chất lượng tốt hơn. Trong trường hợp bảo hộ
thị trường khu vực, nếu chỉ xét trong một ngành duy nhất, có thể có một số
nước sẽ lâm vào tình trạng bất lợi do nhập khẩu những sản phẩm của các nước
trong liên minh với giá cao hơn giá quốc tế. Tuy nhiên, liên minh thuế quan là
là một thỏa thuận hợp tác giữa các nước tham gia. Do vậy, nếu như một nước
chịu thiệt hại về một ngành nào đó thì đổi lại nó sẽ được lợi từ một ngành
khác trên cơ sở cân bằng về lợi ích giữa các thành viên.
Nhà nước, bằng pháp luật có khả năng quản lí điều tiết tới mọi mặt của đời
sống kinh tế xã hội. Bằng hệ thống pháp luật thuế, nhà nước thực hiện ý chí
đối với đường lối của mình phát triển kinh tế một cách gián tiếp, thông qua đó
đảm bảo thực hiện công bằng xã hội. Ví dụ: với thuế giá trị gia tăng nhà nước

có biểu thuế suất khác nhau đối với nhứng loại hàng hóa khác nhau để điều
tiết nền kinh tế xã hội. Cụ thể, áp dụng mức thuế suất 0 % đối với hàng hóa
xuất nhập khẩu, không phân biệt đối tượng và hình thức nhập khẩu; như vậy,
mức thuế mức thuế suất này được áp dụng đối với cả hoạt động xuất nhập
khẩu tại chỗ, các dịch vụ xuất khẩu khi đáp ứng điều kiện của luật, Nhà nước
áp dụng thuế suất 0 % đối với hàng hóa xuất khẩu thể hiện mục đích thúc đẩy
xuất khẩu phát triển; bên cạnh mức thuế suất 0 % nhà nước còn áp dụng mức
thuế suất 5 % đối với các hàng hóa dịch vụ ưu đãi, khuyến khích phát triển
đầu tư. Các sản phẩm thiết yếu ( như: thuốc, các trang thiết bị y tế,…), các sản
phẩm công nghiệp nặng hoặc công nghiệp phục vụ nông nghiệp, dịch vụ công
cộng,…đều thuộc diện ưu đãi và áp dụng mức thuế suất 5 %; mức thuế suất
cao nhất trong biểu thuế giá trị gia tăng, đó cũng là mức thuế suất chuẩn, áp
dụng cho hàng hóa, dịch vụ thông thường. Thông qua việc áp dụng các loại
thuế suất khác nhau mà nhà nước thể hiện ý chí của mình vào trong đó. Đối
với các loại hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu thiết yếu của đời sống nhân
dân thì mức thuế suất ở mức thấp hơn. Điều này càng được thể hiện rõ hơn ở
biểu thuế đối với một số loại hàng hóa đặc biệt là đối tượng điều chỉnh của
luật thuế tiêu thụ đặc biệt.
8


Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức, các nhân có thể tồn tại và vận
động theo nhu cầu và lợi ích của chính họ, điều đó có thể làm tổn thương đến
trật tự xã hội cũng như những định hướng của nhà nước trong từng giai đoạn,
ở mỗi quốc gia. Giải quyết vấn đề này, pháp luật có thể làm thay đổi hoặc can
thiệp gián tiếp vào hoạt động và quyết định đầu tư của các chủ thể nhằm đạt
tới mục tiêu nhất định của nhà nước. Thông qua hệ thống pháp luật thuế của
nhà nước có thể thay đổi cơ cấu đầu tư, cơ cấu nghành kinh tế mà không cần
can thiệp hành chính. Để thực hiện cơ cấu đầu tư định trước, pháp luật thuế có
những quy định cụ thể khác nhau giữa nghĩa vụ thuế của đối tượng ưu tiên và

đối tượng hạn chế. Chính điều này sẽ làm ảnh hưởng đến cơ hội tìm kiếm thu
nhập của đối tượng đầu tư, qua đó có thể làm thay đổi luồng chu chuyển vốn
từ khu vực đầu tư này sang khu vực đầu tư khác. Pháp luật thuế các quốc gia,
trong đó có Việt Nam đều phản ánh rõ vấn đề nêu trên. Chẳng hạn, việc quy
định đánh thuế hay không đánh thuế, mức thuế suất áp dụng đối với từng
nghành nghề, các mặt hàng hay các loại thu nhập đều có thể tác động đến các
ngành, nghề , qua đó đảm bảo sự phát triển cân đối nghành nghề trong nền
kinh tế. Hệ thống pháp luật thuế cũng có khả năng định hướng chi tiêu xã hội,
điều chỉnh thu nhập trong những trường hợp cần thiết. Việc tiêu dùng xã hội,
ở mỗi quốc gia có những định hướng khác nhau tùy theo điều kiện thực tế.
Pháp luật thuế Việt Nam ghi nhận rõ sự hạn chế chi tiêu của các đối tượng đối
với hàng hóa, dịch vụ chưa thực sự phù hợp với giai đoạn hiện tại; trong khi
đó lại khuyến khích, tạo cơ hội tối đa cho mọi đối tượng có thể tiếp cận đối
với những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu của đời sống xã hội.
Ở Việt Nam, bên cạnh những vai trò chung đối với nền kinh tế xã hội, pháp
luật còn được Nhà nước sử dụng như một công cụ thực hiện chính sách xã
hội.
Thứ ba, Nhà nước có thể sử dụng công cụ pháp luật thuế để kiểm tra
gián tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh.

9


Để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ thuế, các cơ quan quản lí thuế cùng với
đối tượng nộp thuế buộc phải quan tâm và tuân thủ các quy định gắn với chế
độ chứng từ hóa đơn, nội dung kinh doanh, quy mô kinh doanh, hình thức
kinh doanh, cơ cấu tổ chức,…Thông qua sổ sách, chứng từ hóa đơn cơ quan
quản lí thuế có thể đánh giá phàn nào cơ cấu tổ chức và hoạt động của các đơn
vị kinh doanh, chúng ta cũng cần thắt chặt khâu quản lí thuế. Cơ quan quản lí
thuế tăng cường giám sát quá trình kê khai nộp thuế giá trị gia tăng. Tùy theo

từng loại đối tượng mà có những biện pháp kiểm tra phù hợp. Với những hoạt
động kinh doanh thông thường, các chủ thể kinh doanh hàng tháng phải kê
khai đầy đủ và chính xác thuế giá trị gia tăng với cơ quan thuế không phân
biệt có phát sinh nghĩa vụ nộp thuế thực tế trong tháng hay không, đối tượng
kê khai phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của nội dung kê khai;
Với hoạt động nhập khẩu hàng hóa, cơ sở kinh doanh, người nhập khẩu có
trách nhiệm kê khai thuế giá trị gia tăng cho từng phần nhập khẩu cùng với
việc kê khai các thông tin khác liên quan đến hoạt động nhập khẩu. Thông báo
thuế giá trị gia tăng của cơ quan hải quan với hàng hóa nhập khẩu thường gắn
với nghĩa vụ thuế khác liên quan đến nhập khẩu,..Thông qua nghĩa vụ kê khai
của các chủ thể nôp thuế để kiểm tra giám sát hoạt động kinh doanh của cá
nhân, tổ chức thực hiện hoạt động kinh doanh.
Điều đó cũng có nghĩa rằng: bằng việc quy định những vấn đề liên quan
đến nghĩa vu thuế, nhà nước gián tiếp quản lí nền kinh tế; trên cơ sở đó hệ
thống pháp luật được ban hành, sử đổi, bổ sung để phù hợp với định hướng
trong từng gia đoạn ở tầm vĩ mô cũng như tìm biện pháp hỗ trợ phù hợp cho
các đối tượng nộp thuế ở tầm vi mô. Nhà nước quản lí nền kinh tế thông qua
hoạt động ban hành ra các quy phạm pháp luật phù hợp với yêu cầu của từng
gia đoạn cụ thể. Via dụ nước muốn hạn chế các hàng hóa, dịch vụ không thật
sự cần thiết như: xe ô tô dưới 4 chỗ loại có dung tích xilanh trên 3000cm áp

dụng mức thuế suất là 60 %, kinh doanh vũ trường áp dụng mức thuế
suất 40 %; kinh doanh mát -xa, ka -ra -ô-kê,..Từ những ví dụ trên đây
10


chúng ta có thể thấy thông qua hoạt động quản lí thuế cơ quan nhà nước
nắm bắt và giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh, để từ đó điều tiết
nền kinh tế xã hội, tăng cường mức bảo đảm công bằng xã hội ở mức tối
ưu.

Mặt khác, cũng thông qua việc kiểm tra việc tuân thủ pháp luật thuế,
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng có khả năng phát hiện và xử lí
kịp thời những hành vi phạm pháp luật thuế như gian lận thuế, trốn thuế,
…Từ việc phát hiện ra các hành vi vi phạm pháp luật thuế nhà nước có
thể tìm ra các biện pháp hữu hiệu để từ đó hạn chế vi phạm. Đồng thời
xử lí thật nghiêm khắc các hành vi vi phạm để răn đe, tránh các hành vi
vi phạm pháp luật thuế tiếp tục xảy ra.
Các quy định về thanh tra, kiểm tra thuế và xử lí vi phạm pháp luật
thuế. Đây là những quy định thể hiện rõ nhất vai trò, chức năng quản lí
hành chính của Nhà nước đối với xã hội nói chung và đối với người nộp
thuế nói riêng. Trước đây, hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế thường
được tiến hành trước khi người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, gọi
là cơ chế “ tiền kiểm”, theo đó cơ quan quản lí thuế chỉ tiến hành thanh
tra, kiểm tra sau khi người nộp thuế đã tự thực hiện các thủ tục chính yếu
của quá trình quản lí thuế như đăng ký thuế, kê khai thuế, tính thuế và
nộp thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế hay xin miễn thuế. Dựa trên cơ sở
kết quả thanh tra và kiểm tra, cơ quan thuế có quyền áp dụng các chế tài
xử lí đối với những hành vi vi phạm pháp luật thuế. Việc quy định theo
hướng này không những làm giảm gánh nặng công việc cho cơ quan
quản lí thuế, đảm bảo tính hợp lí của quá trình quản lí thuế mà còn tạo
điều kiện để cơ quan thuế nâng cao tính chuyên nghiệp trong quá trình
thanh tra, kiểm tra thuế với tư cách là những công cụ quản lí thuế hiệu
quả nhất.
11


Bên cạnh những vai trò cơ bản trên đây pháp luật thuế còn đóng vai
trò làm cơ sở cho các đàm phán thương mại.

2.2.


Các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của pháp luật

thuế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập.
Như trên đã phân tích, thuế đóng vai trò hết sức quan trong việc điều tiết
nền kinh tế đất nước, bảo hộ và khuyến khích trong nước phát triển, đóng góp
số thu cho ngân sách. Tuy nhiên, khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính
thức của WTO, việc bảo hộ sản xuất trong nước bằng con đường thuế quan
không còn phù hợp. Vậy, làm thế nào để thuế quan góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế nhanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa.
Sau đây sẽ là một số giải pháp giúp chúng ta vượt qua giai đoạn thách và khó
khăn này:
Thứ nhất, giảm thuế suất tăng diện thu. Đứng trước yêu cầu giảm thuế
suất theo cam kết đã đưa ra, để đáp ứng cho thu chi ngân sách nhà nước chúng
ta cần tăng nguồn thu để đảm bảo cân đối giữa nhu cầu thu và chi ngân sách.
Hơn nữa, khi thuế suất cao cũng dễ dẫn tới hành vi trốn thuế, gian lận thuế.
Như vậy thì dù thuế suất có cao nhưng tiền của nhà nước cũng không thu
được như mong muốn. Vấn đề giảm thuế suất sẽ kích thích người dân không
do dự khi thma gia nghĩa vụ nộp thuế. Với thuế suất cao, họ sẵn sàng bỏ ra
các chi phí khác để tránh nghĩa vụ phải nộp thuế; khoản chi phí này cũng
không được đưa vào ngân sách nhà nước. Khi chúng ta thực hiện chính sách
giảm thuế suất, những người có nghĩa vụ nộp thuế sẽ cân nhắc giữa việc đóng
thuế và bỏ ra chi phí để trốn thuế thì điều gì sẽ đem lại nhiều lợi ích hơn cho
họ. Đương nhiên, nếu thuế phù hợp họ sẽ không ngần ngại bỏ tiền ra để đóng
thuế theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, vấn đề cho nợ thuế kéo dài, cơ chế quản lí hàng tạm nhập, tái
xuất, hoàn thuế VTA cùng với thủ tục thành lập, giải thể công ty lỏng lẻo,…là
những sơ hở để các đối tượng xấu triệt để khai thác trốn thuế. Đặc biệt lợi

12



dụng chính sách ra hạn thời gian nộp thuế nhưng không có chế tài ràng buộc
đã làm danh sách này chây ỳ, chiếm đoạt tiền thuế xuất nhập khẩu ngày một
dài thêm. Theo ước tính hiện nay có số tiền thuế xuất nhập khẩu trên cả nước
còn nợ đọng kéo dài, khả năng không thể thu hồi.
Thứ ba, hoàn thiện, nhất là pháp luật về thuế quan, Luật thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu mặc dù đã được sửa đổi nhiều lần nhưng vẫn chưa đồng bộ,
nội dung chưa bao quát hết các đối tượng và nguồn thu.Thuế nhập khẩu ở
nước ta vừa đánh theo tính chất hàng hóa, vừa đánh theo mục đích sử dụng dễ
tạo ra những sơ hỏ, bất hợp lý để cho các đối tượng làm ăn bất chính triệt để
lợi dụng. So với các nước khác, biểu thuế suất của Việt Nam vẫn còn phức
tạp, bao gồm hàng chục nghìn dòng thuế, nhiều nhóm hàng, nhiều nhóm hàng
có nhiều mức thuế khác nhau: giữa các mức thuế lại có sự chênh lệch rất lớn
vừa không phù hợp với xu thế hội nhập, vừa tạo kẽ hở để đối tượng trốn thuế
lợi dụng. Chẳng hạn, cùng một loại hàng hóa nhưng mức nhập khẩu chỉ cần
báo sai lệch đặc tính của chúng là có thể được hưởng mức thuế suất có lợi hơn
hoặc chỉ cần khai đặc tính có thuế suất thấp, nhưng sau khi nhập khẩu sẽ cải
tạo, thay đổi kết cấu thành loại hàng hóa có giá trị thương mại cao hơn. Do
vậy, cần tiếp tục sửa đổi các biểu thuế suất.
Thứ tư, cần ban hành ngay các loại thuế như: thuế chống bán phá giá, thuế
hạn ngạch, thuế phản kháng, thuế chống trợ cấp,...để chống lại “cuộc chiến
thương mại” được núp bóng tinh vi trong cái “ áo khoác” tự do thương mại và
toàn cầu.
Thư năm, tăng cường giáo dục cho người dân có ý thức trách nhiệm trước
nghĩa vụ nộp thuế. Thông qua việc chi ngân sách có hiệu quả cũng làm cho
người dân ý thức được trách nhiệm của họ. Bởi, không cần biết họ đã nhận
được lợi ích công cộng nào hay chưa họ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế
của mình. Tuy nhiên, kết quả của việc sử dụng các khoản thu từ thuế chủ yếu
là những sản phẩm công. Và những sản phẩm này lại được thụ hưởng bởi

chính những đối tượng nộp thuế, đó là sự yên bình xã hội, sự phát triển thịnh
13


vượng, chế độ phúc lợi công cộng,..Thực tế cho thấy, nhà nước sử dụng
nguồn ngân sách chưa thực sự hiệu quả, ví dụ như các công trình dự án xây
dựng có nguồn chi từ ngân sách nhà nước thường có chất lượng không cân đối
với số chi phí bỏ ra. Tiền được chi từ ngân sách nhà nước thường chậm trễ so
với yêu cầu của thực tiễn, cụ thể: để xây dựng một công trình xây dựng từ
nguồn vốn của ngân sách nhà nước thông thường kéo dài hơn các công trình
do tư nhân đầu tư xây dựng. Như vậy, muốn nâng cao ý thức trách nhiệm của
người dân trước tiên nhà nước cần phải sử dụng nguồn thu ngân sách nhà
nước một cách có hiệu quả đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của người
dân.
Trình độ nhận thức và thái độ chấp của người nộp thuế. Người nộp thuế
chính là đối tượng trực tiếp thực hiện chính sách, luật lệ về thuế. Vì vậy, trình
độ nhận thức và thái độ chấp hành nghĩa vụ thuế của họ đóng vai trò quyết
trong việc thu thuế và chống thất thu thuế. Cho dù hệ thống chính sách, pháp
luật hoàn thiện, phương pháp, hình thức quản lí đổi mới, cán bộ thuế đáp ứng
năng lực trình độ song vẫn không thể ngăn chặn triệt để việc trốn, lậu thuế nếu
người nộp thuế thiếu ý thức chấp hành nghĩa vụ nộp thuế. Do đó để hoàn
thành nhiệm vụ đặt ra, một mặt cần hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật;
mặt khác, phải tuyên truyền giáo dục, vận động người nộp thuế tự giác chấp
hành đúng nghĩa vụ và quyền lợi của họ.
Thứ sáu, để có thể phát huy hiệu quả vai trò điều tiết nền kinh tế quốc gia
đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự
báo và phân tích tình hình, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những biến
động trên thị trường thế giới.
Thứ bảy, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ khi Việt Nam đã là thành viên
chính thức của WTO, phải nâng cao năng lực của cơ quan thuế, sắp xếp lại tổ

chức bộ máy cơ quan thuế, đào tạo lại công chức ngành thuế quan theo hướng
chuyên môn hóa, chuyên nghiệp; xây dựng hệ thống quản lí đạt tiêu chuẩn
ISO 9001.
14


Đây chỉ là một số giải pháp để góp phần nâng cao hiệu quả, phát huy
được vai trò của pháp luật thuế trong nền kinh tế - xã hội hiện nay.
KẾT LUẬN
Qua phân tích trên chúng ta có thể khẳng định một lần nữa pháp luật thuế
đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế đất nước, đóng góp
vào nguồn thu cho ngân sách nhà nước đảm bảo sự tồn tại của nhà nước và bộ
máy nhà nước; thuế lại được nhà nước sử dụng như là công cụ để thực hiện
những nhiệm vụ, mục tiêu nhất định mà mình đã đề ra, thuế góp phần điều tiết
nền kinh tế đất nước cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển cụ thể, là các
nguồn thu chủ yếu cho các đầu tư xây dựng cơ bản.
Hiện nay, ngành thuế đang trong giai đoạn cải cách và hiện đại hóa mạnh
mẽ, nhất là đang chuyển đổi hẳn sang cơ chế quản lí theo chức năng, tăng
cường tính tự chủ, tự giác trong kê khai nộp thuế của người nộp thuế, cơ quan
thuế, cán bộ thuế giảm thiểu tiếp xúc với người nộp thuế, chỉ tập trung hỗ trợ
chính sách thuế khi có yêu cầu và kiểm tra thanh tra tại cơ sỏ khi có dấu hiệu
vi phạm, theo một quy trình chặt chẽ.
Bên cạnh đó, vấn đề quản lí thuế với sự tham gia mạnh mẽ của các tổ chức
và cá nhân trong xã hội, chắc chắn rằng công tác thu thuế công tác thu thuế
trong giai đoạn mới sẽ thắng lợi toàn diện, tạo điều kện tốt nhất cho các doanh
nghiệp, góp phần kinh tế - xã hội phát triển.
Vai trò của pháp luật thuế rất quan trọng, ảnh hưởng đến sự phát triển của
đất nước. Chúng ta phải cùng nhau xây dựng pháp luật thuế ngày càng hoàn
thiện hơn; giáo dục tuyên truyền pháp luật, nâng cao ý thức người dân tham
gia nghĩa vụ nộp thuế,...để góp phần phát huy hiệu quả vai trò của pháp luật

thuế.
Trên đây là bài làm của em, do kiến thức còn hạn chế nên không tránh
khỏi sai sót, mong thầy cô thông cảm, sửa chữa. Em xin trân thành cảm ơn!
15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Giáo trình Luật thuế Việt Nam – Trường Đai học Luật Hà Nội

2.

Giáo trình Luật Ngân sách – Trường Đại học Luật Hà Nội

3.

Giáo trình thuế ( lý thuyết và tập giảng) – Trường Đại Học Ngân

Hàng Thành Phố Hồ Chí Minh
4.

Luật thuế Giá trị gia tăng

5.

Luật thuế tiêu thụ đặc biệt

6.


Luật thuế Xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005

7.

Luật ngân sách nhà nước năm 2002

8.

Wedside:
Www.gdt.gov.vn
Www.custom.gov.vn
Www.mof.gov.vn
16


17



×