Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tạm giam tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.97 KB, 13 trang )

Mục lục
Mục lục
A. Mở đầu:…………………………………………………………...
B. Nội dung: …………………………………………………………
1. Khái quát chung về biện pháp ngăn chặn tạm giam: ………………
2. Vai trò của biện pháp ngăn chặn tạm giam: ……………………….
3. Thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giam và giải pháp hoàn thiện
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng: ……………………………………
C. Kết luận: ………………………………………………………….

1


A. Mở đầu:
Tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm
khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự, việc quy định
biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự có ý nghĩa rất quan trọng. Tạm
giam đúng sẽ góp phần bảo đảm sự dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của
công dân được Hiến pháp quy định, tạm giam đúng còn bảo đảm cho việc đấu
tranh và phòng ngừa tội phạm có hiệu quả. Do đó, để tìm hiểu kĩ hơn về vấn
đề này, em xin lựa chón đề tài: “Tạm giam trong tố tụng hình sự và việc
hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng”
B. Nội dung:
1. Khái quát chung về biện pháp ngăn chặn tạm giam:
* Khái niệm:
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong luật tố tụng hình sự do cơ quan
điều tra, viện kiểm sát, tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội rất
nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hay bị can, bị cáo phạm tội
nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà trong Bộ luật hình sự quy định
hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản
trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.


* Đối tượng và căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam:
Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam:
Cũng như biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam, đối tượng bị áp
dụng biện pháp tạm giam cũng chỉ có thể là bị can, bị cáo. Song không phải bị
can, bị cáo nào cũng có thể áp dụng biện pháp này, mà những bị can, bại cáo
đó phải thỏa mãn những căn cứ luật định thì mới bị tạm giam.
Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam:
Khoản 1 Điề 88 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: tạm giam chỉ có thể
áp dụng đối với những bị can, bị cáo trong những trường hợp sau:
- Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng (tội
phạm có mức hình phạt tù từ mười năm tù trở lên, tù chung than hoặc tử hình)
2


- Bị cáo phạm tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự
quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể bỏ
trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Trong trường hợp này, với tư cách là một biện pháp ngăn chặn, tạm giam
được áp dụng khi chưa biết bị can, bị cáo bị Tòa án áp dụng hình phạt gì, do
đó phải dựa vào mức hình phạt mà Bộ luật hình sự quy định tội ấy trên 2 năm
tù.
Để xác định bị can, bị cáo có thể chốn hoặc cản trở việc điều tra, xét xử
hoặc có thể tiếp tục phạm tội, thường phải căn cứ vào việc điều tra, xét xử và
sự cần thiết của việc ngăn chặn tội phạm; nhân thân của bị can, bị cáo khi
được áp dụng biện pháp ngăn chặn ít nghiêm khắc hơn. Khi áp dụng biện
pháp ngăn chặn ít khiêm khắc hơn biện pháp tạm giam nhưng sau đó bị can.,
bị cáo không thực hiện nghĩa vụ có mặt của cơ quan tiến hành tố tụng, trốn
tránh việc điều tra, xét xử hoặc làm rõ sự thật của vụ án thì có thẻ xác định đó
là hành động không thực hiện các điều kiện của biện pháp ngăn chặn của biện
pháp ngăn chặn đã được áp dụng thì có thể bắt để tam giam bị can, bị cáo đó.

Như vậy, chỉ khi nào có đầy đủ hai điều kiện trên mới được quyết định tạm
giam.
Khi phạm tội thuộc những trường hợp trên, bị can, bị cáo bị áp dụng
biện pháp tạm giam. Tuy vậy, đối với bị can, bị cán là phụ nữ có thai hoặc
đang thời kì nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, nười bị bệnh nặng
mà nơi cứ trú rõ ràng thì không tạm giam mà phải áp dụng biện pháp ngăn
chặn khác, trừ những trường hợp sau: bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh
truy nã; bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khắc nhưng tiếp tục
phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng
nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.

3


Như vậy, biện pháp ngăn chặn tạm giam chỉ cần thiết khi các biện pháp
ngăn chặn khác không bảo đảm được mục đích ngăn chặn tội phạm.1
* Thẩm quyền ra lệnh tạm giam:
Khoản 3 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định những người
có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì có quyền ra lệnh tạm
giam (những người có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam được quy
định tại Khoản 1 Điều 80 Bộ luật tố tụng hình sự 2003). Lệnh tạm của thut
trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp phải được viện kiểm sát cùng
cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Thời hạn mà viện kiểm sát phải xem xét để
ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh tạm giam của cơ quan
điều tra là ba ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê
chuẩn và hồ sơ tài liệu liên quan đến việc tam giam. Viện kiểm sát phải hoàn
trả lại hồ sơ cho cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc phê chuẩn dù có
phê chuẩn hay không.
* Thủ tục tạm giam:

Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì việc tạm giam bị can, bị
cáo phải có lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam phải do những người có thẩm
quyền ký.
Lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra phải được Viện trưởng Viện kiểm
sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành, thẩm quyền phê chuẩn này đã được
quy định lại trong khoản 3 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tạm giam là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất trong tố tụng hình
sự, nó không chỉ hạn chế quyền bất khả xâm phạm về thâ thể, quyền tự do và
danh dự của công dân mà còn ảnh hưởng lớn tới tâm tư tình cảm của người
bị tạm giam và nhân thân của họ. Chính vì vậy, cơ quan đã ra lệnh tạm giam
cần phải thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền
xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc
làm việc biết.
1

Nguyễn Văn Hiệu, Các biện pháp ngăn chặn, bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam, thực
trạng, nguyên nhân và giải pháp, Luật án tiến sĩ luật học, Hà Nội, 2005.

4


* Thời hạn tạm giam:
Điều 120 Bộ luật tố tụng hình sự quy định thời hạn tạm giam để điều
tra, thời hạn gia hạn tạm giam để điều tra đối với từng giai đoạn tố tụng cụ thể
lại có những thời hạn tạm giam khác nhau được quy định trong luật như: tạm
giam để truy tố; tạm giam để xét xử sơ thẩm; tạm giam để chuẩn bị xét xử
phúc thẩm ; tạm giam bị cáo trong trường hợp cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm
để điều tra, xét xử lại; tạm giam bị cáo trong trường hợp cấp Giám đốc thẩm
hủy bản án để điều tra, xét xử lại.
* Chế độ tạm giam, tạm giữ và những biện pháp bảo hộ của pháp luật

đối với thân nhân và tài sản của người bị tạm giam, tạm giữ.
Chế độ tạm giam, tạm giư
Tạm giữ, tạm giam không phải là hình phạt mà là những biện pháp
ngăn chặn trong tố tụng hình sự. Việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam
không phải nhằm trừng trị người phạm tội mà là để ngăn chặn tội phạm và
hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án của
người phạm tội. Vì vậy, Điều 89 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định chế độ
tạm giữ, tạm giam khắc với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt
tù. Người bị tạm giữ, tạm giam không phải chấp hành hình phạt tù mà chỉ
chấp hành các quy định của Chính phủ về chế độ đi lại, sinh hoạt, nhận quà,
liên hệ với gia đình trong thời gian bị tạm giữ, tạm giam.
Nhưng biện pháp bảo hộ của pháp luật đối với thân nhân và tài sản
của người bị tạm giam, tạm giư.
Điều 90 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định khi áp dụng biện
pháp tạm giữ, tạm giam, nếu người bị tạm giữ, tạm giam có con chưa thành
niên dưới 14 tuổi hoặc có người thân thích là người tàn tật, già yếu mà không
có người chăm sóc thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao cho
những người đó cho người thân thích chăm nom. Trong trường hợp người bị
tạm giữ, tạm giam không có người thân thích thì cơ quan ra quyết định tạm
giữ, lệnh tạm giam giao cho những người đó cho chính quyền sở tại trông
5


nom. Trong trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam có nhà hoặc tài sản mà
không có người trông nom, bảo quản thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh
tạm giam phải áp dụng những biện pháp trông nom, bảo quản thích đáng. Cơ
quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam thông báo cho người tạm giữ, tạm
giam biết biện pháp được áp dụng.
2. Vai trò của biện pháp ngăn chặn tạm giam:
Tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra làm rõ hành vi vi ohamj của

bị can, bị cáo:
Một trong những mục đích quan trọng nhất của biện pháp tạm giam là
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng điều tra làm rõ
các hành vi vi phạm của bị can, bị cáo. Điều tra thu thập chứng cứ để chứng
minh hành vi phạm tội đối với bị can, bị cáo là một quá trình phức tạp, đầy
khó khăn, nên việc tạm giam bị can, bị cáo đã góp phần thuận lợi cho việc đấu
tranh khai thác chứng cứ trong vụ án. Bên cạnh đó việc tạm giam cũng góp
phần phòng ngừa bị can, bị cáo( đối với bị can, bị cáo có tính chất nguy hiểm)
thực hiện tiếp hành vi vi phạm khác gây ảnh hưởng đến quyền lợi của Nhà
nước và của công dân, gây mất an ninh, trật tự xã hội.
Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình lấy lời khai, việc giao các quyết
định tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:
Trong quá trình điều tra, việc lấy lời khai của bị can là vấn đề bắt buộc
và thực hiện thường xuyên, không xác định cụ thể, thậm chí khi có điều kiện
thuận lợi các Điều tra viên tiến hành lấy lời khai cả ban đêm. Do vậy, việc
tạm giam bị can là một trong những biện pháp hữu hiệu, góp phần thuận tiện
cho việc hỏi cung, điều tra thu thập chứng cứ; quá trình lấy lời khai sẽ không
mất nhiều thời gian đi lại hoặc phải làm thủ tục triệu tập, sắp xếp thời gian cụ
thể...
Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình xét xử và thi hành án:

6


Trong quá trình xét xử, việc có mặt bị cáo là bắt buộc (trừ một số
trường hợp) do vậy khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, thì Tòa án phải làm
tiếp các văn bản để triệu tập bị cáo đến tòa. Nếu bị cáo bị tạm giam thì rất
thuận tiện. Nhưng đối với trường hợp bị cáo được tại ngoại, thì vấn đề sẽ
phức tạp hơn, khi gửi giấy triệu tập tuy nhận được nhưng đến ngày mở phiên
tòa bị cáo không có mặt với nhiều lý do, do đi làm ăn xa, do bệnh... nhằm gây

khó khăn cho quá trình xét xử.
Khi xét xử xong, bản án có hiệu lực pháp luật, Tòa án xét xử sơ thẩm ra
quyết định thi hành bản án, quyết định thi hành hình phạt tù và lệnh tạm giam
đối với bị cáo, nhưng đến ngày phải đi chấp hành hình phạt tù thì bị cáo
không đến trại giam đúng thời hạn quy định, hoặc bị cáo bỏ trốn không chấp
hành bản án...Do đó, đối với trường hợp bị cáo bị tạm giam thì rất đơn giản,
khi bản án có hiệu lực pháp luật, Tòa án xét xử sơ thẩm ban hành các loại
giấy tờ về thi hành bản án, thi hành bản án đối với bị cáo và họ làm thủ tục thi
hành án đối với bị cáo.
Do vậy, khi áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo sẽ góp
phần thuận lợi cho việc xét xử cũng như việc thi hành án đối với bản án có
hiệu lực pháp luật. Hạn chế được trường hợp phải hoãn xét xử nhiều lần hoặc
không thi hành được bản án khi bị án bỏ trốn.
3. Thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giam và giải pháp hoàn thiện nhằm
nâng cao hiệu quả áp dụng.
3.1. Thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giam:
Cơ quan tiến hành tố tụng lạm dụng việc áp dụng biện pháp tạm giam:
Căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam đa được pháp luật tố tụng hình
sự quy định rất cụ thể và rõ ràng, nhưng trong thực tế, việc xác định căn cứ để
tạm giam bị can, bị cáo phần lớn do ý thức chủ quan của các cơ quan tiến
hành tố tụng. Thực tế áp dụng các cơ quan tố tụng thường chỉ căn cứ chủ yếu
vào điều kiện chủ quan là thuận lợi của việc điều tra, truy tố, xét xử. Thực tế
nhiều trường hợp bị can, bị cáo chỉ phạm những tội ít nghiêm trọng, có đầy đủ
7


các điều kiện để được tại ngoại, nhưng họ vẫn bị áp dụng biện pháp tạm giam.
Khi xét xử lẽ ra bị cáo phải được hưởng án treo, nhưng vì đã tạm giam quá
lâu, nên tuyên phạt bị cáo án tù giam và áp dụng hình phạt đối với bị cáo bằng
với thời gian mà bị cáo bị tạm giam và trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa.

Những bản án tuyên phạt như vậy thường không gây được sự đồng tình của
những người tham gia phiên tòa. Từ đó làm cho sự nghiêm minh của pháp
luật không còn triệt để, người dân sẽ nhìn nhận không tốt đối với các cơ quan
tiến hành tố tụng. Trên thực tế hoàng loạt các vụ việc xuất phát từ việc tạm
giam bị can, bị cáo không đúng tính chất mức độ nghiêm trọng của vụ án
không tương xứng với hành vi phạm tội mà họ đã gây ra, và cũng từ đó có
nhiều vụ việc khiếu nại kéo dài gây mất trật tự xã hội. Tất cả những việc làm
trên của cơ quan tiến hành tố tụng đã tạo nên một tiền lệ xấu đối với việc áp
dụng pháp luật và gây ảnh hưởng không tốt đến cách nhìn nhận của người dân
đối với bộ máy cơ quan tiến hành tố tụng và những quy định của pháp luật.
Áp dụng biện pháp tạm giam quá thời hạn quy định của pháp luật
Pháp luật tố tụng hình sự quy định cụ thể các trường hợp áp dụng biện
pháp tạm giam, và bên cạnh đó quy định cụ thể thời hạn tạm giam bị can, bị
cáo trong qua strinhf điều tra, truy tố, xét xử. Nhưng trên thực tế, việc điều
tra, truy tố, xét xử đối với các vụ án phức tạp thường kéo dài và pải gia hạn
nhiều lần tạm giam nhưng cũng không hoàn thành được việc điều tra, truy tố,
xét xử. Khi đã hết thời hạn gia hạn cho phép, giải pháp thường áp dụng nhất
của cơ quan tiến hành tố tụng là ra bản án kết luận điều tra và chuyển hồ sơ
cho Viện kiểm sát đối với cơ quan điều tra; ra bản cáo trạng truy tố bị can ran
trước tòa đối với Viện kiểm sát; ra quyết định đưa vụ án ra xét xử đối với tòa
án để thực hiện tiếp quá trình tố tụng. Khi hồ sơ vụ án được chuyển sang giai
đoạn tố tụng khác là thời hạn tạm giam được tính lại phù hợp với từng vụ việc
cụ thể, và ở từng giai đoạn tố tụng đó các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ thực
hiện các công việc cụ thể ở giai đoạn tố tụng của mình; nếu không đủ thời
gian thì hoặc là chuyển, hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Và quy trình này
8


có thể kéo dài nhiều năm. Do đó, bị can, bị cán cũng có thể bị tạm giam liên
tục nhiều năm, trong khi các cơ quan tiến hành tố tụng không chứng minh

được hành vi phạm tội của bị can, bị cáo. Điều này cho thấy thời hạn tạm
giam bị can, bị cáo sẽ bị phụ thuộc vào thời gain điều tra, truy tố, xét xử và
bất lợi nhất là khi vụ án bị trả hồ sơ nhiều lần.
Gây khó khăn khi Luật sư muốn tiếp xúc bị can, bị cáo hoặc sự có mặt
của Luật sư khi lấy lời khai bị can, bị cáo.
Đây là vấn đề xảy ra thường xuyên trong quá trình điều tra vụ án. Quy
định của pháp luật là luật sư có quyền tiếp xúc với bị can cũng như có mặt khi
lấy lời khai bị can từ khi khởi tố bị can, đối với vụ án xâm phạm an ninh quốc
gia thì có thể tham gia từ khi kết thúc điều tra. Nhưng trong thực tế khi luật sư
có văn bản đề nghị tham gia bào chữa cho bị can thì thường gặp rất nhiều khó
khăn, các cơ quan tiến hành tố tụng tìm đủ mọi lý do để từ chối hoặc gây khó
khăn cho việc yeu cầu được tiếp xúc với bị can… Các cơ quan tiến hành tố
tụng cho rằng, nếu cho luật sư tiếp xúc thì sẽ gây khó khăn cho việc chứng
minh hành vi phạm tội của bị can, bị cáo. Ví dụ như bị can, bị cáo sẽ không
khai đúng sự thật hoặc không khai gì… Điều này có thể so luật sư đã bày
cách cho bị can, bị cáo khai gian dối để chối tội, hoặc bị can không nên khai
gì và như vậy buổi lấy lời khai sẽ không có hiệu quả.
Tất cả những tồn tại, bất cập này đều mang đến một hậu quả không tốt
cho quá trình áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 về vấn
đè áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo. Những bất cập này
cũng đã vi phạm tới việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo
đã được pháp luật tố tụng hình sự bảo vệ.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì còn có nhiều điểm vướng
mắc cần phải giả quyết xung quanh việc quy định về biện pháp tạm giam. Đó
là:

9


Thứ nhất, quy định về thời hạn tạm giam và thời hạn tạm giam để điều

tra không trùng khớp làm cho việc áp dụng trên thực tế gặp những khó khăn
nhất định.
Thứ hai, về trách nhiệm của người đề xuất, người ra lệnh và người phê
chuẩn lệnh tạm giam. Có thể thấy rằng, quan hệ giữa thủ trưởng cơ quan điều
tra viên là quan hệ chỉ huy, phục tùng. Sau khi khởi tố vụ án, thủ trưởng cơ
quan điều tra trực tiếp điều tra hoặc quyết định phân công cho điều tra viên
điều tra vụ án. Từ khi đó, điều tra viên có quyền tiến hành các biên pháp điều
tra do bộ luật tố tụng hình sự quy định, còn việc áp dụng biện pháp tạm giam
điều tra viên chỉ có quyền đề xuất. Thủ trưởng cơ quan điều tra kí lệnh tạm
giam và Viện kiểm sát phê chuẩn. Vậy: nếu tạm giam trái pháp luật thì ai phải
chịu trách nhiệm, điều tra viên hay thủ trưởng cơ quan điều tra? Nếu việc tam
giam sau đó lại được Viện kiểm sát phê chuẩn thì người phê chuẩn có phải
chịu trách nhiệm không?
Thứ ba, theo quy định của luật tố tụng hình sự thì có các trường hợp
đặc biệt không được miễn trừ chính sách ưu đãi khi áp dụng biện pháp tạm
giam thì lại chưa có quy định cụ thể về điều kiện áp dụng và bảo đảm quyền
lợi cho họ. Ví dụ trường hợp bị can đang mang thai cần được hưởng chế độ
giam giữ như thế nào? Dinh dưỡng cho thai sản ra sao? Đây cũng là một quay
định cần hướng dẫn cụ thể.
3.2. Giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng.
Thứ nhất, Bỏ quy định về quyền trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án.2
Vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung liên quan đến thời hạn tạm giam khi vụ
án bị trả lại để điều tra bổ sunng. Việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi mowr
phiên tòa, cũng như quyền trả hồ sơ của tòa án là không phù hợp với chức
năng xét xử của Tòa án. Vì Tòa án thực hiện chức năng xét xử , nhiệm vụ
trọng tâm là đánh giá tính hợp pháp các chứng cứ của bên buộc tội và bên bào
chữa, là người đứng trung lập giữa bên buộc tội và bên bào chữa chứ Tòa
2

Nguyễn Văn Lam, “Biện pháp tạm giam và bảo vệ quyền con người”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, Số

11/2010.

10


không có nghĩa vụ củng cố chứng cứ như bên buộc tội và bên bào chữa. Nếu
cho Tòa án có quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì vô hình chung là Tòa án
củng cố chứng cứ để giải quyết vụ án thay cho bên buộc tội. Như thế Tòa án
se có hai chức năng là buộc tội và xét xử, việc này không đúng theo quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự, cũng như Hiến pháp 92 đã chỉ rõ. Tuy nhiên, đối
với một số trường hợp Viện kiểm sát yêu cầu trả hồ sơ để điều tra bổ sung,
hoặc hủy án để điều tra, xét xử lại thì Tòa án có thể thực hiện theo đề nghị của
Viện kiểm sát.
Từ các quy định trên, cho thấy việc bỏ quy định Tòa án có quyền trả hồ
sơ để điều tra bổ sung trong quá trình giải quyết vụ án là cần thiết. Khi tòa án
không trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì việc giải quyết vụ án sẽ đơn giản hơn.
Thứ hai, nhận thức đúng hơn về biện pháp tạm giam: tạm giam là biện
pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, nên khi áp dụng các cơ quan tiến hành tố
tụng cần phải cân nhắc thật tỉ mỉ, cần phải có đủ căn cứ theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự thì mới có thể áp dụng. Do đó, để đảm bảo quyền lợi
của bị can, bị cáo, cũng như bảo đảm quyền con người trong quá trình tố tụng,
các cơ quan tiến hành tố tụng cần xem xét lại việc áp dụng biện pháp tạm
giam trong khi thực hiện nhiệm vụ ở từng giai đoạn tố tụng. Các cơ quan tiến
hành tố tụng phải nhận thức rõ được tính chất nghiêm trọng của việc áp dụng
biện pháp tạm giam để có cái nhìn nhận đúng đắn và áp dụng một cách chính
xác, có căn cứ. Ngoài ra, cũng cần tạo điều kiện để luật sư có thể tiếp xúc với
bị can, bị cáo để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo.
Thứ ba, nâng cao sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp
đối với việc thực thi pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thường xuyên
hơn.

Thứ tư, đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, trau dồi đạo đức của các chức
danh tư pháp trong lĩnh vực bắt, tạm giữ, tạm giam, nên được đầu tư thích
đáng hơn.
C. Kết luận:
11


Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất nhưng tạm giam
không phải là hình phạt tù. Do đó, khi áp dụng biện pháp tạm giam trong quá
trình tố tụng , các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải xemm xét thận trọng, kết
hợp giữa việc bảo đảm đạt kết quả điều tra, truy tố, xét xử và gắn với các
quyền lợi của bị can, bị cáo. Qua đó, hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm
giam ở mức thấp nhất là theo tinh thần Bộ luật tố tụng hình sự 2003.

12


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Trường Đại hoc Luật Hà Nội, giáo trình luật tố tụng hình sự việt nam, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2008.
2. Nguyễn Văn Hiệu, Các biện pháp ngăn chặn, bắt, tạm giữ, tạm giam trong

tố tụng hình sự Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Luật án tiến
sĩ luật học, Hà Nội, 2005.
3. Nguyễn Văn Lam, “Biện pháp tạm giam và bảo vệ quyền con người”, Tạp
chí nghiên cứu lập pháp, Số 11/2010.
4. Trần Quang Tiệp, “Một số vấn đề về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự”, tạp chí kiểm sát, số 7/2005.
5. Luật tố tụng hình sự 2003.


13



×