Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.51 KB, 20 trang )

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI
SẢN.
1. Người thừa kế.
BLDS 2005 chưa đưa ra khái niệm cụ thể về người thừa kế chỉ quy định:
“cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình cho người thừa kế
theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật” (điều 631
BLDS). Theo đó có thể hiểu người thừa kế là người được nhận di sản thừa kế
theo pháp luật hoặc theo di chúc hoặc vừa được hưởng di sản theo di chúc vừa
được hưởng di sản theo pháp luật. Những người thừa kế có quyền và nghĩa vụ
về tài sản do người chết để lại.
Người thừa kế theo di chúc là người được chỉ định trong di chúc nên có
thể là bất kì cá nhân hoặc pháp nhân tổ chức nào và trong trường hợp đặc biệt
nhà nước có thể là người thừa kế .
Người thừa kế theo pháp luật phải là những người có một trong 3 mối
quan hệ: hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng với người để lại di sản. Những
người thuộc diện và hàng thừa kế theo pháp luật được xác định theo 3 hàng thừa
kế quy định tại điều 676 BLDS 2005.
2. Một số vấn đề về người không được quyền hưởng di sản.
2.1 Quy định của BLDS về người không được quyền hưởng di sản
Hiến pháp 1992 và BLDS 2005 đều ghi nhận quyền hưởng thừa kế của cá
nhân. Tuy nhiên trong đười sống xã hội có 1 số trường hợp cá biệt người thừa
kế vi phạm nghiêm trọng pháp luật hoặc đạo đức xã hội bị pháp luật tước đi
quyền hưởng di sản thừa kế cả theo di chúc và theo pháp luật. Như vậy đối với
những người không xứng đáng hưởng di sản thừa kế pháp luật nước ta luôn thể
hiện sự nghiêm khắc và đúng đắn bằng việc tước đi quyền thừa kế của họ. Vì
vậy BLDS 2005 đã quy định những trường hợp người không được quyền hưởng
di sản.
1



Người bị truất quyền hưởng thừa kế: đó là trường hợp người để lại thừa
kế trừng phạt đối với người thừa kế, không cho họ hưởng di sản của mình. Khi
bị truất quyền thừa kế thì họ không có quyền hưởng di sản theo cả pháp luật và
di chúc, nghĩa là họ không được hưởng di sản của người để lại thừa kế.
Người không đựợc hưởng di sản theo BLDS 2005 là những người bị tước
quyền thừa kế do có các hành vi phạm tội, hành vi trái đạo đức xã hội đối với
người để lại di sản, người thừa kế khác hoặc trong việc thừa kế (quy định cụ thể
tại khoản 1 điều 643 BLDS 2005) Theo quy định của pháp luật thì những người
này sẽ không được hưởng di sản, tuy nhiên nhằm tôn trọng ý chí của người để
lại di sản thì những người theo quy định tại khoản 1 điểu 643 BLDS vẫn được
hưởng di sản; “Những người quy định tại khoản 1 điều này vẫn được hưởng di
sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho
họ hưởng di sản theo di chúc”
Như vậy những người không được quyền hưởng di sản theo nghĩa rộng
bao gồm cả người bị truất quyền hưởng di sản và người bị tước quyền hưởng
thừa kế (ngoại trừ những người được hưởng thừa kế theo điều 669 BLDS 2005).
2.2 Lịch sử về điều khoản quy định người không được quyền hưởng di sản
Pháp luật của thực dân phong kiến, trước năm 1945, đã dự liệu được vấn
đề này và đã có những quy định cụ thể về người không được quyền hưởng di
sản (trong những văn bản này gọi là người thừa kế bất xứng). Vấn đề này được
quy định tại điều 313 Dân luật Bắc Kỳ và điều 306 Dân luật Trung Kỳ, theo đó
thì những người sau đây sẽ không có quyền được hưởng di sản:
- Người bị người để lại di sản tuyên bố không xứng đáng được hưởng di
sản
- Người có hành vi xâm phạm tính mạng người để lại di sản (dù là chính
phạm hay đồng phạm)
- Người đã trưởng thành biết được hành vi cố ý giết người mà không tố
giác với tòa án (nhưng nếu trong trường hợp kẻ giết người là cha, mẹ, anh, em

2



vợ, chồng,người thân thuộc với người thừa kế thì người đó sẽ không bị coi là có
lỗi vì đã không tố giác tội phạm)
- Người có hành vi vu khống người để lại di sản hay vu khống ông, bà,
cha, mẹ của người đó, và người bị vu khống đã bị phạt về trọng tội hoặc thường
tội.
Cũng trong thời kỳ này, án lệ ở Miền Nam cũng có quy định về những
trường hợp người vợ góa không được hưởng di sản của chồng:
- Vợ góa không để tang chồng
- Vợ góa sống thiếu đạo đức, công khai gây tai tiếng cho gia đình nhà
chồng
- Vợ góa đã có tình nhân hoặc đã lạm dụng quyền hưởng di sản mà
không có biên bản kê khai.
Trong những trường hợp nêu trên thì người vợ góa đó được xem là bất
xứng, vì vậy họ không có quyền được hưởng di sản của chồng. Phần di sản này
sẽ được thừa kế cho con hoặc cho cháu của người để lại di sản hưởng.
Sau năm 1945, Việt Nam tuyên bố độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, chủ tịch chính phủ lâm thời đã ban hành sắc lệnh ngày 10/10/1945,
theo chương II – Luật hộ của sắc lệnh này thì ở nước ta trong giai đoạn từ năm 1945
đến năm 1959 vẫn áp dụng những quy định của pháp luật phong kiến về thừa kế, trừ
những quy định trái với nguyên tắc cơ bản của hiến pháp 1946.
Trong giai đoạn tiếp theo, từ năm 1959 đến năm 1981, đã có một số thông
tư của ngành tòa án hướng dẫn giải quyết tranh chấp về quyền thừa kế, tuy
nhiên không có bất cứ quy định nào về người thừa kế không có quyền hưởng di
sản. Chính điều này đã tạo “lỗ hổng” lớn, làm cho pháp luật không giải quyết
được thỏa đáng tranh chấp về thừa kế liên quan tới người thừa kế có hành vi trái
pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc xâm phạm đến người để lại di chúc,… Có
thể nói, trong giai đoạn này, pháp luật đã không dự liệu được hết những tình
huống về thừa kế có thể xảy ra trên thực tế dẫn tới việc chưa có quy định điều

chỉnh cũng như chưa có chế tài hợp lý cho những trường hợp này.
3


Cơ sở pháp lý cho vấn đề này (người không được quyền hưởng di sản) bắt
đầu từ Thông tư 81/TANDTC ngày 24/7/1981 hướng dẫn giải quyết các tranh
chấp về thừa kế do tòa án nhân dân tối cao ban hành, thông tư 81 quy định,
người bị tước quyền thừa kế do đã bị kết án về một trong những hành vi:
- Giết hoặc đối xử quá tàn tệ với người để lại thừa kế
- Giết người thừa kế cùng hàng hòng chiếm đoạt toàn bộ di sản hoặc để
tăng kỷ phần thì sẽ không được hưởng thừa kế của hai người đó
Tuy nhiên, có thể thấy, tại thông tư này chưa dự liệu được hết các trường
hợp không xứng đáng được hưởng di sản như người bị kết án về hành vi ngược
đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản; người vi phạm nghiêm trọng
nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; người có hành vi lừa dối, cưỡng ép,
ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc,…
Đến pháp lệnh thừa kế năm 1990 và sau đó là bộ luật dân sự năm 1995, và
bộ luật dân sự năm 2005 đã khắc phục những hạn chế này được quy định cụ thể
tai điều 643 BLDS 2005.
“Điều 643: Người không được quyền hưởng di sản
1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
a. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về
hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm
nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
b. Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
c. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác
nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
d. Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản
trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản”


4


II. NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN THEO ĐIỀU 643
BLDS 2005.
1.Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về
hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm
nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó (điểm a khoản 1 điều 643)
1.1 Hành vi cố tình xâm phạm tính mạng tính mạng, sức khỏe người để lại di
sản.
Hành vi cố tình xâm phạm tính mạng người để lại di sản là hành vi cố ý
tước đoạt tính mạng người để lị di sản một cách trái pháp luật bằng mọi hình
thức dù với bất kì động cơ hay mục đích nào kể cả khi được sự đồng ý của nạn
nhân.
Về mặt chủ quan thì hành vi tước đoạt tính mạng người để lại di sản phải
được thực hiện với lỗi cố ý, nghĩa là người phạm tội nhận thức rõ được hành vi
vi phạm của mình là nguy hiểm và gây ra hậu quả chết người nhưng vẫn mong
muốn (cố ý trực tiếp) hoặc có ý thức biết trước hậu quả nhưng vẫn để mặc cho
hành vi đó xảy ra (cố ý gián tiếp). Như vậy nếu hành vi chỉ là vô ý làm chết
người để lại di sản thì người phạm tội cũng không bị tước quyền thừa kế di sản
thừa kế. Như vậy việc xem xét lỗi cố ý hay vô ý trong trường hợp này có ý
nghĩa quyết định đến việc người đó có được hưởng di sản hay không, động cơ
mục đích của việc phạm tội sẽ không phải là căn cứ xem xét việc có bị tước
quyền hưởng di sản hay không mặc dù đó là tình tiết để định khung tăng nặng
trách nhiệm hình sự.
Điều 71 hiến pháp 1992 quy định về việc cá nhân có quyền được bảo hộ
về sức khỏe. Hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người khác là hành vi tác động
khiến cho tìn trạng sức lực của người đó yếu đi, gây nên các tổn thương ở các
bộ phận cơ thể, phá vỡ sự hoạt động bình thường trong cơ thể người khác là

hành vi cấu thành các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
người khác được thực hiện bằng hành động hoặc không hành động. (điều 104,
105,106 BLHS 1999). Cũng giống như hành vi xâm phạm tính mạng, hành vi
5


xâm phạm sức khỏe người khác được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý
gián tiếp. Chỉ có thể tước quyền thừa kế của người có hành vi cố xâm phạm sức
khỏe người để lại di sản nếu hành vi đó đã bị kết án bằng 1 bản án có hiệu lực
pháp luật.
Cơ sở để tước quyền hưởng di sản của người thừa kế là việc cơ quan có
thẩm quyền xác nhận bằng 1 bản án hình sự trong đó kết án họ về các tội xâm
phạm tính mạng sức khỏe người khác theo BLHS 1999. Và bản án đó được coi
là căn cứ để tước quyền hưởng di sản của 1 người khi đã có hiệu lực pháp luật .
Theo điểm a khoản 2 nghị quyết 02/HĐTP thì những người đã bị kết án dù sau
này có được xóa án tích thì người bị kết án cũng không có quyền hưởng di sản.
“người thừa kế đã bị kết án bằng 1 bản án có hiệu lực pháp luật về hành vi cố ya
xâm phạm tính mạng sức khỏe hoặc hành vi cố ý xâm phạm tính mạng sức khỏe
người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản mà người thừa
kế khác có quyền được hưởng thì dù đã được xóa án tích cũng không có quyền
hưởng di sản của người chết.” hiện tại BLDS 2005 còn chưa quy định cụ thẻ về
điều này.
Như vậy nếu một người có hành vi cố ý xâm phạm tính mạng sức khỏe
sức khỏe người khác và đã bị kết án về hành vi này bằng 1 bản án có hiệu lực
pháp luật đều bị tước quyền hưởng di sản. Nếu hành vi trên không bị kết án hay
bản án chưa có hiệu lực thì pháp luật hoặc chỉ là vô ý làm thiệt hại đến tính
mạng người khác, vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người
khác thì người đó vẫn được quyền hưởng di sản của người để lại di sản.
1.2 Hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản.
Hành vi ngược đãi là hành vi đối xử tàn nhẫn, tồi tệ với người thân người

lệ thuộc mình thông qua việc đánh đập, chửi mắng, không cho họ những quyền
tối thiểu như học hành, nghỉ ngơi….trong khi bản thân người ngược đãi có đủ
điều kiện để có thể đối xử tốt hơn. Đây là hành vi trái pháp luật và trái cả đạo
đức xã hội.

6


Hành vi hành hạ là hành vi đối xử tàn ác gây đau đớn về thể xác và tinh
thần cho người khác khiên họ không chỉ bị đau đớn về thể xác mà còn bị giày
vò đau khổ về tinh thần. Những hành vi trên chỉ có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc
cố ý gián tiếp chứ không thể là do vô ý gây ra và giữa người phạm tội và tội
phạm phải có quan hệ lệ thuộc về hôn nhân, gia đình dòng tộc. Tuy nhiên BLDS
2005 chỉ quy định đó là hành vi ngược đãi hành hạ có tính chất nghiêm trọng
nhưng tính nghiêm trọng là như thế nào lại chưa quy định cụ thể.
Cơ sở để không cho người có hành vi ngược đãi hành hạ người để lai di
sản thừa kế là việc quy định hành vi ngược đãi phải có tính nghiêm trọng tuy
rằng tính nghiêm trọng đó lại chưa được quy định cụ thể, nhưng cơ sở để tước
quyền thừa kế chính là bản án có hiệu lực, nên bản thân bản án đã xác định tính
nghiêm trọng của hành vi này. Theo BLHS thì những hành vi ngược đãi nghiêm
trọng xâm phạm đến sức khỏe danh dự nhân phẩm người bị hại là cấu thành các
tội được quy định tại các điều 110, điều 151, điều 100.
1.3. Hành vi xâm phạm nghiêm trọng danh dự nhân phẩm người để lại di sản.
Danh dự nhân phẩm là những giá trị tinh thần gắn liền với một cá nhân
nhất định, luôn được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, khi các yếu tố này bị xâm
phạm sẽ dẫn đến tổn thất về cả vật chất và tinh thần cho người bị hại. Hành vi
xâm phạm nghiêm trọng danh dự nhân phẩm người khác có thể thông qua nhiều
hình thức khác nhau, công khai hoặc không công khai. Về trách nhiệm hình sự
các hành vi trên có thể cấu thành tội làm nhục người khác hoặc tội vu khống.
Cơ sở để tước quyền thừa kế của người có hành vi xâm phạm nghiêm

trọng danh dự nhân phẩm người để lại di sản là 1 bản án có hiệu lực pháp luật
kết án về các hành vi trên. Và người bị kết án đương nhiên không có quyền
hưởng di sản thừa kế. Đây là 1 quy định phù hợp với truyền thông đạo đức và
phong tục coi trọng chữ hiếu của nhân dân ta từ ngàn xưa.

7


2. Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản.
Quan hệ nuôi dưỡng trong điều khoản này đề cập tới đó là quan hệ nuôi
dưỡng giữa người thừa kế theo pháp luật và người để lại di sản khi người để lại
di sản còn sống. Nghĩa vụ nuôi dưỡng ở đây phải được pháp luật quy định một
cách chính thức (nghĩa vụ pháp lý) chứ không phải là nghĩa vụ đạo đức thuần
túy. Nghĩa vụ nuôi dưỡng ở đây có thể được hiểu rộng ra là: nghĩa vụ nuôi
dưỡng, chăm sóc người để lại di sản khi còn sống và nghĩa vụ cấp dưỡng người
để lại di sản khi còn sống. Nghĩa vụ nuôi dưỡng phát sinh trong các quan hệ
sau: cha mẹ - con, anh chị em ruột với nhau, ông bà nội, ngoại – cháu, vợ chồng,… trong trường hợp một bên cần nuôi dưỡng.
Người bị coi là có hành vi vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng được luật
HN&GĐ xác định có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhưng họ lại không thực hiện nghĩa
vụ dù bản thân có đầy đủ khả năng và điều kiện để thực hiện nghĩa vụ nuôi
dưỡng. Theo luật HN&GD người thừa kế phải có nghĩa vụ nuôi dưỡng và cấp
dưỡng đối với người để lại di sản trong những trường hợp sau:
Thứ nhất, Người để lại di sản là cha mẹ hoặc con của người đó.
Nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa cha mẹ con là một trong những đạo đức của
người Việt Nam, không chỉ vậy, nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa cha mẹ con còn
được pháp luật quy định và cụ thể hóa trong Luật Hôn nhân và Gia đình 2000
(sau đây gọi là Luật Hôn nhân và Gia đình) (điều 36) và có chế tài nghiêm khắc
nếu vi phạm được quy định tại điều 151 BLHS 1999.
Phạm vi cha, mẹ theo pháp luật thừa kế bao gồm cha mẹ đẻ, con đẻ, cha
mẹ nuôi, con nuôi. Con có nghĩa vụ chăm sóc cha mẹ trong mọi trường hợp

hoản cảnh, đặc biệt là khi cha mẹ bị ốm đau, già yếu, bệnh tật. Nghĩa vụ chăm
sóc nuôi dưỡng cha mẹ là nghĩa vụ bắt buộc nhưng đã vi phạm nghĩa vụ đó thì
không những bị coi là bất hiếu mà còn bị pháp luật tước quyền hưởng di sản
thừa kế của cha me. Nhưng theo quy định tại luật HN&GD thì cha mẹ có nghĩa
vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con trong hai trường hợp:
+ Con chưa thành niên
8


+ Con đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không
có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình
Con có quyền lập di chúc để lại thừa kế trong ba trường hợp:
+ Con đã thành niên, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự
+ Con chưa thành niên trên mười lăm tuổi, có tài sản riêng
+ Con đã thành niên nhưng bị tàn tật, tuy nhiên không mất năng lực hành
vi dân sự
Có thể thấy, trong ba trường hợp này, cha mẹ chỉ có nghĩa vụ nuôi dưỡng
con trong hai trường hợp sau. Mặt khác, cha mẹ là người đương nhiên được
hưởng di sản thừa kế của con bất kể có được con để lại di sản theo di chúc hay
không (người thừa kế không phụ thuộc vào nôi dung của di chúc – điều 669)
nhưng nếu cha mẹ không thực hiện quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng con trong khi
con thuộc trường hợp thứ hai và thứ ba thì cha mẹ cũng sẽ không được hưởng
bất kỳ tài sản nào từ di sản thừa kế của con.
Trong khi chỉ có một số trường hợp cha mẹ mới buộc phải nuôi dưỡng
con, thì nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ của con là trong mọi
trường hợp, bất luận tình trạng sức khỏe của cha mẹ ra sao, tình hình kinh tế của
cha mẹ như thế nào.
Thông thường nghĩa vụ nuôi dưỡng chăm sóc lẫn nhau là đạo đức đối xử
giữa những người có 1 trong các mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi
dưỡng. Tuy nhiên giữa con riêng và cha mẹ kế không có mối quan hệ huyết

thống nuôi dưỡng theo quy định họ lại có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau.
(điều 38 luật HN&GD). Theo điều 679 BLDS 2005: “Con riêng và bố dượng
mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng nhau như cha mẹ con thì được thừa
kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại điều 676 và
điều 677 của bộ luật này.” Như vậy thì theo quy định của BLDS thì chỉ khi con
riêng và cha dượng, mẹ kế cùng chung sống với nhau và phát sinh mối quan hệ
nuôi dưỡng giữa họ thì họ được quyền hưởng thừa kế của nhau. Và các trường
hợp phát sinh quan hệ nuôi dưỡng giữa cha dượng mẹ kế với con riêng cũng
9


như các trường hợp với con đẻ và ngược lại. Nếu một trong 2 bên vi phạm
nghĩa vụ nuôi dưỡng thì bên kia chết trước, quyền thừa kế của bên vi phạm sẽ bị
tước theo BLDS.
Thứ 2, Người để lại di sản là ông bà của người đó hoặc là cháu của
người đó.
Theo điều 47 Luật Hôn nhân và Gia đình: Ông, bà nội, ngoại có nghĩa vụ
nuôi dưỡng cháu trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc đã thành niên
nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi dưỡng mình, đồng thời cũng không có cha, mẹ, anh,
chị, em có thể nuôi dưỡng được. Và cũng đã xác định rằng cháu có nghĩa vụ
phải phụng dưỡng ông bà. Tuy nhiên pháp luật nước ta không thừa nhận quan
hệ thừa kế giữa ông bà và cháu trong trường hợp người cháu là con nuôi của
con đẻ mình bởi lẽ quan hệ thừa kế này chỉ phát sinh trên mối quan hệ huyết
thống. Do đó con nuôi không phải là người thừa kế theo pháp luật của cha mẹ
và con đẻ người nuôi. Theo đó khi ông bà chết thì chỉ có cháu ruột mới được
hưởng thừa kế ở hàng thứ 2.
Thứ 3, Người để lại di sản là anh chị em của người đó
Nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa các anh chị em cũng được quy định trong điều
48 Luật Hôn nhân và Gia đình 2000, theo đó thì anh, chị em có nghĩa vụ nuôi

dưỡng nhau trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều
kiện trông nom, chăm sóc giáo dục con. Tuy nhiên phạm vi anh, chị, em bao
gồm anh, chị, em
Như vậy nghĩa vụ nuôi dưỡng của anh, chị, em (người thừa kế theo di
chúc) đối với người để lại thừa kế khi người này nằm trong tình trạng trên, đồng
thời họ là người chưa thành niên (tròn mười lăm nhưng chưa đủ mười tám tuổi)
hoặc là người bị tàn tật nhưng không bị mất năng lực hành vi.
Bởi vậy nếu người thừa kế và người để lại di chúc thuộc một trong hai
trường hợp này mà người thừa kế lại không thực hiện nghĩa vụ chăm sóc nuôi

10


dưỡng người để lại di sản thì người thừa kế cũng không được hưởng di sản thừa
kế theo quy định của điều luật này.
Thứ 4, Người để lại di sản là vợ chồng của người thừa kế.
Giữa vợ chồng phải tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp hoặc hon nhân thực tế
được tòa án công nhận. Vợ chồng đối với nhau không có nghĩa vụ nuôi dưỡng
mà giữa họ có nghĩa vụ cấp dưỡng lẫn nhau khi 1 bên gặp khó khăn, không có
khả năng lao động hoặc mất năng lực hành vi dân sự khi họ đã ly hôn hoặc khi
hôn nhân tồn tại trong điều kiện vợ chồng sống xa nhau mà một bên lâm vào
tình trạng khó khăn túng thiếu do bị tai nạn mất năng lực hành vi dân sự, mất
sức lao động, ốm đau…hoặc có lí do chính đáng khác thì có quyền yêu cầu bên
kia cấp dưỡng.
Trong trường hợp vợ chồng đã li hôn bằng 1 bản án có hiệu lực pháp luật
mà 1 bên chết thì bên còn lại không là người thừa kế theo pháp luật của người
đã chết chỉ được quyền thừa kế theo di chúc. Nếu sau li hôn 1 bên đã không
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho bên kia thì sẽ không được hưởng di sản của
bên còn lại khi người đó chết. Trong trường hợp khi hôn nhân đang tồn tại nếu 1
bên không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng với bên còn lại thì khi người đó chết,

sẽ không được hưởng di sản thừa kế theo quy định của pháp luật.
Như vậy theo điểm b khoản 1 điều 643 thì người vi phạm nghiêm trọng
nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản sẽ không được quyền hưởng thừa kế.
Tuy nhiên trong điều khoản này có quy định rằng người vi phạm nghiêm trọng
nghĩa vụ nuôi dưỡng với người để lại di sản thì không được quyền hưởng di sản.
Vậy như thế nào là nghiêm trọng và căn cứ vào đâu để xác định mức độ nghiêm
trọng? Thực chất, tính chất nghiêm trọng này hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định
của thẩm phán. Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng ở đây được hiểu là, có
khả năng thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng mà không thực hiện làm cho người cần
được nuôi dưỡng lâm vào tình trạng khổ sở hoặc nguy hiểm tới tính mạng.
Tuy nhiên, điều khoản này được cho là mang nhiều tính chất đạo đức, bởi
lẽ, nếu một người đã không có khả năng tự nuôi bản thân, phụ thuộc hoàn toàn
11


vào sự nuôi dưỡng của người khác, và nếu thiếu sự nuôi dưỡng đó họ sẽ lâm
vào tình trạng khổ sở hoặc nguy hiểm tới tính mạng thì không thể có tài sản để
để lại thừa kế.
3. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác
nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có
quyền hưởng (điểm c khoản 1 điều 643).
Người thừa kế khác ở đây có thể là người thừa kế theo di chúc hoặc theo
pháp luật của người để lại di sản nhưng đa phần người thừa kế khác bị giết ở
đây là người thừa kế theo pháp luật. ). Người thừa kế khác ở đây có thể hiểu
theo hai hướng:
- Thứ nhất, người thừa kế cùng hàng
- Thứ hai, người thừa kế không cùng hàng – trong trường hợp này buộc
phải là người thừa kế hàng phía trên. Vì không có lý do gì giết người ở hàng
thừa kế phía sau với mục đích chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản thừa kế
mà người thừa kế đó được hưởng được. Và người thừa kế khác phải không có

con cháu để thế vị hoặc con cháu thuộc trường hợp không được quyền hưởng di
sản, từ chối nhận di sản.
Hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác là hành vi cố ý
tước đoạt tính mạng người thừa kế khác 1 cách trái pháp luật. Tuy nhiên cần
phải phân biệt ba trường hợp xâm phạm đến tính mạng của người thừa kế khác
như sau:
- Cố ý xâm phạm tính mạng của người thừa kế khác – giết người thừa kế
khác với mục đích chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản mà người thừa kế
đó được hưởng: trong trường hợp này, người thừa kế thực hiện hành vi đó sẽ
không được quyền hưởng di sản thừa kế
- Cố ý xâm phạm tính mạng của người thừa kế khác – giết người thừa kế
khác nhưng không phải với mục đích chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản
mà người thừa kế đó được hưởng. Trong trường hợp này, người thừa kế thực
hiện hành vi giết người thừa kế khác không bị tước quyền hưởng di sản.
12


- Vô ý làm chết người thừa kế khác: dĩ nhiên trong trường hợp này là lỗi
vô ý, hoàn toàn không thuộc trường hợp bị tước quyền thừa kế, nên người thực
hiện hành vi này vẫn có quyền hưởng di sản.
Cơ sở để tước quyền thừa kế của ngưới có hành vi cố ý xâm phạm tính
mạng người thừa kế khác thì cũng cần là hành vi cố ý và bị kết án bắng 1 bản án
có hiệu lực pháp luật, có nghĩa là nếu người có hành vi trên không bị kết án về
hành vi đó thì không bị tước quyền hưởng di sản. Tuy nhiên việc tước bỏ quyền
hưởng di sản của người có hành vi xâm phạm đến tính mạng người thưà kế khác
phải xem xét đến động cơ, mục đích của người này nhằm mục đích chiếm đoạt
1 phần hoặc toàn bộ di sản mà người thừa kế khác có quyền được hưởng, đây là
tình tiết quan trọng để xác đinh việc người đó có được quyền hưởng thừa kế hay
không.
Tuy nhiên cần lưu ý rằng hành vi phạm pháp phải xảy ra trước thời điểm

mở thừa kế. Tại sao lại phải xảy ra trước thời điểm mở thừa kế? Bởi lẽ, nếu sau
thời điểm mở thừa kế, mỗi người thừa kế đã trở thành chủ sở hữu thực sự phần
thừa kế của mình. Nếu người thừa kế đó chết thì phần được thừa kế được để lại
cho những người thừa kế của họ chứ không phải là kẻ giết người.
Ví dụ như trường hợp: A và B kết hôn hợp pháp có con chung là C, D, E.
D có vợ là H. A chết không để lại di chúc. Sau khi A chết, C giết D. Nhưng thực
tế, thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Tại thời điểm đó,
phần di sản của D được hưởng đã được gộp vào phần tài sản riêng của D. Và
người thừa kế của D sau khi chết là H và B chứ không phải C. Bởi vậy, trong
trường hợp này không thể xem hành vi giết người thừa kế cùng hàng của C là
nhằm chiếm đoạt một phần di sản của A được.
Trường hợp khác, giả sử, kẻ giết người cũng là một người có quyền
hưởng thừa kế của người bị giết, thì các quy tắc thiết lập tại điểm a khoản 1 điều
643 sẽ được áp dụng.
Ví dụ: A và B kết hôn hợp pháp, có ba người con chung là C, D, E. Tháng
1/2000 A chết. Tháng 2/2000, C giết B. Trong trường hợp này có thể thấy, C là
13


người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của B. Nhưng C đã có hành vi giết B, nên
theo điểm a khoản 1 điều 643, C sẽ không được quyền hưởng di sản của B. Tuy
nhiên, C hoàn toàn không ở tình trạng không có quyền hưởng di sản của A.
Người thừa kế thực hiện hành vi xâm phạm tính mạng của người thừa kế
khác với mong muốn làm tăng phần thừa kế mình được hưởng một cách trực
tiếp trong di sản của người mà họ và người có tính mạng bị xâm hại được
hưởng chung. Sự mong muốn ấy phải có cơ sở trên thực tế.
Ví dụ như trường hợp A và B kết hôn hợp pháp, có ba người con chung là
anh C, anh D và chị E. Anh C kết hôn hợp pháp với chị M và có con chung là
cháu K và cháu H. Tháng 5/2009 ông A chết mà không để lại di chúc. Trong
trường hợp này, di sản của ông sẽ được chia đều cho bốn người thuộc hàng thừa

kế thứ nhất đó là bà B (vợ ông A) và ba người con: anh C, anh D và chị E.
Trong trường hợp này, giả sử trước khi ông A chết, anh D có hành vi giết anh
C. Tuy nhiên, do anh C có người thế vị, nên dù D có giết C cũng không thể tăng
thêm phần di sản mình được hưởng được, mà phần di sản (đáng lý được để lại
cho C) thì hai cháu K và H sẽ được hưởng theo nguyên tắc thế vị.
Một lưu ý nữa đó là động cơ phạm tội phải được ghi nhận trong bản án.
Do đó, bản án không thể được tuyên trước khi mở thừa kế. Vì sẽ rất bất hợp lý
nếu gán cho một người có ý định chiếm đoạt phần tài sản (di sản) không tồn tại
ở thời điểm phạm tội và cũng không tồn tại ở thời điểm xét xử. Bản án chỉ có
thể được tuyên sau khi mở thừa kế. Trong trường hợp án đã xử xong trước thời
điểm mở thừa kế thì có thể được xét xử lại theo thủ tục tái thẩm.
Cũng giống như trong trường hợp nêu tại điểm a khoản 1 điều 643 thì dù
người thừa kế phạm tội quy định tại điều khoản này được xóa án tích thì vẫn
không được hưởng di sản.
4. Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản
trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc
nhằm hưởng một phần hặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di
sản (điểm c khoản 1 điều 643)
14


4.1. Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản
trong việc lập di chúc
Di chúc thể hiện ý chí của người có tài sản lập ra, định đoạt phần tài sản
đó của mình cho những người thừa kế sau khi người lập di chúc chết đi. Di chúc
là giao dịch dân sự chỉ thể hiện ý chí của một bên – đó là người lập di chúc. Ý
chí của người lập di chúc là hoàn toàn tự do, tự nguyện, tự định đoạt tài sản của
mình cho người đã được chỉ định. Pháp luật cũng quy định về điều kiện để lập
di chúc (điều 647 BLDS 2005), theo đó, người lập di chúc phải đủ điều kiện về
độ tuổi lập di chúc và điều kiện để di chúc hợp pháp (điều 652 BLDS 2005),

theo đó người lập di chúc phải trong tình trạng minh mẫn, sáng suốt, hoàn toàn
làm chủ được suy nghĩ và hành vi của bản thân, không bị ràng buộc bởi bất cứ
tác nhân nào. Người lập di chúc hiểu được mình muốn định đoạt tài sản như thế
nào. Khi người thừa kế có hành vi lừa dối cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại
di sản trong việc lập di chúc, khi di chúc của người để lại di sản được lập dưới
sự tác động của người khác thì di chúc đó không còn là sự thống nhất giữa ý chí
và sự bày tỏ ý chí của người để lại di sản nên không có hiệu lực pháp luật, điều
này làm phát sinh thừa kế theo pháp luật.
Như vậy theo BLDS quy định thì hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn
cản người để lại di sản trong việc lập di chúc sẽ bị tước quyền hưởng di sản
thừa kế. Tuy nhiên cần xét đến trường hợp viẹc lừa dối không nhằm cho mình
được hưởng di sản mà mục đích để cho người khác hưởng thừa kế thì người có
hành vi lừa dối người để lại di sản vẫn có quyền được hưởng di sản thừa kế.
4.2 Người có hành vi giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm
hưởng một phần hặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Điều 662 BLDS quy định: “người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung,
thay thế, hủy bỏ di chúc bất cứ lúc nào…” nên những người khác không có
hành vi này, nếu thực hiện những hành vi trên thì nhằm mục đích hưởng di sản
thì sẽ bị tước quyền hưởng di sản của người lập di chúc.

15


Hành vi giả mạo di chúc là việc lập di chúc theo ý chí của mình nhằm
thay thế di chúc của người để lại di chúc hoặc làm di chúc khiến cho người khác
lầm tưởng người để lại di sản có để lại di chúc( thực tế người chết không để lại
di chúc). Hành vi giả mạo di chúc cũng khiến di chúc bị vô hiệu và di sản được
chia thừa kế theo pháp luật
Hành vi sửa chữa di chúc là hành vi thay đổi, phủ nhận (sửa đổi, bổ sung)
một phần hoặc toàn bộ nội dung di chúc, thêm một số vấn đề trái với ý chí của

người để lại di sản khi còn sống, thường là mục đích nhằm có lợi cho người có
hành vi sửa chữa di chúc nhằm hưởng nhiều hơn phần di sản mình được hưởng
hoặc hưởng 1 phần hoặc toàn bộ di sản.
Hủy di chúc là hành vi dung các thủ đoạn khác nhau khiến di chúc của
người để lại di sản không còn tồn tại, bị phá hủy hoàn toàn không thể khôi phục
được. Động cơ của hành vi hủy hoại di chúc có thể là người đó không được chia
di sản trong di chúc hoặc khi chia di sản theo di chúc họ sẽ được hưởng phần ít
hơn khi chia theo pháp luật. Do đó người có hành vi hủy hoại di chúc cũng đồng
thời là người được thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản.
Cơ sở của tước quyền thừa kế của người có hành vi giả mạo, sửa chữa,
hủy di chúc phải trái với ý chí của người lập di chúc, nếu việc giả mạo sửa chữa
hay hủy bỏ nội dung di chúc không trái với ý chí của người lập di chúc. Thì tất
nhiên không thể tước quyền hưởng di sản của họ.
Điều luật nhắc tới các hành vi lừa dối, cưỡng ép, ngăn cản việc lập di
chúc, giả mạo, sửa chữa, hủy di chúc, tuy nhiên còn một số hành vi không được
nhà làm luật nêu ra như làm di chúc giả, giấu giếm di chúc,… có thể được xử lý
theo nguyên tắc áp dụng pháp luật tương tự.
Tuy nhiên việc xác định tước quyền hưởng di sản của người thừa kế trong
các trường hợp quy định tại khoản 1 điều 643 BLDS 2005 cũng cần được cân
nhắc xem xét tôn trọng dự tự do ý chí của người để lại di sản. Theo khoản 2
điều 643 BLDS thì: “Những người quy định tại khoản 1 điều này vẫn được
hưởng di sản nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó nhưng
16


vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc”. Nhưng người thừa kế đã nêu trên không
có quyền hưởng di sản thừa kế theo pháp luật.
III. MỘT SỐ NHẬN XÉT CÙNG Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN
THIỆN QUY ĐỊNH VỀ NHỮNG NGƯỜI THỪA KẾ KHÔNG CÓ
QUYỀN HƯỞNG DI SẢN THEO PHÁP LUẬT.

1.Thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế liên quan đến người không được
quyền hưởng di sản.
Trong xã hội các trường hợp tranh chấp liên quan đến người không
được quyền hưởng di sản xảy ra ngày càng và đa dạng mà chủ yếu là tranh chấp
lien quan đến việc xác định người thừa kế vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ chăm
sóc nuôi dưỡng, giả mạo…chủ yếu do các bên không hiểu rõ quy định tại điều
643 BLDS. Trường hợp người không được quyền hưởng di sản trong thực tiễn
thường gặp nhất là 1 bên xuất trình di chúc bên kia khai đó là di chúc giả, cũng
có trường hợp 1 bên cho rằng di chúc đã bị bên kia sửa chữa hoặc hủy di chúc.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do chưa hiểu rõ quy định của pháp
luật, đồng nhất người bị truất quyền hưởng di sản thừa kế và người bị tước
quyền hưởng di sản. Và hiện nay trong nhiều vụ tranh chấp thừa kế mà chỉ áp
dụng quy định của pháp luật để xác định những người không được quyền hưởng
di sản thì thì bỏ sót nhiều trường hợp, ví dụ như người biết được hành vi quy
định tại điều 643 mà không tố giác, xúi giục người thừa kế khác xâm phạm tính
mạng người để lại di sản, giả mạo sửa chữa nội dung di chúc…nếu xét về đạo
đức xã hội cũng như theo quy định của pháp luật về thừa kế thì những hành vi
trên đều bị tước quyền thừa kế.
2.Một số ý kiến nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về người thừa kế
không có quyền hưởng di sản.
Thứ nhất, tuy những quy định tại điều 643 BLDS là hoàn toàn phù
hợp với đạo lý, phong tục, tập quán của nhân dân ta nhưng trong điều luật trên
còn có những nội dung chưa rõ ràng có thể dẫn đến việc áp dụng giải quyết
tranh chấp về thừa kế không thống nhất giữa các toà án. Ví dụ như điểm b
17


Khoản 1 điều 643 BLDS quy định người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi
dưỡng người để lại di sản thì không có quyền hưởng di sản. Vậy những người
thừa kế nào có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau? Quy định này có thể dẫn đến hiểu

nhầm là cháu có nghĩa vụ nuôi dưỡng cô, dì, chú, bác vì hàng thừa kế thứ ba là
cô, dì, chú, bác và cháu gọi người chết là cô, dì, chú, bác.
Ngoài ra còn một điểm không rõ ràng nữa đó chính là như thế nào thì
được coi là vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng ? Vấn đề này vốn dĩ
hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của thẩm phán. Cần phải có một văn bản pháp
luật hướng dẫn để có sự thống nhất giữa các tòa án, cũng như minh bạch trong
việc đánh giá tính nghiêm trọng của hành vi vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng. Khi
pháp lệnh thừa kế năm 1990 ra đời thì theo đó là Nghị quyết 02/NQ/HĐTP ngày
19 tháng 10 năm 1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (hiện
không còn hiệu lực) hướng dẫn về việc áp dụng một số quy định của pháp lệnh
thừa kế trong đó có nêu: Những người có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau theo quy
định tại các Điều 19, Điều 20 và Điều 27 của Luật hôn nhân và gia đình năm
1986, trong khoảng thời gian 3 năm trước khi người để lại di sản chết nếu có
khả năng thực hiện nuôi dưỡng mà không thực hiện làm cho người cần được
nuôi dưỡng lâm vào tình trạng khổ sở hoặc nguy hiểm đến tính mạng thì không
có quyền hưởng di sản của người đó. (02/1990/NQ – HĐTP – 2,b). Qua đó, có
thể thấy Nghị quyết này là tương đối phù hợp với thực tế nên cần tiếp thu tinh
thần đó để ban hành một văn bản hiện hành để Tòa án có cơ sở pháp lý áp dụng
khi giải quyết thừa kế.
Thứ hai, ngoài các hành vi được quy định trong khoản 1 điều 643
BLDS cần phải xem xét đến một hành vi nguy hiểm khác của người thừa kế như
- Hành vi không cứu giúp người dể lại di sản khi trong tình trạng nguy
hiểm đến tính mạng trong khi có khả năng thực hiện về khách quan và chủ quan
để cứu giúp người đó dẫn đến hậu quả người đó không được cứu giúp phải
chết;

18


- Người đã biết những hành vi xâm phạm tính mạng người để lại di

sản, người thừa kế khác mà không tố giác hoặc che giấu tội phạm.
- Người có hành vi đe dọa người để laị di sản trong việc lập di chúc,
người có hành vi che giấu di chúc, giấu 1 hoặc 1 số tài sản của người để lại di
chúc nhằm hưởng 1 phần hoặc toàn bộ tài sản.
- Người có hành vi xúi giục người thừa kế khác lừa dối, cưỡng ép,
ngăn cản, đe dọa người để lại di sản trong việc lập di chúc, xúi giục người thừa
kế khác giả mạo, sửa chữa, di chúc, giết người để lại di sản.
Trên đây đều là những hành vi trái pháp luật và đạo đức đồng thời gây
nguy hiểm lớn cho xã hội. Do đó những đối tượng có hành vi như vậy cũng cần
bị tước quyền hưởng di sản. Vì vậy mà khoản 1 điều 643 nên quy định thêm
điểm này.
Thứ ba, trong điều 643 Bộ luật dân sự 2005 đã quy định người không
được quyền hưởng di sản, bao gồm cả người thừa kế theo luật và cả người thừa
kế theo di chúc. Đó là những người đáng lẽ được hưởng di sản vì theo quy định
của pháp luật thì họ là người thừa kế của người để lại di sản hoặc đã được lập di
chúc cho họ hưởng nhưng những người này lại có hành vi trái pháp luật, trái
đạo đức nên bị pháp luật tước đi quyền hưởng di sản theo luật cũng như theo di
chúc. Tuy nhiên tính trái pháp luật và đạo đức trong hành vi của người thừa kế
phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định bằng một bản án hoặc
bằng một quyết định. Mặt khác, một bản án chỉ được thi hành khi đã có hiệu lực
pháp luật bởi nó có thể bị sai sót và có thể bị một cấp xét xử khác sửa đổi hoặc
hủy bỏ. Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam quy định : “ Không ai có thể bị coi là có tội nếu chưa có bản án kết
tội dù đã có hiệu lực của tòa án”. Vì vậy, hành vi của người thừa kế dù đã bị
kết án bằng một bản án thì vẫn chưa thể kết luận người đó phạm tội. Bản án đó
chỉ được coi là căn cứ để tước quyền hưởng di sản của người có tên trong di
chúc khi đã có hiệu lực pháp luật. Do vậy, việc tranh chấp thừa kế trong những

19



trường hợp này chỉ được tiến hành giải quyết chừng nào bản án nói trên đã có
hiệu lực pháp luật.
Do đó có cần hay không một bản án về tình trạng không được hưởng di
sản? Văn bản luật không nói gì tới các thủ tục thiết lập tình trạng không có
quyền hưởng di sản. Điều đó có nghĩa rằng, không có quyền hưởng di sản phát
sinh một cách đương nhiên do hiệu lực của pháp luật, một khi các điều kiện cần
thiết đã hội tụ đầy đủ. Tất nhiên, trong trường hợp có sự phản đối thì có thể sẽ
có một vụ án. Nhưng khi đó, tòa án chỉ làm một công việc duy nhất đó là xác
nhận hay không tình trạng không có quyền hưởng di sản dựa trên kết quả thẩm
định của các yếu tố liên quan. Sự tồn tại của một bản án kết án người thế vị về
hành vi trái pháp luật quy định tại khoản 1 điều 643 BLDS. Nói cách khác,
không có bản án thiết lập tình trạng không có quyền hưởng di sản mà chỉ có bản
án tuyên bố tình trạng đó.
Trong khung cách của đạo đức và pháp lý của việt Nam, quyền kiện cáo
liên quan tới tình trạng không có quyền hưởng di sản của một người phải được
coi là một quyền gắn liền với nhân thân của người có quyền hưởng di sản, bởi
vậy, chỉ có họ mới được phép thực hiện quyền này trước tòa: vấn đề ở đây
không phải là có lợi hay không có lợi mà là làm như thế nào để răn đe ai cố tình
chà đạp lên các giá trị được pháp luật bảo vệ.

20



×