Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.69 KB, 12 trang )

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 2.

A. LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải đối đầu với rất
nhiều khó khăn, thách thức. Một trong số đó là sức ép cạnh tranh trong nền kinh tế
thị trường. Làm cách nào để tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội bán hàng và cung ứng dịch
vụ. Giải pháp cho các doanh nghiệp trong trường hợp này chính là tiến hành các
hoạt động xúc tiến thương mại. Hoạt động xúc tiến thương mại có rất nhiều hình
thức khác nhau như: khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng
hóa, dịch vụ, hội chợ thương mại, triển lãm thương mại. Các hình thức này đã trở
nên không còn xa lạ đối với người tiêu dùng. Đặc biệt là hình thức quảng cáo
thương mại. Quảng cáo thương mại là một hoạt động xúc tiến hàng hóa hiện nay
được các doanh nghiệp rất ưa chuộng và rất cần thiết trong kinh doanh hàng hóa
dịch vụ. Nước ta đã có một số văn bản pháp luật quy định về quảng cáo thương
mại, tạo cơ sở pháp lý để hoạt động quảng cáo thương mại được diễn ra thuận lợi
hơn. Tuy nhiên, qua quá trình thực tế áp dụng các quy định về quảng cáo thương
mại, nhận thấy các quy định này còn bộc lộ một số bất cập cần phải được hoàn
thiện. Do đó, em đã quyết định chọn đề tài: “Hoàn thiện pháp luật về quảng cáo
thương mại” để nghiên cứu và tìm hiểu từ đó đưa ra cái nhìn rõ nét hơn về vấn đề
này.
Do khả năng đào sâu giải quyết vấn đề còn hạn chế, cũng như trình độ hiểu
biết, phân tích nội dung còn chưa hoàn thiện nên bài làm còn sơ sài. Mong thầy cô
góp ý để bài làm được hoàn chỉnh. Em xin chân thành cảm ơn!

SV:Nguyễn Ngọc Nam
MSSV: 341003.

1

Lớp: N01 – TL1 – Nhóm 2.



BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 2.

B. NỘI DUNG
I. Lý luận chung về quảng cáo thương mại.
1. Khái niệm và đặc điểm.
Điều 4 Pháp lệnh quảng cáo quy định: “Quảng cáo là giới thiệu đến người tiêu
dùng về hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ bao gồm dịch vụ có mục đích sinh
lời và dịch vụ không có mục đích sinh lời”.
Như vậy, có thể hiểu đối tượng của hoạt động quảng cáo có thể là hoạt động
kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ mang lại lợi nhuận cho tổ chức, cá nhân hoặc các dịch vụ,
thông tin nhằm thực hiện mục tiêu chính trị, văn hoá, xã hội nào đó. Tổ chức, cá
nhân có nhu cầu quảng cáo có thể là thương nhân hoặc không phải là thương nhân
và hoạt động quảng cáo có thể được thực hiện thông qua thương nhân kinh doanh
dịch vụ quảng cáo. Hoạt động quảng cáo về hoạt động kinh doanh , về hàng hoá
dịch vụ có mục đích sinh lời của thương nhân, hoạt động quảng cáo cho thương
nhân khác để thu phí dịch vụ chính là dịch vụ quảng cáo thương mại. Như vậy,
trong pháp luật hiện hành, quảng cáo thương mại chỉ là một bộ phận của hoạt động
quảng cáo nói chung.
Theo quy định của Luật thương mại năm 2005 thì “Quảng cáo thương mại là
hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về
hoạt động kinh doanh hàng hoá , dịch vụ của mình” (Điều 102). Để phân biệt với
quảng cáo nói chung và các hoạt động xúc tiến thương mại khác, quảng cáo thương
mại có những đặc điểm pháp lý cơ bản như sau:
+ Chủ thể hoạt động quảng cáo thương mại là thương nhân. Với tư cách là
người kinh doanh, thương nhân thực hiện quảng cáo thương mại để hỗ trợ cho hoạt
động kinh doanh của mình hoặc thực hiện dịch vụ quảng cáo cho thương nhân khác
theo hợp đồng để tìm kiếm lợi nhuận. Đây là đặc điểm cho phép phân biệt quảng
cáo thương mại với các hoạt động thông tin, cổ động do cơ quan nhà nước, tổ chức

chính trị, tổ chức xã hội…thực hiện nhằm tuyên truyền về đường lối, chủ trương,
chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước.
+ Về tổ chức thực hiện: Thương nhân có thể tự mình thực hiện các công việc
cần thiết để quảng cáo hoặc thuê dịch vụ quảng cáo của thương nhân khác thông
qua hợp đồng dịch vụ.
+ Cách thức xúc tiến thương mại: Trong hoạt động quảng cáo thương mại,
thương nhân sử dụng sản phẩm và phương tiện quảng cáo thương mại để thông tin
về hàng hóa dịch vụ đến khách hàng. Những thông tin bằng hình ảnh, tiếng nói,
chữ viết về hàng hóa dịch vụ cần giới thiệu…được truyền tải đến công chúng thông
qua các phương tiện truyền thanh, truyền hình, ấn phẩm…Đặc điểm này cho phép
phân biệt quảng cáo thương mại với nhưng hình thức xúc tiến thương mại khác
cũng có mục đích giới thiệu hàng hóa, dịch vụ như trưng bày, giới thiệu hàng hóa,
hội chợ triển lãm.
+ Mục đích trực tiếp của quảng cáo thương mại là giới thiệu về hàng hóa, dịch
vụ để xúc tiến thương mại, đáp ứng nhu cầu cạnh tranh và mục tiêu lợi nhuận của
thương nhân.
SV:Nguyễn Ngọc Nam
MSSV: 341003.

2

Lớp: N01 – TL1 – Nhóm 2.


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 2.
2. Hàng hoá, dịch vụ quảng cáo thương mại
Đối tượng của quảng cáo thương mại là hàng hoá, dịch vụ thuộc lĩnh vực
kinh doanh của thương nhân. Với tính chất là một quyền pháp lý của chủ thể kinh
doanh, quyền quảng cáo thương mại và quyền tự do kinh doanh có mối liện hệ mật
thiểt với nhau. Về nguyên tắc, thương nhân được quảng cáo để xúc tiến thương mại

đối với mọi hàng hoá, dịch vụ được quyền kinh doanh của mình. Tuy nhiên, nhằm
thực hiện chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước, luật pháp có những quy định
cấm hoặc hạn chế quảng cáo đối với một số hàng hoá, dịch vụ.
Đối với hàng hoá chưa nhập khẩu, dịch vụ thương mại chưa thực hiện tại Việt
Nam, thương nhân được quyền quảng cáo để tiếp cận, gia nhập thị trường nếu hàng
hoá đó không thuộc diện bị cấm lưu thông hoặc chưa được phép lưu thông, dịch vụ
thương mại đó không thuộc diện bị cấm thực hiện hoặc chưa được phép thực hiện ở
thời điểm quảng cáo. Khi thực hiện quảng cáo, thương nhân phải bảo đảm tính
chính xác, trung thực của những thông tin về hàng hoá, dịch vụ thương mại như:
Quy cách, chất lượng, giá cả, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, phương
thực phục vụ, thời hạn bảo hành…
3. Sản phẩm và phương tiện quảng cáo thương mại
Sản phẩm quảng cáo thương mại bao gồm những thông tin bằng hình ảnh,
hành động, âm thanh, tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu sắc, ánh sáng chứa đựng
nội dung quảng cáo thương mại (Điều 105 Luật thương mại năm 2005). Sản phẩm
quảng cáo thương mại có chứa đựng cả nội dung và hình thức quảng cáo thương
mại.
Nội dung quảng cáo bao gồm những thông tin về hoạt động kinh doanh hàng
hoá, dịch vụ (thương hiệu, loại sản phẩm, tính ưu việt cũng như tiện ích của nó…)
mà chủ quảng cáo muốn được thể hiện nhằm thông báo, giới thiệu rộng rãi đến
công chúng. Nội dung sản phẩm quảng cáo phải đảm bảo lành mạnh, đúng sự thật,
không gây nhầm lẫn cho khách hàng. Nghiêm cấm sử dụng các sản phẩm quảng
cáo chứa đựng thông tin so sánh trực tiếp giữa hoạt động kinh doanh, hàng hoá,
dịch vụ được quảng cáo với hoạt động kinh doanh, hàng hoá, dịch vụ khác (trừ
trường hợp so sánh với hàng giả, hàng vi phạm quyền sở hữu công nghiệp); các sản
phẩm quảng cáo có hình ảnh, âm thanh, cấu trúc…giống với sản phẩm quảng cáo
của thương nhân khác, gây nhầm lẫn cho khách hàng; các sản phẩm quảng cáo có
nội dung không đúng sự thật, tự khẳng định vị trí cao nhất của mình mà không có
bằng chứng hợp lệ bằng văn bản…
Hình thức quảng cáo được thể hiện bằng tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu

sắu, ánh sáng, hình ảnh, hành động, âm thanh và các hình thức khác có khả năng
truyền đạt nội dung thông tin quảng cáo tới công chúng. Hình thức quảng cáo phải
rõ ràng, dễ hiểu và có tính thẩm mĩ. Tiếng nói, chữ viết dùng trong quảng cáo phải
là tiếng Việt, trừ những trường hợp: (1) Từ ngữ đã được quốc tế hoá, thương hiệu
hoặc từ ngữ không thay thế được bằng tiếng Việt; (2) Quảng cáo thông qua sách
báo, ấn phẩm được phép xuất bản bằng tiếng dân tộc thiểu số ở Việt Nam, tiếng
SV:Nguyễn Ngọc Nam
MSSV: 341003.

3

Lớp: N01 – TL1 – Nhóm 2.


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 2.
nước ngoài, chương trình phát thanh truyêng hình bằng tiếng dân tộc thiểu số ở
Việt Nam, tiếng nước ngoài. Trường hợp sử dụng cả tiếng Việt, tiếng dân tộc thiểu
số ở Việt Nam, tiếng nước ngoài thì phải theo thứ tự: Tiếng Việt, tiếng dân tộc
thiểu số, tiếng nước ngoài, trong đó, tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài không
được to hơn khổ chữ tiếng Việt (Điều 8 Pháp lệnh quảng cáo ngày 16/11/2001).
Phương tiện quảng cáo thương mại là các công cụ được sử dụng để giới thiệu
các sản phẩm quảng cáo thương mại. Phương tiện quảng cáo bao gồm tất cả những
phương tiện có khả năng truyền tải thông tin đến công chúng như:
- Báo chí (báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử);
- Mạng thông tin máy tính;
- Xuất bản phẩm (sách, tờ gấp, tờ rời và các sản phẩm in, nhân bản, phim ảnh, băng
hình, đĩa hình, đĩa âm thanh, băng âm thanh);
- Các loại băng – rôn, bảng, biển, pa – nô, áp phích, màn hình đặt nơi công cộng;
- Vật phát quang, vật thể trên không, dưới nước;
- Phương tiện giao thông, vật thể cố định và di động như biểu tượng, biển hiệu,

hàng hoá, mũ, áo, túi xách, các vật dụng khác;
- Chương trình văn hoá, thể thao, hội chợ triễn lãm;
- Các phương tiện truyền tin và phương tiện quảng cáo thương mại khác…
Nhằm đảm bảo trật tự quản lý nhà nước trong hoạt động quảng cáo, đảm bảo
hài hoà lợi ích kinh tế, chính trị, văn hoá của các tổ chức, cá nhân kinh doanh, của
Nhà nước, của công chúng, pháp luật quy định một số giới hạn về diện tích quảng
cáo, thời lượng chương trình quảng cáo, số lần quảng cáo…đòi hỏi chủ thể hoạt
động quảng cáo phải thực hiện (Điều 10, 11, 12, 13,14 Pháp lệnh quảng cáo).
4. Các chủ thể hoạt động quảng cáo thương mại
Có nhiều chủ thể tham gia vào hoạt động quảng cáo thương mại với mục
đích, cách thức và mức độ khác nhau. Đó có thể là thương nhân quảng cáo (người
quảng cáo), thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo, người phát hành quảng
cáo, người cho thuê phương tiện quảng cáo…
- Người quảng cáo.
Do đối tượng của quảng cáo có thể là hàng hóa, dịch vụ sinh lời hoặc thông
tin, dịch vụ không sinh lời nên người quảng cáo có thể là thương nhân hoặc không
phải là thương nhân. Trong quảng cáo thương mại, người quảng cáo phải là thương
nhân hoặc chi nhánh của thương nhân Việt Nam, chi nhánh của thương nhân nước
ngoài được phép hoạt động ở Việt Nam. Các tổ chức, cá nhân trên đây có quyền
trực tiếp quảng cáo về hoạt động kinh doanh, hàng hóa dịch vụ kinh doanh của
mình hoặc thuê tổ chức kinh doanh dịch vụ quảng cáo thực hiện việc quảng cáo
thương mại.
Người quảng cáo có nghĩa vụ đảm bảo nội dung quảng cáo trung thực, chính
xác, phải xuất trình văn bản đảm bảo tính trung thực, chính xác của nội dung thông
tin quảng cáo khi người kinh doanh dịch vụ quảng cáo hoặc người phát hành quảng
cáo yêu cầu (Điều 15 Pháp lệnh quảng cáo năm 2001).
- Thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo.
SV:Nguyễn Ngọc Nam
MSSV: 341003.


4

Lớp: N01 – TL1 – Nhóm 2.


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 2.
Dịch vụ quảng cáo là một loại dịch vụ thương mại mà thương nhân được
khai thác để kinh doanh. Thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo là tổ chức, cá
nhân thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình hoạt động
quảng cáo nhằm mục đích sinh lời.
Tổ chức, cá nhân muốn kinh doanh dịch vụ quảng cáo phải có giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Thương nhân kinh doanh
dịch vụ quảng cáo thương mại có quyền đặt chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại
các tỉnh, thành phố khác. Khi mở chi nhánh, văn phòng đại diện tại các tỉnh, thành
phố khác, thương nhân phải thông báo cho Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh và
sở văn hóa – nơi đặt chi nhánh, văn phòng đại diện. Sauk hi được phòng đăng ký
kinh doanh cấp tỉnh cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động, chi nhánh, văn phòng
đại diện của thương nhân được phép bắt đầu kinh doanh dịch vụ quảng cáo.
Thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo có quyền: (1) Lựa chọn hình
thức, lĩnh vực kinh doanh dịch vụ quảng cáo (quảng cáo có phát hành hoặc không
kèm theo việc phát hành sản phẩm quảng cáo…); (2) Yêu cầu người quảng cáo
cung cấp thông tin trung thực, chính xác về nội dung quảng cáo; (3) Đăng ký bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm quảng cáo của mình; (4) Hợp tác với các
tổ chức cá nhân trong hoạt động quảng cáo, tham gia Hiệp hội quảng cáo trong
nước, nước ngoài…Bên cạnh đó, thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo có
nghĩa vụ thực hiện đúng quy định của pháp luật về quảng cáo, nội dung giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh, các cam kết trong hợp đồng dịch vụ quảng cáo…
- Người phát hành quảng cáo.
Người phát hành quảng cáo là người nắm giữ các phương tiện quảng cáo, có
khả năng đưa sản phẩm quảng cáo đến người tiêu dung, bao gồm cơ quan báo chí,

nhà xuất bản, tổ chức quản lý mạng thông tin máy tính, người tổ chức chương trình
văn hóa thể thao, hội chợ, triển lãm và tổ chức, cá nhân sử dụng phương tiện quảng
cáo khác.
Người phát hành quảng cáo được quảng cáo trên phương tiện của mình và
thu phí dịch vụ phát hành quảng cáo. Người phát hành quảng cáo có nghĩa vụ tuân
thủ các quy định của pháp luật về sử dụng phương tiện quảng cáo, pháp luật về báo
chí, xuất bản, về quản lý mạng thông tin máy tính, chương trình hoạt động văn hóa
thể thao, hội chợ, triển lãm trong việc sử dụng báo chí, xuất bản phẩm, mạng thông
tin máy tính, chương trình hoạt động văn hóa thể thao, hội chợ, triễn lãm và các
phương tiện quảng cáo khác để quảng cáo; thực hiện hợp đồng phát hành quảng
cáo đã kí và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
- Người cho thuê phương tiện quảng cáo.
Người cho thuê phương tiện quảng cáo là tổ chức, cá nhân sở hữu phương
tiện quảng cáo. Người cho thuê phương tiện quảng cáo có thể là thương nhân hoặc
không phải là thương nhân nhưng đều có quyền lựa chọn khách hàng (người quảng
cáo, người kinh doanh dịch vụ quảng cáo) cho mình và thu phí từ việc cho thuê
phương tiện để quảng cáo theo thỏa thuận trong hợp đồng.
SV:Nguyễn Ngọc Nam
MSSV: 341003.

5

Lớp: N01 – TL1 – Nhóm 2.


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 2.
5. Hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại
Việc thuê dịch vụ quảng cáo thương mại phải được xác lập trên cơ sở hợp
đồng bằng văn bản, có tên gọi là hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại. Hợp
đồng dịch vụ quảng cáo thương mại là sự thỏa thuận giữa bên thuê quảng cáo và

bên làm dịch vụ quảng cáo thương mại nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ về quảng cáo hoạt động sản xuất kinh doanh, hàng hóa, dịch vụ
thương mại.
Hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại tuân thủ nguyên tắc cơ bản của hợp
đồng cung ứng dịch vụ nói chung. Ngoài điều khoản về chủ thể của hợp đồng (tên,
địa chỉ, điện thoại, FAX, số tài khoản… của các bên), nội dung của hợp đồng dịch
vụ quảng cáo thương mại bao gồm các điều khoản thỏa thuận về sản phẩm quảng
cáo thương mại, phương thức, phương tiện quảng cáo thương mại; thời gian, phạm
vi quảng cáo; phí dịch vụ và các quyền, nghĩa vụ có liên quan của các bên…
Hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại được ký bằng văn bản hoặc hình
thức khác
có giá trị pháp lý tương đương.
Tùy thuộc nội dung, phạm vi sử dụng dịch vụ, dịch vụ quảng cáo thương mại
có thể là hợp đồng dịch vụ trọn gói, có thể là hợp đồng phát hành quảng cáo hay
hợp đồng cho thuê phương tiện quảng cáo. Trường hợp thương nhân tự quảng cáo
mà không thuê dịch vụ, hoạt động quảng cáo có thể được tiến hành thông qua hợp
đồng phát hành quảng cáo, hợp đồng thuê phương tiện quảng cáo được kí kết giữa
thương nhân quảng cáo với người phát hành quảng cáo, người cho thuê phương
tiện quảng cáo.
6. Thẩm quyền và các thủ tục cấp giấy phép quảng cáo.
Khi thực hiện hoạt động quảng cáo nói chung và quảng cáo thương mại
nói riêng, thương nhân quảng cáo hoặc thương nhân thực hiện kinh doanh dịch vụ
quảng cáo phải làm thủ tục xin cấp giấy phép thực hiện quảng cáo. Theo quy định
tại Điều 16 pháp lệnh quảng cáo, Bộ văn hóa – thông tin có thẩm quyền cấp giấy
phép thực hiện quảng cáo trên mạng thông tin máy tính, kênh, chương trình phát
thanh, kênh, chương trình truyền hình chuyên quảng cáo và đối với phụ san, phụ
bản chuyên quảng cáo. Sở văn hóa – thông tin có thẩm quyền cấp giấy phép thực
hiện quảng cáo trên bảng, biển, pa-nô, băng-rôn, màn hình đặt nơi công cộng, vật
phát quang, vật thể trên không, dưới nước, phương tiện giao thông, vật thể di động
khác. Ngoài ra, cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng, thương mại, giao thông

công chính, quy hoạch đô thị cũng có thẩm quyền cấp giấy phép liên quan đến hoạt
động quảng cáo.
7. Các hoạt động quảng cáo thương mại bị cấm
Quảng cáo có ý nghĩa rất lớn trong việc mang lại cơ hội thương mại cho
thương nhân và điều này có thể dẫn đến nguy cơ làm giảm hoặc mất cơ hội thương
SV:Nguyễn Ngọc Nam
MSSV: 341003.

6

Lớp: N01 – TL1 – Nhóm 2.


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 2.
mại của thương nhân khác. Nhằm xúc tiến thương mại và đáp ứng nhu cầu cạnh
tranh, thương nhân có thể sử dụng quảng cáo như một công cụ để gièm pha, hạ thấp
uy tín của thương nhân khác với mục đích thủ tiêu đối thủ cạnh tranh hoặc ngăn
cản sự gia nhập thị trường của thương nhân mới. Do đó, giữa hoạt động quảng cáo
và hành vi cạnh tranh không lành mạnh có ranh giới rất mỏng. Để đảm bảo trật tự
thương mại trong hoạt động xúc tiến thương mại, đảm bảo lợi ích của Nhà nước,
của người tiêu dung và các thương nhân, pháp luật nghiêm cấm một số hoạt động
quảng cáo thương mại sau đây:
- Quảng cáo làm ảnh hưởng xấu đến lợi ích của Nhà nước và của toàn xã hội.
Quảng cáo là quá trình thông tin và nó có thể tạo ra khả năng tiếp nhận thông tin từ
nhiều góc độ khác nhau. Chính vì vậy, khi giới thiệu về hoạt động kinh doanh, về
hàng hóa, dịch vụ của mình, thương nhân không được phép gây tổn hại đến lợi ích
kinh tế, chính trị…của Nhà nước.
- Quảng cáo có sử dụng sản phẩm quảng cáo, phương tiện quảng cáo trái với
truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mĩ tục Việt Nam và trái với
các quy định của pháp luật.

- Quảng cáo hàng hóa, dịch vụ mà Nhà nước cấm kinh doanh hoặc cấm
quảng cáo.
- Lợi dụng quảng cáo thương mại gây thiệt hại đến lợi ích của tổ chức, cá
nhân và các thương nhân khác.
- Quảng cáo thuốc lá, rượu có độ cồn từ 30 độ trở lên, quảng cáo hàng hóa,
sản phẩm chưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa được phep kinh doanh trên thị
trường Việt Nam tại thời điểm quảng cáo.
- Quảng cáo bằng việc sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp hoạt động sản
xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của mình với hoạt động sản xuất kinh doanh,
hàng hóa, dịch vụ của thương nhân khác.
- Quảng cáo sai với sự thật về quy cách, số lượng, chất lượng, giá cả. công
dụng, kiểu dáng, xuất xứ hàng hóa, chủng loại, bao bì, phương thức phục vụ, thời
hạn bảo hành của hàng hóa, dịch vụ.
- Quảng cáo cho hoạt động kinh doanh của mình bằng cách sử dụng sản
phẩm quảng cáo vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, dung danh nghĩa, hình ảnh của tổ
chưc, cá nhân khác để quảng cáo mà không được sự chấp thuận của thương nhân
đó.
- Các hoạt động quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh như quảng cáo
nói xấu, hoặc bắt chước các sản phẩm quảng cáo của thương nhân khác, gây nhầm
lẫn cho khách hàng…
II. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại.
Thống nhất điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động quảng cáo và quảng cáo
thương mại bằng một đạo Luật.
Pháp luật hiện hành quy định hai nhóm quy phạm pháp luật cùng điều chỉnh
hoạt động quảng cáo. Một là: các văn bản do Bộ văn hóa – Thông tin ban hành, bao
gồm Pháp lệnh quảng cáo năm 2001 và các văn bản hướng dẫn thi hành, điều chỉnh
SV:Nguyễn Ngọc Nam
MSSV: 341003.

7


Lớp: N01 – TL1 – Nhóm 2.


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 2.
hoạt động “quảng cáo”. Hai là: các văn bản do Bộ Thương mại chủ trì soạn thảo
hoặc ban hành, bao gồm Luật thương mại và các văn bản hướng dẫn thi hành, điều
chỉnh hoạt động “quảng cáo thương mại”. Song hành trong hai nhóm văn bản đó là
hai khái niệm: quảng cáo và quảng cáo thương mại.
Quảng cáo về hoạt động kinh doanh, về hàng hóa, dịch vụ của thương nhân
hay hoạt động quảng cáo cho thương nhân khác để hưởng thù lao dịch vụ được gọi
là “quảng cáo thương mại” có mục đích sinh lời. “Quảng cáo” nói chung bao gồm
quảng cáo về hàng hóa, dịch vụ kinh doanh, có mục đích sinh lời và hoạt động
thông tin tuyên truyền, cổ động do cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức xã
hội…thực hiện nhằm tuyên truyền về đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế - xã
hội của Đảng và Nhà nước (được gọi là quảng cáo không có mục đích sinh lời).
Tham khảo pháp luật quốc tế, có thể nhận thấy tính thương mại của hoạt
động quảng cáo thể hiện rõ nét trong pháp luật về quảng cáo của nhiều nước trên
thế giới.
Luật quảng cáo của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ngày 27-10-1994 (có
hiệu lực từ ngày 01-2-1995) quy định tại Điều 2: “Quảng cáo” được hiểu là một
quảng cáo mang tính thương mại mà người cung cấp hàng hóa, dịch vụ giới thiệu
cho hàng hóa dịch vụ của mình, cho dù là trực tiếp hay gián tiếp, thông qua các
hình thức thông tin công cộng”; “người quảng cáo được hiểu là một tư cách pháp
nhân, dù là tổ chức kinh tế hay pháp nhân mà mục đích của họ là bán các mặt hàng,
dịch vụ thiết kế, sản xuất hay xuất bản thuộc lĩnh vực quảng cáo” (Luật Quảng cáo
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, tài liệu do Bộ Văn hóa – Thông tin, Cục Văn hóa –
Thông tin cơ sở biên dịch, 2005).
Ở Hoa Kỳ, hoạt động quảng cáo được điều chỉnh bởi rất nhiều quy định pháp
luật của các bang và liên bang. Luật Lanham 15 U.S.C, một văn bản quan trọng

trong số đó, có nội dung quy định quảng cáo: “bao gồm phát ngôn thương mại mà
một người cạnh tranh sử dụng thể hiện mục đích gây ảnh hưởng tới người tiêu dung
để mua hàng hóa hay dịch vụ của mình”. Cơ quan liên bang có thẩm quyền điều tiết
hoạt động quảng cáo là Hội đồng thương mại liên bang.
Luật về quảng cáo và khuyến mại của Anh, Luật quảng cáo của Xingapo,
Luật quảng cáo của Philippin…đều có nội dung quy định các vấn đề liên quan đến
quảng cáo thương mại.
Như vậy, luật pháp nhiều nước trên thế giới coi quảng cáo không phải là một
hoạt động thông tin đơn thuần mà là một hoạt động thông tin mang tính thương
mại. Bản thân khái niệm “quảng cáo” khi được sử dụng trong pháp luật của các
nước đã có ý nghĩa là “quảng cáo thương mại”, vì nó được thực hiện bởi thương
nhân và có nội dung quảng cáo về hàng hóa, dịch vụ của thương nhân. Luật pháp
nhiều nước cũng coi quảng cáo là hoạt động thương mại, được điều chỉnh bởi các
quy định của Luật thương mại. Các điều ước quốc tế song phương và đa phương
cũng tiếp nhận quảng cáo là một hoạt động thương mại và đưa vào nội dung đàm
phán.
Khi chưa làm rõ tính chất thương mại của “quảng cáo”, chấp nhận sự phận
biệt không cần thiết giữa hai khái niệm “quảng cáo” và “quảng cáo thương mại”,
SV:Nguyễn Ngọc Nam
MSSV: 341003.

8

Lớp: N01 – TL1 – Nhóm 2.


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 2.
Việt Nam chưa thể có giải pháp triệt để hoàn thiện pháp luật về quảng cáo theo xu
hướng minh bạch hóa chính sách, bảo đảm tự do thương mại, đáp ứng yêu cầu hội
nhập. Pháp lệnh do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành điều chỉnh hoạt động

“quảng cáo”. Luật thương mại do Quốc hội ban hành điều chỉnh hoạt động “quảng
cáo thương mại”. Do vậy, việc thống nhất các quy định này chỉ có thể được Quốc
hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội thực hiện, không thể giải quyết bằng một
nghị định của Chính phủ (ThS, Nguyễn Thị Dung: Khái niệm “quảng cáo” trong
pháp luật Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến việc hoàn thiện pháp luật về quảng
cáo, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 12/2005).
Theo kinh nghiệm của các nước và xuất phát từ bản chất kinh tế của hoạt
động quảng cáo, hoàn thiện pháp luật quảng cáo phải được bắt đầu bằng việc tiếp
nhận “quảng cáo” là một hoạt động thương mại, được phân biệt với hoạt động
thông tin tuyên truyền, cổ động vì các mục tiêu chính trị, xã hội…
Như vậy, xuất phat từ bản chất thương mại của hoạt động quảng cáo, kinh
nghiệm quốc tế trong điều chỉnh pháp luật đối với quảng cáo, thực trạng quy định
về quảng cáo trong Pháp lệnh quảng cáo hiện hành chủ yếu bao gồm quy định về
quảng cáo cho hoạt động kinh doanh và hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lời,
giải pháp hiệu quả và phù hợp nhất hiện nay là cần xem xét nghiên cứu khả năng để
hủy bỏ hiệu lực của Pháp lệnh quảng cáo năm 2001. Hoạt động quảng cáo, hay còn
được gọi là quảng cáo thương mại sẽ được điều chỉnh bởi Luật thương mại hiện
hành.
Giải pháp hoàn thiện này sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực trong điều chỉnh
pháp luật đối với hoạt động quảng cáo, đó là:
Thứ nhất, chấm dứt sự tồn tại đồng thời hai loại văn bản pháp luật về quảng
cáo, xóa bỏ tình trạng trùng lặp của nhiều quy định pháp luật, như các quy định về
sản phẩm quảng cáo, phương tiện quảng cáo, các trường hợp hạn chế, cấm trong
quảng cáo, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào quá trình quảng cáo…,
xóa bỏ tình trạng thương nhân hoạt động quảng cáo thương mại phải chịu sự điều
chỉnh của cả hai nhóm văn bản pháp luật về quảng cáo, phải tự rà soát và tuân thủ
hai loại văn bản pháp luật về quảng cáo và quảng cáo thương mại, kể cả những điều
kiện, giấy phép được coi là “rào cản” của tự do thương mại.
Thứ hai, về quản lý nhà nước, xóa bỏ được tình trạng thương nhân quảng cáo
và thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo phải chịu sự quản lý của cả hai Cơ

quan quản lý nhà nước về thương mại và Cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa –
thông tin, với hàng loạt các quy định về trình tự, thủ tục do cả hai Cơ quan này quy
định.
Thứ ba, do được quy định là một hoạt động thương mại, cải cách khung khổ, thể
chế pháp lý nhằm thực hiện tự do hóa thương mại sẽ áp dụng trong lĩnh vực quảng
cáo như xu hướng đã và đang diễn ra trong mọi lĩnh vực thương mại và đầu tư.
Cần có định nghĩa cụ thể hơn về “quảng cáo thương mại” theo hướng phân
biệt với hoạt động “trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ”

SV:Nguyễn Ngọc Nam
MSSV: 341003.

9

Lớp: N01 – TL1 – Nhóm 2.


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 2.
Quảng cáo thương mại và trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ là hoạt
động thông tin có định hướng tới khách hàng, được phân biệt với nhau bởi cách
thức thông tin. “Trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ” thông tin tới khách hàng
thông qua chính hàng hóa, dịch vụ được trưng bày và về cơ bản, thương nhân được
trưng bày những hàng hóa, dịch vụ mà họ được quyền kinh doanh hợp pháp, kể cả
những mặt hàng Nhà nước hạn chế kinh doanh như thuốc lá, rượu… Khác với cách
thức này, theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế, “quảng cáo/
quảng cáo thương mại” sử dụng cách thức thông tin là sản phẩm quảng cáo và
phương tiện quảng cáo. Việc thương nhân trưng bày hàng hóa tại nơi bán hàng, tại
phòng trưng bày giới thiệu sản phẩm, tại hội chợ thương mại… thuộc hành vi
“trưng bày” và được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật về trưng bày giới thiệu
hàng hóa, dịch vụ. Khi nhầm lẫn với quảng cáo, cơ quan, tổ chức thi hành pháp luật

sẽ vô tình cấm đoán, xử lý vi phạm thiếu cơ sở pháp lý, như việc thi hành quy định
“cấm quảng cáo thuốc lá dưới mọi hình thức” đang diễn ra hiện nay.
Một trong những giải pháp tháo gỡ vướng mắc này trong quá trình thực thi pháp
luật, đó là phải định nghĩa lại khái niệm quảng cáo/quảng cáo thương mại với
những đặc thù của nó theo hướng phân biệt rõ với hoạt động “trưng bày giới thiệu
hàng hóa, dịch vụ”, cụ thể là Điều 102 Luật thương mại năm 2005 cần sửa lại
thành: “Quảng cáo thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân
dung sản phẩm quàng cáo và phương tiện quảng cáo để giới thiệu với khách hàng
về hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của mình”. Việc “dùng sản phẩm quảng
cáo và phương tiện quảng cáo để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ” trong “quảng cáo” sẽ là cơ sở để phân biệt với việc “dùng
hàng hóa, dịch vụ và tài liệu về hàng hóa, dịch vụ để giới thiệu với khách hàng về
hàng hóa và dịch vụ đó” trong hình thức trưng bày.
Sửa đổi các quy định về trình tự, thủ tục thực hiện quảng cáo thương mại
theo xu hướng cải cách hành chính.
Hiện tại, hoạt động quảng cáo thương mại do Cơ quan quản lý nhà nước về
văn hóa – thông tin cấp giấy phép trên cơ sở ý kiến thẩm định của nhiều cơ quan có
liên quan như xây dựng, quy hoạch kiến trúc, giao thông công chính. Ngoài ra, nếu
quảng cáo thuốc chữa bệnh, giống cây trồng…còn phải đợi thêm ý kiến của Bộ Y
tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hay một số Cơ quan quản lý khác có
liên quan.
Quảng cáo cái gì (sản phẩm quảng cáo) và quảng cáo như thế nào (phương
tiện quảng cáo) là hai nội dung mà pháp luật về quảng cáo của các nước đều quan
tâm điều chỉnh. Quy định thẩm quyền cấp giấy phép quảng cáo thuộc về Cơ quan
quản lý nhà nước về văn hóa – thông tin cho thấy, Nhà nước ta đã quan tâm nhiều
đến vấn đề quảng cáo như thế nào (tức là khâu phát hành quảng cáo, phát tán thông
tin quảng cáo đến cộng đồng). Các quy định hạn chế số trang in, thời lượng, số lần
phát song… trong Pháp lệnh quảng cáo là sự chứng minh cho điều này. Trong khi
đó, quảng cáo không phải là một hoạt động thông tin đơn thuần mà nó là một hoạt
động thương mại, do thương nhân thực hiện. Cho nên, vấn đề kiểm soát thương

SV:Nguyễn Ngọc Nam
MSSV: 341003.

10

Lớp: N01 – TL1 – Nhóm 2.


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 2.
nhân quảng cáo cái gì (quảng cáo về hàng hóa, dịch vụ và hoạt động kinh doanh đó
có nội dung cụ thể như thế nào, có ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, của đối thủ
cạnh tranh và của người tiêu dùng hay không) là những vấn đề cần phải được quan
tâm hàng đầu.
Do vậy, quy định về trình tự, thủ tục thực hiện quảng cáo trươc hết và quan
trọng nhất là việc kiểm soát thương nhân dự định quảng cáo những gì về hàng hóa,
dịch vụ và hoạt động kinh doanh của mình, tức là thẩm định nội dung sản phẩm
quảng cáo thương mại có dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh, làm lộ bí mật Nhà
nước hay có các vi phạm pháp luật khác hay không? Thực hiện mục tiêu này, pháp
luật cần quy định thương nhân phải làm thủ tục đăng ký sản phẩm quảng cáo
thương mại và cơ quan tiếp nhận việc đăng ký sản phẩm quảng cáo thương mại là
Cơ quan quản lý nhà nước về thương mại.
Đối với việc phát hành thông tin quảng cáo (quảng cáo như thế nào), phụ
thuộc vào phương tiện quảng cáo được sử dụng là băng rôn, pa nô, áp phích, biển,
vật thể di động hay báo chí, việc phát hành quảng cáo ra công chúng sẽ được thực
hiện phù hợp với các quy định về quản lý trật tự văn minh đô thị, quy định của Luật
báo chí, Luật xuất bản. Đồng thời với việc hủy bỏ hiệu lực Pháp lệnh quảng cáo,
Luật báo chí, Luật xuất bản cũng cần bổ sung những quy định liên quan đến quảng
cáo trên báo chí, trên xuất bản phẩm như quy định hạn chế số trang, thời lượng, số
lần phát sóng… Việc quảng cáo bằng các phương tiện băng rôn, pa nô, áp phích…
dựa trên quy hoạch quảng cáo và quy định về trật tự văn minh đô thị.

Cùng với việc đổi mới này, các quy định về trình tự, thủ tục cấp Giấy phép
hoạt động quảng cáo hiện hành nên nghiên cứu để sớm có thể bãi bỏ. Có nghĩa là,
thủ tục cơ bản mà thương nhân quảng cáo cần thực hiện là đăng ký sản phẩm quảng
cáo tại tại Cơ quan quản lý nhà nước về thương mại. Sau khi được sự xác nhận của
Cơ quan này, việc phát hành sản phẩm quảng cáo thương mại sẽ thực hiện theo
pháp luật liên quan đến phương tiện quảng cáo mà thương nhân sử dụng như Luật
báo chí, Luật xuất bản…
Việc quy định mới về trình tự, thủ tục thực hiện quảng cáo theo giải pháp
trên sẽ mang lại những lợi ích to lớn cả về lý luận và thực tiễn. Đó là: thể hiện rõ
nét sự nhìn nhận đúng đắn bản chất kinh tế của hoạt động quảng cáo, đơn giản hóa
thủ tục hành chính trong quản lý nhà nước đối với hoạt động này, xóa bỏ những rào
cản hành chính không cần thiết nhằm thực hiện tự do hóa thương mại và thống nhất
về thẩm quyền quản lý, cách thức biện pháp quản lý đối với mọi hoạt động xúc tiến
thương mại.

SV:Nguyễn Ngọc Nam
MSSV: 341003.

11

Lớp: N01 – TL1 – Nhóm 2.


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 2.

C. KẾT LUẬN
Nghành công nghiệp quảng cáo ở Việt Nam còn khá non trẻ, chỉ mới thực sự
phát triển trong một vài năm gần đây. Tuy nhiên, cùng với nền kinh tế thị trường,
quảng cáo thương mại đã trở thành công cụ hữu ích cho các thương nhân trên con
đường tìm kiếm lợi nhuận của mình, mặc dù hiện nay, các hoạt động quảng cáo

thương mại vẫn đang phát triển một cách khá tự phát, đôi khi vượt khỏi sự quản lý
của Nhà nước. Do vậy, để phát huy những thế mạnh, đồng thời hạn chế tối đa
những mặt trái, tiêu cực mà quảng cáo thương mại có thể mang lại thì vấn đề đặt ra
là phải sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện những quy định về quảng cáo thương mại
trên cơ sở đánh giá những mặt tồn tại, những điểm chưa hợp lý của pháp luật hiện
hành. Việc hoàn thiện các quy định về quảng cáo thương mại sẽ góp phần tạo hành
lang pháp lý cho các thương nhân yên tâm thực hiện hoạt động thương mại, cũng
như tăng cường hiệu lực, hiệu quả pháp lý của nhà nước trong lĩnh vực này.

SV:Nguyễn Ngọc Nam
MSSV: 341003.

12

Lớp: N01 – TL1 – Nhóm 2.



×