Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước trong quản lí hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.25 KB, 11 trang )

Mục lục
Lời mở đầu…………………………………………………………………….2
Nội dung bài tập…………………………………………………………….2
I.

Hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước trong quản

lí hành chính……………………………………………………………………...2
1. Quốc hội……………………………………………………………………3
2. Hội đồng nhân dân…………………………………………………………4
II.

Vai trò của hoạt động giám sát đối với việc đảm bảo pháp chế

trong quản lí hành chính nhà nước……………………….…………………..5
III. Thực

trạng và một số phương hướng nâng cao chất lượng của

hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước…………………….10
1.
2.

Một số phương hướng nâng cao chất lượng của hoạt động giám sát…….10
Thực trạng hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước trong
quản lí hành chính…………………………………………………...….11

Kết luận………………………………………………………………………..11

Lời mở đầu.
Luật hành chính Việt Nam N05 – TL3



12


Bảo đảm cho pháp chế được củng cố, tăng cường và hoàn thiện là yêu cầu
khách quan cuả quá trình xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân và cũng là
yêu cầu của quá trình hoàn thiện con người và các quyền của họ trong xã hội, đặc
biệt trong quá trình quản lí hành chính nhà nước. Hoạt động giám sát của cơ quan
quyền lực nhà nước là một trong những biện pháp có vai trò quan trọng đối với
việc đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước. Thực hiện tốt công tác
giám sát là đòi hỏi cấp thiết của nhà nước pháp quyền ở nước ta.

Nội dung bài tập.
I. Hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước trong
quản lí hành chính.
Giám sát tức là theo dõi, xem xét, kiểm tra và nhận định về một việc làm nào
đó đúng hay sai với những điều đã quy định.
Trong lĩnh vực quản lí hành chính nhà nước, khái niệm giám sát được hiểu
cũng được hiểu theo nghĩa tương tự: chỉ hoạt động của các cơ quan quyền lực Nhà
nước, toà án, các tổ chức xã hội và công dân nhằm đảm bảo sự tuân thủ nghiêm
chỉnh pháp luật trong quản lí hành chính nhà nước.
Giám sát luôn gắn với một chủ thể nhất định. Giám sát luôn gắn với đối tượng
cụ thể (giám sát ai, giám sát cái gì). Giám sát thể hiện mối quan hệ giữa chủ thể
tiến hành hoạt động giám sát và đối tượng chịu sự giám sát. Giám sát được tiến
hành trên cơ sở những quy định cụ thể. Chính vì vậy, giám sát là hoạt động có mục
đích của một hay nhiều chủ thể nhất định – là một nội dung của hoạt động quản lí
nhà nước và cũng là một hình thức kiềm chế, đối trọng trong việc thực thi quyền
lực nhà nước hiện nay.
Ở nước ta, khái niệm giám sát được dùng chỉ quyền của nhân dân lao động
thông qua hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước. Điều 2 Luật hoạt động giám

sát của Quốc hôi đã quy định: “Giám sát là việc Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, Hội đồng dân tộc, uỷ ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu
Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu
sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
Luật hành chính Việt Nam N05 – TL3

12


lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội”. Các cơ quan quyền lực nhà
nước là những cơ quan có vị trí đặc biệt quan trọng trong bộ máy nhà nước. Vị trí
pháp lí cũng như chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của nó do Hiến pháp quy định.
Đó là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân lao động.
Chính vì vậy hoạt động của những cơ quan này tác động tích cực và chi phối rất
lớn hoạt động của các cơ quan nhà nước khác, trong đó có các cơ quan hành chính
nhà nước cũng như các cơ quan tư pháp.
Chủ thể của hoạt động giám sát nay là các cơ quan quyền lực nhà nước, bao
gồm: Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

1.Quốc hội.
Giám sát là chức năng hiến định của các cơ quan quyền lực nhà nước. Chức
năng này xuất phát từ địa vị chính trị pháp lí của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, là
những cơ quan trực tiếp nhất nhận quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân thực
hiện mọi quyền lực nhà nước. Mặt khác, còn xuất phát từ tính chất chấp hành và
điều hành của hoạt động hành chính nhà nước trong quan hệ đối với hoạt động lập
pháp. Trong hệ thống các cơ quan hành nhà nước, Quốc hội luôn đứng ở nấc thang
quyền lực cao nhất.
Hoạt động giám sát của Quốc hội vừa là chức năng, vừa là nhiệm vụ và quyền
hạn của Quốc hội. Quyền đó đã được khẳng định cụ thể tại khoản 2 Điều 84 Hiến
pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) và khoản 2 Điều 2 Luật tổ chức Quốc

hội năm 2001: “Quốc hội…thực hiện quyền giám sát tối cáo đối với toàn bộ hoạt
động của Nhà nước”. Quy định này vừa khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu
cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vừa khẳng định nguyên tắc quyền lực nhà nước thống
nhất tập trung trong tay nhân dân lao động. Quy định trên cũng đồng thời khẳng
định – chủ thể thực hiện quyền giám sát tối cao là Quốc hội.

2.Hội đồng nhân dân.

Luật hành chính Việt Nam N05 – TL3

12


Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương thực hiện
quyền giám sát đối với hoạt động của Uỷ ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn
của uỷ ban nhân dân cũng như các đơn vị trực thuộc.
Hoạt động giám sát có thể được thực hiện trên kỳ họp Hội đồng nhân dân
bằng cách nghe báo cáo và thảo luận, đánh giá báo cáo của Uỷ ban nhân dân, của
cơ quan chuyên môn; bằng cách chất vấn trên kỳ họp đối với Chủ tịch và các thành
viên Uỷ ban nhân dân, thủ trưởng các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban; bằng hoạt
động của Thường trực Hội đồng nhân dân và các ban của hội đồng; bằng hoạt động
của các nhóm đại biểu và các đại biểu trong khu vực bầu ra. Ngoài ra, một hình
thức giám sát quan trọng là thông qua việc giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo
của công dân để giám sát.
Phạm vi giám sát của Hội đồng nhân dân bao gồm toàn diện mọi vấn đề và
lĩnh vực quản lí Nhà nước đối với mọi cơ quan, tổ chức, nhà trường trên đơn vị
hành chính tương ứng bất luận cơ quan, tổ chức đó trực thuộc cơ quan nào.

II. Vai trò của hoạt động giám sát đối với việc đảm bảo pháp chế

trong quản lí hành chính nhà nước.
Pháp chế là gì? Pháp chế là một phạm trù rất rộng nhưng nội dung cơ bản
nhất đó là sự triệt để tôn trọng pháp luật của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã
hội và công dân. Nói đến pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước là nhấn
mạnh đến trật tự pháp luật nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, củng cố và duy trì địa vị pháp lí hành chính của các cơ quan nhà nước và tổ
chức xã hội.
Đảm bảo pháp chế tức là phải củng cố việc xây dựng cơ chế, phương tiện,
phương pháp và cách thức nhằm làm cho pháp luật được thực hiện có hiệu quả
trong thực tế. Đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước là một nguyên
tắc cơ bản nhất trong quản lí hành chính nhà nước. Nếu thiếu nguyên tắc này thì
quản lí hành chính nhà nước sẽ không có cơ sở pháp lý bền vững, sẽ rơi vào tình
trạng khủng hoảng, không thống nhất, thiếu đồng bộ.

Luật hành chính Việt Nam N05 – TL3

12


Như vậy, bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước là cách thức tổ
chức sao cho các cơ quan quản lí hành chính nhà nước, các tổ chức xã hội, công
dân tuân thủ và thực hiện theo đúng pháp luật hiện hành.
Các biện pháp để bảo đảm thực hiện pháp chế trong quản lí hành chính nhà
nước bao gồm: hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước, hoạt động
kiểm tra của các cơ quan quản lí hành chính nhà nước, hoạt động xét xử của tòa án,
hoạt động kiểm tra giám sát của các tổ chức xã hội và công dân. Trong đó hoạt
động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước là một biện pháp quan trọng nhất
và hữu hiệu nhất để đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước.
1. Thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội và HĐND các cấp thực hiện
quyền lực nhà nước một cách thường xuyên và trực tiếp chỉ đạo cũng như kiểm

tra mọi mặt công tác của các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp.
Hoạt động giám sát của Quốc hội được thực hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau, có thể định kì tại các kì họp của Quốc hội nhưng cũng có thể được thực hiện
thường xuyên thông qua Uỷ ban thường vụ Quốc hội, các Uỷ ban của Quốc hội,
các hội đồng của Quốc hội cũng như các đại biếu Quốc hội. Theo đó, đối tượng
giám sát tối cao chỉ có thể là các cơ quan và cá nhân do Quốc hội thành lập, bầu
hoặc phê chuẩn như Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, những người đứng đầu của
các cơ quan này và các thành viên của Chính phủ. Nội dung của quyền giám sát
của Quốc hội bao hàm hoạt động theo dõi và kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp
đối với nội dung các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước chịu sự
giám sát trực tiếp của Quốc hội ban hành (của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao,
Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao) cũng như tính hợp hiến, hợp pháp đối
với hoạt động tổ chức và thực hiện pháp luật trong thực tiễn của các cơ quan nhà
nước đó.
Theo quy định trên, hoạt động giám sát của Quốc hội đối với các cơ quan nhà
nước được thực hiện thông qua nhiều hình thức khác nhau: Nghe, xem xét và đánh
giá công khai các báo cáo của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính
Luật hành chính Việt Nam N05 – TL3

12


phủ và các bộ về hoạt động của mình, thông qua việc chất vấn của các đại biểu
Quốc hội đối với Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng và các thành viên khác của
Chính phủ; nghe Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao báo cáo; đồng thời cũng chất vấn đối với Chánh án Toà án nhân
dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về các vấn đề liên quan.
Đồng thời thảo luận, đánh giá các báo cáo đó.

Từ những hoạt động đó, Quốc hội có thể nắm bắt và kiểm tra một cách
thường xuyên, trực tiếp mọi mặt hoạt động của các cơ quan hành chính. Lấy đó
làm cơ sở để đưa ra những chính sách, ý kiến chỉ đạo chung mang tính vĩ mô đối
với hoạt động quản lí hành chính.
Hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân các cấp là chức năng chủ yếu của
cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương được thực hiện trước hết ở các kì họp
của hội đồng nhân dân. Hoạt động giám sát này cũng được thực hiện thông qua
việc nghe và thảo luận báo cáo của uỷ ban nhân dân, thông qua việc chất vấn các
đại biểu là lãnh đạo của uỷ ban nhân dân cũng như các đại biểu là lãnh đạo cơ quan
kiểm sát và xét xử ở địa phương. Thông qua đó có những chỉ đạo kịp thời về các
vấn đề cần giải quyết ở địa phương. Tuy nhiên hoạt động giám sát đối với các cơ
quan quản lí hành chính ở của HĐND không chỉ bó hẹp ở những phiên họp mà còn
thông qua các hoạt động của Thường trực HĐND, các đại biểu HĐND.
2. Thông qua hoạt động giám sát, các cơ quan quyền lực nhà nước có thể
phát hiện những yếu kém, khuyết điểm trong công tác tổ chức và hoạt động của
các cơ quan hành chính nhà nước.
Trong việc thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của các cơ quan nhà
nước, Quốc hội thực hiện quyền này tập trung trước hết đối với hoạt động của các
cơ quan hành chính nhà nước tức là thực hiện quyền lực nhà nước về mặt tổ chức
đối với bộ máy hành chính nhà nước: quyết định thành lập, bãi bỏ các bộ và các cơ
quan ngang bộ của Chính phủ, thành phố trực thuộc trung ương, thành lập hoặc
giải thể đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt (khoản 8 Điều 84 Hiến pháp); Quốc
hội có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh cao nhất của bộ máy Nhà

Luật hành chính Việt Nam N05 – TL3

12


nước, phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.
Hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật là hình thức hoạt động chủ
yếu và quan trọng nhất của các cơ quan hành chính nhà nước, nhằm cụ thể hoá các
các quy định của pháp luật vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, thực hiện chức
năng quản lí. Các uỷ ban, hội đồng của Quốc hội giúp Quốc hội thực hiện quyền
giám sát và trên các kỳ họp báo cáo trước Quốc hội về hoạt động của mình trong
các bản báo cáo thẩm tra, thuyết trình…Mặt khác, còn trực tiếp thực hiện quyền:
giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, giám sát hoạt
động của Chính phủ, giám sát hoạt động của Hội đồng nhân dân, đồng thời có
quyền đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nếu
trái với Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định
việc bãi bỏ các văn bản đó, đối với những văn bản của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì bãi bỏ
(khoản 5, khoản 6 Điều 91 Hiến pháp). Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản của
Chính phủ, Thủ tưởng Chính phủ trái với Hiến pháp, luật và các nghị quyết của
Quốc hội.
Cũng như Quốc hội, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước nhưng HĐND
được tổ chức ở địa phương để thực thi quyền lực nhà nước tại địa phương. HĐND
có chức năng giám sát hoạt động chấp hành Hiến pháp, luật, các nghị quyết của
HĐND, cơ quan cấp trên tại địa phương. Nếu phát hiện có sai phạm thi HĐND tùy
theo thẩm quyền giải quyết hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết. HĐND
còn trực tiếp giải quyết các vẫn đề bức xúc ở địa phương để từ đó rút ra được
những mặt được và chưa được trong các quy định pháp luật để kịp thời phản ánh
với các cơ quan có thẩm quyền.
Thông qua hoạt động giám sát, các cơ quan quyền lực nhà nước có thể phát
hiện những yếu kém, những khuyết điểm trong công tác tổ chức và hoạt động cũng
như những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật và thực hiện
nhiệm vụ mà pháp luật đã quy định đối với các cơ quan quản lí hành chính nhà
Luật hành chính Việt Nam N05 – TL3


12


nước. Trên cơ sở đó cơ quan quyền lực nhà nước kịp thời đề ra những kế hoạch cụ
thể và biện pháp thích hợp, khắc phục những khó khăn và tồn tại ấy.
3. Thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội và HĐND các cấp có dịp kiểm
nghiệm tính hợp lí và hợp pháp của các văn bản pháp luật do chính mình ban
hành.
Đây là vấn đề giữa lý luận và thực tiễn.. Thông qua hoạt động giám sát thi
hành pháp luật – thực tiễn, mà từ đó phát hiện ra những bất cập, thiếu sót trong quy
định của pháp luật – lí luận, để kịp thời có những thay đổi, bổ sung cho phù hợp
với tình hình thực tế mà xã hội đòi hỏi. Ví dụ như việc ra các nghị quyết sửa đổi bổ
sung các điều luật của Hiến pháp, luật chuyên ngành…của Quốc hội; từ hoạt động
giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật, Quốc hội đã kịp thời phát hiện
ra những điểm bất hợp lí, thiếu sót để thay đổi và bổ sung cho phù hợp, đảm bảo
tính đúng đắn và chặt chẽ của pháp luật.
Nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân do Hiến pháp và Luật tổ chức HĐND và
UBND quy định. Hoạt động của HĐND không chỉ là nghĩa vụ chấp hành Hiến
pháp, luật, pháp lệnh và văn bản pháp luật của cấp trên mà còn phải chủ động cụ
thể hoá những quy định này cho phù hợp với đặc điểm cụ thể ở địa phương mình.
Vì lẽ đó mà Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND ra
đời. Đây không chỉ là cơ sở pháp lí quan trọng góp phần khẳng định quyền hạn của
chính quyền địa phương mà văn bản pháp luật này một lần nữa nhấn mạnh tính chủ
động và yêu cầu HĐND phải chủ động tăng cường quyền giám sát đối với mọi
hoạt động thực thi pháp luật ở địa phương mình. Có như vậy những quy định đó
mới thực sự thúc đẩy sự năng động và sang tạo của quần chúng nhân dân lao động,
mới đánh giá xác thực khả năng thực thi pháp luật của địa phương.
Thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp có dịp
kiểm nghiệm tính hợp lí và hợp pháp của các văn bản pháp luật do chính mình ban
hành. Nếu phát hiện thấy khiếm khuyết về hình thức hay nội dung thì các cơ quan

quyền lực nhà nước này phải đưa ra những biện pháp, giải pháp khắc phục. Thông
qua đó, những cơ quan này đưa ra những yêu cầu và những biện pháp cải tiến chế
độ, quy trình lập pháp, lập quy nâng cao hiệu lực quản lí nhà nước.
Luật hành chính Việt Nam N05 – TL3

12


4. Thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội và HĐND các cấp phát hiện ra
những vi phạm pháp luật xâm phạm tới trật tự và lợi ích nhà nước, xã hội và
công dân của cán bộ nhà nước, từ đó có biện pháp xử lí nghiêm minh, kịp thời
để củng cố pháp chế.
Các tổ đại biểu và từng đại biểu một mặt giúp Quốc hội giám sát hoạt động
của Chính phủ, mặt khác còn trực tiếp giám sát hoạt động của các cơ quan quản lí
nhà nước, cán bộ quản lí, có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước áp dụng các biện
pháp và khắc phục việc làm vi phạm pháp luật, chủ trương đường lối của Đảng và
Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang trả lời những vấn đề mà
đại biểu Quốc hội quan tâm. Người phụ trách của các cơ quan, tổ chức, đơn vị đó
có nghĩa vụ trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội yêu cầu trong thời hạn luật
định (Điều 53 Luật tổ chức Quốc hội).
Trong trường hợp đặc biệt có thể thành lập những đoàn kiểm tra đặc biệt,
những Uỷ ban lâm thời để kiểm tra, xem xét những vụ việc đặc biệt (Điều 2 pháp
lệnh Thanh tra).
Hoạt động giám sát của Quốc hội được thực hiện thông qua hoạt động của các
tổ đại biểu và các đại biểu Quốc hội ở các địa phương và cơ sở, đặc biệt thông qua
việc tiếp xúc của họ với các cử tri, nghe yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại và tố cáo của
cử tri về việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước và các cán bộ
có thẩm quyền ở những cơ quan ấy(Điều 97 Hiến pháp). Thông qua việc thực hiện
quyền giám sát, giải quyết những vấn đề được phát hiện từ việc thực hiện quyền
giám sát của mình. Chẳng hạn như việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người

giữ các chức vụ do Quốc hội bầu và phê chuẩn (khoản 7 Điều 84 Hiến pháp năm
1992).
HĐND giám sát việc các cơ quan quản lí hành chính ở địa phương chấp hành
Hiến pháp và pháp luật cũng như các nghị quyết của HĐND. Bên cạnh đó một hoạt
động không thể thiếu góp phần cho hoạt động giám sát của HĐND đó là giải quyết
các khiếu nại tố cáo của công dân (cử chi) có giải quyết tốt công tác này thi HĐND

Luật hành chính Việt Nam N05 – TL3

12


mới đi sâu, đi sát với quần chúng nhân dân hiểu mong muốn của dân, để có những
điều chỉnh kịp thời đối với hoạt động chỉ đạo của HĐND.

III. Thực trạng và một số phương hướng nâng cao chất lượng
của hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước.
1. Thực trạng hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà
nước trong quản lí hành chính.
Hiện nay, trong việc phân công, phối hợp giữa các cơ quan đảng, nhà nước và
tổ chức chính trị - xã hội có chức năng thanh tra, kiểm tra, kiểm sát, giám sát còn
có những điểm chưa rõ ràng, ăn nhịp. Do đó, hiệu quả của việc bảo đảm pháp chế
xã hội chủ nghĩa nói chung và hiệu quả thanh tra, kiểm tra, kiểm sát và giám sát
đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính còn chưa đáp ứng được đòi
hỏi của tình hình mới.
Mặc dù Hiến pháp và một số văn bản về tổ chức bộ máy nhà nước đã có quy
định về hoạt động giám sát của Quốc hội, HĐND nhưng nhìn chung, các quy định
mới chỉ dừng ở xác định những vấn đề có tính nguyên tắc chung, chưa đủ cụ thể để
triển khai có hiệu quả; một số vấn đề cần thiết phải được quy định (như về đối
tượng, phạm vi giám sát của Quốc hội; thẩm quyền cụ thể của các chủ thể thực

hiện quyền giám sát của Quốc hội; thủ tục, trình tự tiến hành giám sát…). Do đó,
cần sớm ban hành luật về hoạt động giám sát của Quốc hội, HĐND trong đó phải
cụ thể hoá được các quy định của Hiến pháp về thẩm quyền giám sát của Quốc hội
và HĐND giải quyết được những vướng mắc về cơ sở pháp lý cho hoạt động giám
sát của Quốc hội, HĐND trong tình hình hiện nay. Liên quan đến việc cần sớm ban
hành luật về hoạt động giám sát của Quốc hội, cũng cần thiết phải xem xét, sửa
đổi, bổ sung các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước, nhằm tạo ra một
hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất và có hiệu lực cao cho hoạt động giám sát
của Quốc hội, HĐND.

2. Một số phương hướng nâng cao chất lượng của hoạt động
giám sát.
- Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, trước hết là pháp luật hành chính.
- Xây dựng một bộ máy tổ chức điều hành tinh, gọn, đủ năng lực.
Luật hành chính Việt Nam N05 – TL3

12


- Xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ và năng lực đáp ứng yêu cầu của thực
hiện nhiệm vụ, công vụ được giao.
- Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của công dân bằng các biện pháp như
giáo dục, thuyết phục, tuyên truyền….
- Xử lý nghiêm minh mọi trường hợp vi pham pháp luật.
- Hoạt động của các cơ quan nhà nước phải phù hợp với mục đích, nội dung
và yêu cầu của quy phạm pháp luật.
- Hoạt động của các cơ quan nhà nước trong khuôn khổ của pháp luật và
phạm vi, thẩm quyền cũng như chức năng mà đã được pháp luật quy định…

Kết luận.

Tóm lại, vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với
việc đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính là rất quan trọng nó tác động trực
tiếp đến năng lực hoạt động của các cơ quan này sao cho luôn nằm trong khuôn
khổ của pháp luật. Khi các hình thức giám sát đạt hiệu quả tốt nó góp phần vào
thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu của công cuộc đổi mới, tăng cường hiệu quả hoạt
động của bộ máy nhà nước, phát huy dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật hành chính Việt Nam, NXB Công an nhân dân – 2008.
2. Nhập môn hành chính nhà nước, NXB Tp.Hồ Chí Minh – 1996.
3. Luatviet.net/Tudien.

Luật hành chính Việt Nam N05 – TL3

12



×