Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Nghiên cứu hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.38 KB, 10 trang )

Mở đầu
Quản lí hành chính nhà nước là một hình thức hoạt động của Nhà nước
được thực hiện bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội dung là đảm bảo
sự chấp hành pháp luật, pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà
nước, nhằm tổ chức và chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xuyên công cuộc
xây dựng và đổi mới của đất nước. Hoạt động quản lí hành chính nhà nước
được đặt dưới sự giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước mang hình
thức chủ động, sáng tạo.
Pháp chế là một phạm trù rộng lớn không chỉ chứa đựng nội dung pháp
luật mà còn chứa đựng những nội dung chính trị, xã hội và con người. Nội
dung của pháp chế rất phong phú, trong đó có nội dung cơ bản nhất là sự triệt
để tôn trọng pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân.
Nghiên cứu hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước, và đặc
biệt chú trọng đến vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước
đối với việc bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước có ý nghĩa
rất quan trọng, đáp ứng với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam hiện nay.
1
Nội dung
I. Khái niệm chung
Bảo đảm pháp chế là tổng thể các biện pháp, phương tiện tổ chức pháp
lý do các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân áp dụng nhằm thực
hiện chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước và các tổ
chức ấy cũng như việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân.
Bằng những cơ chế và hoạt động pháp lí việc bảo đảm pháp chế trong
quản lí hành chính nhà nước làm cho pháp luật được thực hiện có hiệu quả
trong thực tế và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung cũng như hoạt
động của các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng phải thực sự vì nhân
dân, qua đó khơi dậy ý chí tự lực, tự cường, tinh thần và trí tuệ của nhân dân
đem lại những hiệu quả thiết thực đối với nhân dân. Cụ thể là các thủ tục hành
chính được thực hiện dễ hiểu, dễ làm và thực hiện quyền và nghĩa vụ công


dân theo một trình tự nhất định.
Giám sát là hoạt động có mục đích của một hay nhiều chủ thể nhất định,
là một nội dung của hoạt động quản lí nhà nước và là một hình thức kiềm chế,
đối trọng trong việc thực thi quyền lực nhà nước hiện nay. Giám sát tức là
theo dõi, xem xét, kiểm tra và nhân định về một công việc nào đó là đúng hay
là sai với những điều đã quy định. Hoạt động giám sát luôn gắn với một chủ
thể nhất định cũng như với một đối tượng cụ thể, qua đó thể hiện mối quan hệ
giữa chủ thể tiến hành hoạt động giám sát và đối tượng chịu sự giám sát. Việc
thực hiện tốt công tác giám sát dựa trên những quy định cụ thể và đòi hỏi cần
phải thực hiện tốt công tác này nhất là đối với nhà nước pháp quyền ở nước
ta.
Khái niệm giám sát được dung để chỉ quyền của nhân dân lao động
thông qua hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước. Được quy định cụ thể
tại Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội: “Giám sát là việc Quốc hội,
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, uỷ ban của Quốc hội, đoàn đại
2
biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của
cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội”.
II. Vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối
với việc bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước
Các cơ quan quyền lực nhà nước là những cơ quan có vị trí đặc biệt
trong bộ máy nhà nước, chúng có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và địa vị
pháp lí do Hiến pháp quy định. Các cơ quan này đại diện cho ý chí và nguyện
vọng của nhân dân lao động qua các hoạt động, tác động tích cực và chi phối
rất lớn hoạt động của các cơ quan nhà nước khác như cơ quan hành chính nhà
nước cũng như các cơ quan tư pháp.
Thông qua hoạt động giám sát, các cơ quan quyền lực nhà nước giám sát
hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp, Quốc hội va hội

đồng nhân dân các cấp thực hiện quyền lực nhà nước một cách thường xuyên
và trực tiếp chỉ đạo cũng như kiểm tra mọi mặt các hoạt động của các cơ quan
hành chính nhà nước khác cùng cấp. Qua việc giám sát này, các cơ quan
quyền lực của nhà nước có thể phát hiện ra những yếu kém, khuyết điểm
trong công tác tổ chức và hoạt động cũng như những khó khăn vướng mắc
trong quá trình thực hiện pháp luật và thực hiện nhiệm vụ mà pháp luật đã quy
định đối với các cơ quan hành chính nhà nước. Dựa vào những cơ sở đã đạt
được, cơ quan quyền lực nhà nước kịp thời đề ra những biện pháp thích hợp
và thực hiện trong những thời gian cụ thể để khắc phục những khó khăn và
tồn tại ấy. Cũng qua hoạt động giám sát, Quốc hội và hội đồng nhân dân các
cấp có dịp kiểm nghiệm tính hợp lí và hợp pháp của các văn bản luật đã ban
hành. Nếu các văn bản luật đó có khuyết điẻm về hình thức hay nội dung thì
các cơ quan quyền lực nhà nước đó phải đưa ra những biện pháp, giải pháp
khắc phục. Và cũng thông qua đó các cơ quan quyền lực nhà nước này cũng
đưa ra những yêu cầu và biện pháp để cải tiến chế đọ, quy trình lập pháp, lập
quy nâng cao hiệu lực quản lí của nhà nước. Nếu có những vi phạm pháp luật
3
xâm phạm tới trật tự và lợi ích của nhà nước, xã hội và công dân của cán bộ
nhà nước thì cần phải phát hiện kịp thời và có những biện pháp xử lí nghiêm
minh những vi phạm đó để củng cố pháp chế.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, các hình thức và phương pháp giám
sát được triển khai đem lại những kết quả tốt góp phần vào việc thực hiện
nhiệm vụ mục tiêu, tăng cường hiệu qủ hoạt động của bộ máy nhà nước, phát
huy dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
1. Hoạt động giám sát của quốc hội
Hoạt động giám sát của Quốc hội được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều
84 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 và khoản 2 Điều 2 Luật tổ
chức Quốc hội năm 2001: “Quốc hội…thực hiện quyền giám sát tối cao đối
với toàn bộ hoạt động của Nhà nước” Qua đó thể hiện hoạt động giám sát của
Quốc hội vừa là chức năng, nhiệm vụ và là quyền han của Quốc hội. Quốc hội

là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của
nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thể hiện nguyên tắc thống
nhất quyền lực nhà nước tập trung trong tay nhân dân lao động. Qua đó nói
lên rằng chủ thể thực hiện quyền giám sát tối cao là Quốc hội, trong đó bao
gồm toàn thể đại biểu của Quốc hội.
Xét về mặt đối tượng chịu sự giám sát tối cao là Chủ tịch nước, Chính
phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội (Điều 84 Hiến pháp 1992).
Xét về nội dung của quyền giám sát tối cao bao gồm: Một là, theo dõi,
kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân
dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Hai là, xử lý các hành vi vi
phạm Hiến pháp và luật bằng các chế tài như bãi nhiệm, miễn nhiệm các chức
vụ cao nhất trong bộ máy nhà nước, đình chỉ và bãi bỏ các văn bản trái với
Hiến pháp, luật và ra các nghị quyết khi xét thấy cần thiết (Điều 84 Hiến pháp
1992). Nội dung giám sát này có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân.
4
Về hình thức, hoạt động giám sát của Quốc hội được thực hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau, có thể định kì tại các kì họp của Quốc hội hay
cũng có thể được thực hiên thường xuyên thông qua Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, các uỷ ban Quốc hội, các hội đồng của Quốc hội cũng như các đại biểu
Quốc hội. Đối tượng giám sát tối cao là các cơ quan, cá nhân do Quốc hội
thành lập, bầu hoặc phê chuẩn như Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
những người đứng đầu của các cơ quan này và các thành viên của Chính phủ.
Hậu quả giám sát tối cao của Quốc hội: Thứ nhất là Đình chỉ, huỷ bỏ
những văn bản do các cơ quan nói trên ban hành trái Hiến pháp, luật, pháp
lệnh và nghị quyết của Quốc hội hay Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Thứ hai là
Bãi nhiệm, miễn nhiệm các chức vụ Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Thủ
tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện

Kiểm sát nhân dân tối cao.
Xét về phương pháp thực hiện quyền giám sát tối cao: Xem xét báo cáo
của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, chính phủ, Toà án nhân dân
tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; thực hiện quyền chất vấn của đại
biểu Quốc hội; kiểm tra thực tế việc tuân theo Hiến pháp, luật, pháp lệnh,
nghị quyết khi xét thấy cần thiết; xem xét việc khiếu nại, tố cáo của công dân
tại các kỳ họp Quốc hội.
Ngoài ra, vai trò hoạt động giám sát của Quốc hội còn thực hiện thông
qua hoạt động của các tổ đại biểu và các đại biểu Quốc hội ở các địa phương
và các cơ sở, thông qua việc tiếp xúc của họ với các cử tri, nghe các yêu cầu,
đề nghị hay các khiếu nại của họ về việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan
hành chính nhà nước và các cán bộ có thẩm quyền của các cơ quan ấy. Thông
qua việc thực hiện quyền giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và các
cán bộ có thẩm quyền của các cơ quan ấy, Quốc hội xây dựng những biện
pháp và giả pháp hữu hiệu giải quyết những vấn đề nảy sinh trong hoạt động
5

×