Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Thời hiệu khởi kiện và việc xác định thời hiệu khởi kiện đối với một số vụ án dân sự điển hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.58 KB, 15 trang )

A –LỜI MỞ ĐẦU:
Để xã hội phát triển thì phải ổn định được các quan hệ xã hội trong các lĩnh
vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động. Những tranh
chấp phát sinh trong các lĩnh vực này phải được giải quyết kịp thời, nếu để lâu, mâu
thuẫn phát triển , việc giải quyết sẽ khó khăn hơn. Vì vậy pháp luật đã có những quy
định về thời hiệu khởi kiện để giải quyết việc dân sự. Tuy nhiên, quy định của pháp
luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự còn nhiều điểm bất cập, tạo nên nhiều cách
hiểu khác nhau, gây khó khăn cho thực tiễn áp dụng, ảnh hưởng không ít đến quyền
lợi của đương sự. Bài viết này chúng em trao đổi một số vấn đề về đề tài: “Thời
hiệu khởi kiện và việc xác định thời hiệu khởi kiện đối với một số vụ án dân sự điển
hình”.

1


B – NỘI DUNG:
I - Thời hiệu khởi kiện:
Tại khoản 1 điều 159 BLTTDS đã sửa đổi bổ sung quy định :
“1. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để
yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm;
nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác”.
Điều 159 BLTTDS quy định thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được
quyền khởi kiện yêu cầu tòa giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị
xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật
có quy định khác. Như vậy, thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà đương sự được quyền yêu
cầu cơ quan tòa án giải quyết vụ việc nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
bị xâm phạm. Quy định về thời hiệu khởi kiện buộc các đương sự phải ý thức được việc
bảo vệ quyền lợi của mình và sớm có yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết, tránh
tình trạng khởi kiện tuỳ hứng.
Trong trường hợp pháp luật không có quy định khác về thời hiệu khởi kiện, thì


thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của
Nhà nước bị xâm phạm. Như vậy, để xác định đúng thời hiệu khởi kiện, phải xác định
được quan hệ tranh chấp đó có được văn bản pháp luật nào khác quy định về thời hiệu
khởi kiện hay không. Điều quan trọng thứ hai là phải xác định đúng ngày nào được coi
là ngày có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm để bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện.
Theo Nghị quyết 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định
chung” của BLTTDS 2005 tại tiểu mục 2.2 Mục 2 phần IV thì thời điểm bắt đầu thời
hiệu khởi kiện được tính từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ
chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm(1).

2


Như vậy trong nghị quyết đã có sự hướng dẫn khá chi tiết về thời hiệu khởi kiện
về các loại tranh chấp, khi các đương sự có các quyền và lợi ích bị xâm phạm thì cần căn
cứ vào nội dung tranh chấp mà áp dụng thời hiệu khởi kiện.
Theo như quy định của pháp luật thì thời hạn tố tụng dân sự được tính theo
dương lịch, theo đó thời hạn đó có thể xác định là một năm, nửa năm, bằng tháng, bằng
tuần hay bằng ngày, bằng giờ. Đối với thời điểm bắt đầu của thời hạn thì được xác định
như sau: đối với thời hạn được tính bằng giờ thì thời hạn được bắt đầu từ thời điểm đã
xác định. Khi thời hạn được xác định bằng ngày, tuần, tháng, năm thì ngày đầu tiên
của thời hạn không được tính mà tính kể từ ngày tiếp theo của ngày được xác định.
Ngày kết thúc của thời hạn thì nếu thời hạn tính bằng ngày thì thời hạn kết thúc là ngày
cuối cùng của thời hạn; Khi thời hiệu tính bằng tuần thì ngày cuối cùng cảu tuần là
ngày cuối cùng của tuần; Thời hiệu tính bằng tháng thì ngày kết thúc là ngày cuối cùng
của tháng; Thời hiệu tính bằng năm thì ngày kết thúc thời hạn là ngày kết thúc năm. Với
cách tính thời hạn như vậy thì thời hiệu để các đương sự áp dụng cũng được qui định
tương tự như vậy. Tuy nhiên trong một số trường hợp thì thời hiệu khởi kiện có thể bị

gián đoạn, đây là qui định tại điều 161 BLDS 2005 quy định thời gian không tính vào
thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là khoảng thời gian xảy ra một trong các sự kiện sau:
1.

Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi

kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện trong phạm vi thời hiệu;
2.

Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện, quyền yêu

cầu chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự;
3.

Chưa có người đại diện khác thay thế hoặc vì lý do chính đáng mà không thể

tiếp tục đại diện được trong trường hợp người đại diện của người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chết.
Vì thế, đây có thể được coi là khoảng thời gian không được tính vào thời hiệu
khởi kiện. Đồng thời trong một số trường hợp thì thời hiệu khởi kiện có thể được tính lại
từ đầu khi có xảy ra sự kiện pháp lý như qui định tại điều 171 BDS.
3


Như vậy, đối với mỗi vụ việc dân sự nói chung, pháp luật đều có quy định thời
hiệu khởi kiện. Việc pháp luật quy định thời hiệu khởi kiện giải quyết các vụ việc dân sự
trong các trường hợp cụ thể có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Trong việc giải quyết vụ án
dân sự, thời hiệu xác định rõ thời hạn chủ thể có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm
có quyền yêu cầu tòa án bảo vệ, đảm bảo cho việc giải quyết các tranh chấp được thuận

tiện, đúng đắn. Đối với kinh tế - xã hội, thời hiệu khởi kiện còn hạn chế được việc lạm
dụng quyền khởi kiện, yêu cầu tòa án bảo vệ góp phần ổn định các quan hệ xã hội, bảo
đảm các quan hệ xã hội phát triển lành mạnh.
Xung quanh vấn đề này cũng có những luồng ý kiến trái chiều, cho rằng nên bỏ
thời hiệu khởi kiện, bởi vì đây là quyền hợp pháp của người dân. Nhưng thiết nghĩ theo
chúng tôi, nếu bỏ thời hiệu khởi kiện đi thì sẽ rất khó có thể quản lí được những yêu cầu
ngày càng lớn của người dân, dễ dẫn đến yêu cầu tràn lan, gây khó khăn cho công tác
giải quyết. Chúng tôi cho rằng chỉ nên kéo dài thời hiệu khởi kiện chứ không nên bỏ, bởi
vì thời gian hai năm có lẽ là hạn chế cho người dân thực hiện quyền yêu cầu của họ, bên
cạnh đấy, việc xác định thời hiệu khởi kiện có chỗ còn chưa hợp lí khiến khó khăn cho
người dân.
II – Việc xác định thời hiệu khởi kiện của một số vụ án dân sự điển hình:
Sau đây chúng ta sẽ đi tìm hiểu cách xác định thời hiệu khởi kiện của một số vụ
án dân sự về: thừa kế, lao động, kinh doanh – thương mại, hợp đồng.
1 – Xác định thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự về thừa kế:
Theo quy định tại Điều 645 của Bộ luật dân sự, khi có tranh chấp liên quan việc
thừa kế di sản thì thời hiệu tối đa để các đương sự khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết là
10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế (tức là thời điểm người có di sản chết).
Từ nhỏ, bà Nguyễn Thị Vọng (sinh năm 1948) đã sống chung với bà ngoại của
mình là bà Trần Thị Kiều tại căn nhà 185/101 Phó Cơ Điều, P.6, Q.11, TP.HCM. Năm
1967 căn nhà bị cháy, bà Vọng được các dì, cậu giúp xây lại nhà và tiếp tục cư ngụ tới
nay. Tháng 5-2000, bà Vọng được UBND TP.HCM cấp giấy chứng nhận sở hữu căn nhà
nói trên. Tuy nhiên, đến tháng 7/2001, năm anh chị em ruột của bà Vọng khởi kiện yêu
4


cầu chia thừa kế vì cho rằng căn nhà 185/101 Phó Cơ Điều là của cha mẹ ruột của bà
Vọng (chết năm 1985) để lại nên họ cũng có quyền được hưởng.
Tại phiên tòa sơ thẩm của Tòa án nhân dân (TAND) Q.11 và phúc thẩm của
TAND TP.HCM, bà Vọng đều đưa ra các chứng cứ cho rằng căn nhà trên do bà ngoại

của bà để lại chứ không phải tài sản của mẹ bà, việc bà Vọng cư trú ổn định, lâu dài
trong căn nhà nói trên không có ai tranh chấp nên đã được UBND TP cấp giấy chứng
nhận sở hữu nhà. Hơn nữa, thời hiệu kiện tranh chấp về thừa kế căn nhà đã hết.
Tuy nhiên, cả hai phiên tòa, hội đồng xét xử đều cho rằng thời hiệu khởi kiện về
thừa kế vẫn còn và buộc tuyên phát mãi căn nhà để chia thừa kế cho các anh chị em của
bà Vọng theo pháp luật.
Việc tòa án xác định thời hiệu của vụ án trên vẫn còn là dựa vào quy định tại
thông tư liên ngành (số 01/TTLT ngày 25-1-1999) của tòa án và Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao. Trong đó, thời hiệu 10 năm được cộng thêm một khoảng thời gian là 30 tháng
nữa, vì trong khoảng thời gian này quyền khởi kiện của đương sự bị trở ngại do có nghị
quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tạm ngưng giải quyết các tranh chấp dân sự liên
quan vấn đề nhà - đất xác lập trước ngày 1-7-1991 (trước khi có pháp lệnh nhà ở). Chính
vì vậy, thời hiệu khởi kiện về thừa kế đối với mọi trường hợp người có di sản chết trước
ngày 10-9-1990 được xem là đến ngày 10-3-2003 mới bị hết thời hiệu.
Tuy nhiên, thực tế việc vận dụng các văn bản hướng dẫn về cách tính thời hiệu hiện vẫn
chưa thống nhất. Không phải lúc nào tòa án cũng cộng thêm 30 tháng vào thời hiệu cho
tất cả các trường hợp tranh chấp. Có khi thời hiệu khởi kiện thừa kế chỉ được tính 10
năm nhưng có vụ án lại được tính thời hiệu 12 năm 6 tháng (do cộng thêm 30 tháng),
những trường hợp mở thừa kế trước năm 1990 thì thời hiệu còn lâu hơn.
Theo chúng em, nguyên nhân chính là do cách vận dụng văn bản pháp luật chưa
thống nhất. Ngay cả khi áp dụng thông tư liên ngành 01/TTLT/99 cũng có hai điều mục
mâu thuẫn nhau, nếu hiểu theo điều này thì thời hiệu là 10 năm nhưng hiểu theo mục
khác thì thời hiệu lên tới hơn 12 năm. Hơn nữa, việc tòa án cộng thêm khoảng thời gian
30 tháng vào thời hiệu xem như là khoảng thời gian đương sự gặp trở ngại khách quan
trong việc khởi kiện đòi thừa kế, vì có nghị quyết của Quốc hội tạm ngưng việc thụ lý,
5


xét xử các vụ việc này (căn cứ điều 170 BLDS) cũng chưa chính xác. Bởi lẽ nếu tòa
muốn cộng thêm thời gian này vào thời hiệu thì phải có bằng chứng cho thấy trong thời

gian này đương sự có khởi kiện nhưng đã không được thụ lý.
2 – Xác định thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự về lao động:
Theo quy định tại Điều 167 Bộ luật Lao động:
“1- Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, kể từ ngày mỗi
bên tranh chấp cho rằng quyền và lợi ích bị vi phạm được quy định như sau:
a) Một năm, đối với các tranh chấp lao động quy định tại các điểm a, b và c
khoản 2 Điều 166;
b) Một năm, đối với tranh chấp quy định tại điểm d khoản 2 Điều 166;
c) Ba năm, đối với tranh chấp quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 166;
d) Sáu tháng, đối với các loại tranh chấp lao động khác.
2- Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động tập thể là một năm, kể từ
ngày mà mỗi bên cho rằng quyền và lợi ích của mình bị vi phạm.”
Khoản 3a Điều 159 Bộ luật tố tụng Dân sự quy định: “Trong trường hợp pháp
luật không có quy định khác về thời hiệu khởi kiện, thì thời hiệu khởi kiện áp dụng thống
nhất cho mọi vụ án dân sự là 2 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước bị xâm phạm”.
Quan điểm của các Toà án thời điểm phát sinh tranh chấp là thời điểm có một sự
kiện pháp lý nào đó như quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hay quyết
định kỷ luật sa thải, hay có hành vi vi phạm pháp luật như người lao động gây thiệt hại
tài sản cho người sử dụng lao động, người sử dụng lao động đến kỳ lương không trả
lương cho người lao động v.v.. Nói cách khác đó là thời điểm có sự kiện pháp lý phát
sinh, mà sự kiện pháp lý này có vi phạm đến quyền, lợi ích của người lao động hay
người sử dụng lao động.
Theo chúng em nếu lấy thời điểm phát sinh sự kiện pháp lý trong quan hệ lao
động để tính thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện thì sẽ có những trường hợp về mặt
6


chủ quan khi có sự kiện pháp lý phát sinh, nhưng người lao động hay người sử dụng lao
động chưa biết được sự kiện pháp lý đó.

Ví dụ: ngày 1-1-1997 người sử dụng lao động ra quyết định sa thải vắng mặt
người lao động. Ngày 8-5-1997 người lao động mới nhận được quyết định sa thải đó.
Trong trường hợp này thời hiệu khởi kiện không thể tính từ ngày 1-1-1997 mà phải tính
từ ngày 8-5-1997 vì lúc này người lao động mới biết họ bị chấm dứt quan hệ lao động,
từ đó họ mới có thể cho rằng quyền, lợi ích của họ bị vi phạm.
Mặt khác có những trường hợp mặc dù có việc chấm dứt quan hệ lao động, song bản
thân người lao động vẫn chưa biết được quyền, lợi ích của họ bị vi phạm, nên không thể
lấy ngày chấm dứt quan hệ lao động để làm ngày bắt đầu thời hiệu khởi kiện.
Ví dụ: Vụ tranh chấp tiền trợ cấp do bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
giữa chị Nguyễn Thanh Hà với Công ty liên doanh giao dịch Hà Nội.Chị Hà ký hợp
đồng lao động không xác định thời hạn với Công ty vào ngày 20-6-1992. Đến tháng 71997 giám đốc công ty thông báo cho các nhân viên nghỉ việc từ 1-8-1997. Đúng 1-81997 chị Hà nghỉ việc, nhưng công ty hứa sẽ nhận lại làm việc và giải quyết các chế độ
theo quy định của pháp luật. Tháng 10-1998 chị Hà biết được ngày 17-7-1998 Bộ Kế
hoạch và Đầu tư có văn bản cho công ty liên doanh Trung tâm giao dịch Hà Nội ngừng
hoạt động và giải thể trước thời hạn. Chị Hà yêu cầu công ty giải quyết chế độ trợ cấp
thôi việc, Công ty không giải quyết. Tháng 11-1998 chị Hà khởi kiện ra Toà án. Toà án
đã trả lại đơn khởi kiện với lý do trường hợp của chị đã hết thời hiệu khởi kiện.Đối với
vụ án trên không thể lấy ngày 1-8-1997 làm ngày bắt đầu thời hiệu, vì ngày đó chị Hà bị
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng chị Hà vẫn được giám đốc công ty hứa
sẽ nhận trở lại làm việc, nên chị Hà không thể biết công ty sẽ không giải quyết chế độ
trợ cấp thôi việc. Chỉ đến khi chị Hà biết rõ Công ty đã được chấm dứt hoạt động, chị
Hà yêu cầu công ty giải quyết quyền lợi, công ty không giải quyết, lúc đó chị Hà mới có
thể nhận biết và cho rằng lợi ích của mình bị vi phạm. Nên trường hợp này thời hiệu giải
quyết tranh chấp lao động phải tính từ ngày chị Hà yêu cầu công ty giải quyết quyền lợi,
nhưng công ty không giải quyết.
7


3 – Xác định thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự về tranh chấp kinh doanh – thương mại:
Tranh chấp kinh doanh- thương mại phát sinh trong nhiều lĩnh vực khác nhau,
mỗi lĩnh vực đều có văn bản pháp luật chuyên ngành điều chỉnh. Ví dụ, hợp đồng xây

dựng chịu sự điều chỉnh của Luật xây dựng, hợp đồng bảo hiểm chịu sự điều chỉnh của
Luật kinh doanh bảo hiểm, hợp đồng trong lĩnh vực hàng hải chịu sự điều chỉnh của Bộ
luật hàng hải, hợp đồng tín dụng chịu sự điều chỉnh của pháp luật về tài chính, ngân
hàng… Thời hiệu khởi kiện đối với những tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực này,
cũng có thể được văn bản pháp luật chuyên ngành điều chỉnh, nếu không được văn bản
luật chuyên ngành điều chỉnh thì sẽ áp dụng quy định của Luật thương mại 2005 về thời
hiệu khởi kiện, theo đó, thời hiệu khởi kiện các tranh chấp trong hoạt động thương mại
cũng là 2 năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, trừ trường hợp được
quy định tại điểm e khoản 1 Điều 237 Luật Thương mại. Quy định này trùng với quy
định về thời hiệu khởi kiện của Điều 159 BLTTDS. Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý căn
cứ pháp lý để xác định thời hiệu là Luật Thương mại chứ không phải là BLTTDS, điều
luật cần phải viện dẫn là Điều 319 Luật Thương mại chứ không phải là Điều 159
BLTTDS.
4 – Xác định thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự tranh chấp về hợp đồng:
Xác định thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp về hợp đồng cần áp dụng
quy định của pháp luật tương ứng với thời điểm xác lập hợp đồng. Điều quan trọng, để
xác định thời hiệu trước tiên phải xác định được tính chất của yêu cầu và thời điểm
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của
Nhà nước bị xâm phạm. Ví dụ, đương sự tranh chấp về việc chậm thực hiện nghĩa vụ, để
xác định chính xác thời hiệu khởi kiện, phải xác định chính xác thời điểm thực hiện
nghĩa vụ.
Nguyên tắc chung khi xác định thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng là phải
nắm vững quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật nội dung có quy định về thời
hiệu khởi kiện. Trong trường hợp, văn bản quy phạm pháp luật không quy định về thời
8


hiệu khởi kiện thì áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 159 BLTTDS để xác định thời hiệu
khởi kiện:
- Đối với tranh chấp hợp đồng dân sự xác lập trước ngày 1/7/1991. Thời điểm này

không có quy định áp dụng thời hiệu khởi kiện, vì vậy thời hiệu khởi kiện được xác
định theo quy định tại Điều 159 BLTTDS và hướng dẫn tại mục 2.1. mục IV Nghị
quyết số 01/2005/NQ-HĐTPTANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong
phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS năm 2004. Việc bắt đầu thời
hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 162 BLDS 2005 cũng được áp dụng cho việc
xác định thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp hợp đồng giao kết trước ngày
1/7/1996;
- Đối với tranh chấp hợp đồng được xác lập từ ngày 1/7/1991 đến ngày 1/7/1996 áp
dụng Điều 56 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991, thời hiệu khởi kiện là 3 năm
kể từ ngày “vi phạm hợp đồng”;
- Đối với tranh chấp hợp đồng được xác lập từ ngày 1/7/1996 đến ngày 31/12/2005
được quy định cụ thể tại tiểu mục 2.1. mục IV Nghị quyết số 01/2005/NQHĐTPTANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những
quy định chung” của BLTTDS năm 2004, cụ thể là:
+ Nếu tranh chấp hợp đồng phát sinh trước ngày 1/1/2005, thì thời hạn 2 năm, kể từ
ngày 1/1/2005;
+ Nếu tranh chấp phát sinh từ ngày 1/1/2005, thì thời hạn 2 năm, kể từ ngày quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà
nước bị xâm phạm.
- Đối với tranh chấp hợp đồng được xác lập kể từ ngày 1/1/2006 thì thời hiệu khởi
kiện được xác định theo quy định tại Điều 427 BLDS năm 2005. Theo đó, thời hiệu
khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự là 2 năm, kể từ
ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác bị xâm
phạm.
Cần lưu ý việc tính thời hiệu kể từ “ngày tranh chấp phát sinh” (theo Nghị
quyết số 01/2005/NQ-HĐTPTANDTC cũng chính là ngày ‘vi phạm hợp đồng”
9


(Điều 56 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự), “ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm”

(điểm a, khoản 3, Điều 159 BLTTDS).
Trường hợp đương sự đề nghị Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, thì
thời hiệu phụ thuộc vào các quy định tương ứng của BLDS. Cần lưu ý trong việc áp
dụng quy định tại Điều 136 BLDS năm 2005 “Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố
giao dịch dân sự vô hiệu’ để kiểm tra về thời hiệu khởi kiện.
III – Thực trạng và giải pháp trong việc áp dụng các quy định của pháp luật về
thời hiệu khởi kiện:
Trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân
sự không tránh khỏi những hạn chế, sai sót. Vấn đề đặt ra là chúng ta sẽ phải hiểu và sửa
đổi chúng như thế nào cho phù hợp. Sau đây là một số ý kiến của nhóm về vấn đề này:


Cách tính khác nhau về thời hiệu: Về cách tính thời hạn, BLDS 2005 quy

định khi thời hạn được xác định bằng ngày, tuần, tháng, năm thì ngày đầu tiên của thời
hạn không được tính mà tính từ ngày tiếp theo của ngày được xác định (khoản 2 Điều
152 BLDS 2005). Theo hướng dẫn của Nghị quyết 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005
của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ
nhất “Những quy định chung” của BLTTDS 2005, đối với vụ việc dân sự mà trong văn
bản quy phạm pháp luật không quy định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu thì thời
hiệu khởi kiện là 2 năm kể từ ngày có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm theo quy
định của khoản 3 Điều 159 BLTTDS và lưu ý nếu tranh chấp phát sinh trước ngày
01/01/2005, thì thời hạn là hai năm kể từ ngày 01/01/2005 (tiểu mục 2.1, mục 2, phần
IV). Bên cạnh đó, Điều 156 BLDS 2005 quy định “thời hiệu được tính từ thời điểm bắt
đầu ngày đầu tiên của thời hiệu và chấm dứt tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của
thời hiệu”. Tranh cãi về việc áp dụng cách tính thời hạn theo quy định của BLDS 2005
cũng được đặt ra đối với hướng dẫn nói trên của Nghị quyết 01. Có quan điểm cho rằng,
những tranh chấp phát sinh trước ngày 01/01/2005 thì thời hiệu khởi kiện là 2 năm tính
từ ngày 01/01/2005, và như vậy thời hiệu khởi kiện hết vào ngày 31/12/2006 (cách tính
10



này áp dụng theo Điều 156 BLDS 2005). Nhưng cũng có quan điểm khác cho rằng, ngày
bắt đầu tính thời hiệu là ngày 02/01/2005 (cách tính này áp dụng theo Điều 152 BLDS
2005) và như vậy, ngày hết thời hiệu khởi kiện là ngày 02/01/2007. Dù sự chênh lệch
không nhiều, nhưng đối với quyền lợi của các đương sự, một ngày cũng đủ để cứu vớt
quyền lợi của họ trước nguy cơ hết thời hiệu khởi kiện. Vậy phương pháp tính thời hiệu
khởi kiện nào là phương pháp đúng? Cần có sự thống nhất về phương pháp tính thời
hiệu để tránh thiệt hại cho các đương sự.


Về thời gian không tính vào thời hiệu: Thời gian không tính vào thời hiệu

quy định tại Điều 161 Bộ luật dân sự 2005, trong đó có liệt kê các trường hợp mà thời
gian xảy ra không tính vào thời hiệu khởi kiện. tuy nhiên, có nhiều trường hợp không
được quy định trong Điều 161, nhưng khi nó xảy ra lại gây ra trở ngại đáng kể cho việc
khởi kiện như trường hợp người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chết, người
đại diện đột nhiên mất năng lực hành vi…mà doanh nghiệp chưa có người thay thế để
thực hiện việc khởi kiện. vậy có nên chăng nên quy định thêm về trường hợp pháp nhân
chưa tìm được người đại diện thay thế trong trường hợp có lí do chính đáng. Khi đó,
thời gian này cũng nên được cộng vào thời gian tính thời hiệu khởi kiện. Với những tình
huống như vậy, giải pháp nên là, doanh nghiệp, dù chưa có người đại diện hợp lệ, vẫn
tiến hành việc khởi kiện, sau đó khi xác định được người đại diện hợp lệ, doanh nghiệp
sẽ khởi kiện lại để đỡ mất thời hiệu khởi kiện (Tòa án sẽ tính thời điểm khởi kiện là thời
gian nộp đơn lúc đầu).


Tính thời hiệu khởi kiện thừa kế: Theo quy định tại điều 645 BLDS 2005

thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế, xác nhận quyền thừa kế của mình

hoặc bác bỏ quyền yêu câu thừa kế của người khác là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa
kế. Như vậy sau 10 năm, người thừa kế sẽ mất quyền khởi kiện thừa kế. Nhưng theo quy
định của nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP, hai trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi
kiện về quyền thừa kế: thứ nhất là trong thời hạn mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế
mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và có văn bản cùng xác nhận
là đồng thừa kế thì tài sản thành di sản chung. Khi xảy ra tranh chấp thì không tính thời
hiệu và tòa sẽ tiến hành chia tài sản theo di chúc hoặc chia theo thỏa thuận của các đồng
11


thừa kế; thứ hai là di sản người chết để lại nhưng do người ngoài quản lý, còn các thừa
kế không quản lý, không biết gì về di sản.
Có ý kiến cho rằng thời hiệu khởi kiện hiện nay là quá ngắn. Chính vì thời hiệu
ngắn mà trong một số trường hợp vì người dân không hiểu biết pháp luật đã bị tước mất
quyền lợi của mình. Chính vì vậy cần nới rộng thời hiệu khởi kiện. Quan điểm khác cho
rằng nên bỏ thời hiệu khởi kiện tuy nhiên nếu bỏ thời hiệu đối với tất cả các quan hệ dân
sự rất dễ dẫn đến vụ án bị kéo dài bất tận mà không có điểm dừng. Như vậy thì ở góc độ
nào đó sẽ khó khăn cho cơ quan xét xử và ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các
bên.Vì vậy nên bỏ thời hiệu khởi kiện quy định về thời hiệu đối với một số quan hệ dân
sự có tính đặc thù: quan hệ sở hữu và các yêu cầu về nhân thân của cá nhân như yêu cầu
tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự, huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc quyết định
tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự, yêu cầu tuyên bố một người là đã chết… Vì
vậy, Luật số 65/2011/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật Tồ tụng dân sự,
trong đó một trong những sửa đổi, bổ sung quan trọng lần này là việc thay đổi thời hiệu
khởi kiện vụ án dân sự. Cụ thể, trường hợp pháp luật không có quy định về thời hiệu
khởi kiện vụ án dân sự thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với những tranh chấp
về quyền sở hữu tài sản; tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý; chiếm hữu;
tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai. Không áp dụng
thời hiệu yêu cầu đối với việc dân sự có liên quan đến quyền dân sự về nhân thân của cá

nhân.

12


C – KẾT LUẬN:
Mặc dù còn nhiều điểm bất cập trong quy định của pháp luật và thực tiễn áp
dụng các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện và việc xác định thời hiệu khởi
kiện của một số vụ án điển hình nhưng hy vọng trong thời gian tới các nhà làm luật, cơ
quan chức năng sẽ có những thay đổi, những cải cách để pháp luật có thể phù hợp với xã
hội và việc áp dụng pháp luật của các chủ thể được rõ ràng, chính xác, phù hợp nhu cầu
của xã hội. Trong khuôn khổ hạn chế của bài tập nhóm chúng em chỉ có thể phân tích và
những ý kiến trên, chúng em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn.

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004;
2. Bộ Luật Dân sự năm 2005;
3. Bộ luật Lao động năm 1994 (sửa đổi bổ sung năm 2006);
4. Luật thương mại năm 2005;
5. Luật Đất đai năm 2003
6. Nghị quyết của HĐTPTANDTC số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 hướng dẫn
thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của
BLTTDS;
7. Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án Nhân dân Tối cao
ngày 10/8/2004 hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự,
hôn nhân và gia đình. Nghị quyết ban hành ngày 10/8/2004;
8. Luật số 65/2011/QH12 ngày 29/3/2011 về sửa đổi, bổ sung một số điều của bộ luật tố

tụng dân sự;
9. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB.CAND,
Hà Nội, 2009

14


MỤC LỤC:
STT
ABIII 123-

NỘI DUNG
Lời mở đầu
Nội dung
Thời hiệu khởi kiện
Việc xác định thời hiệu khởi kiện một số vụ án dân sự điển hình
Việc xác định thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự về thừa kế
Việc xác định thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự về lao động
Việc xác định thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự về kinh doanh –

thương mại
4 - Việc xác định thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự về hợp đồng
III - Thực trạng và giải pháp trong việc áp dụng các quy định của pháp
luật về thời hiệu khởi kiện
C - Kết luận

15

TRANG
1

1
3
3
5
7
7
9



×