Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Thực trạng pháp luật Quản lý thuế hiện nay ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.34 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
Trang
A. LỜI NÓI ĐẦU…………………………………………………………………………...1
B. NỘI DUNG……………………………………………………………………………..1
I: Những vấn đề chung về Quản lý thuế và pháp luật Quản lý thuế…………………1
1. Khái quát chung về Quản lý thuế……………………………………………………….1
2. Khái quát chung về pháp luật Quản lý thuế……………………………………………1
2.1. Khái niệm………………………………………………………………………………1
2.2. Sự hình thành và phát triển của Quản lý thuế hiện nay ở Việt Nam…………………1
II: Thực trạng pháp luật Quản lý thuế hiện nay ở Việt Nam………………………….2
1. Thực trạng pháp luật Quản lý thuế……………………………………………………..2
1.1. Hệ thống pháp luật Quản lý thuế hiện hành ở Việt Nam…………………………….2
1.2. Nội dung cơ bản của Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành luật……5
1.3. Những vướng mắc còn tồn tại trong pháp Luật Quản lý thuế……………………….8
2. Thực trạng thi hành pháp luật Quản lý thuế……………………………………………10
2.1. Hiệu quả đạt được trong công tác thi hành pháp luật thuế nói chung và pháp Luật
Quản lý thuế nói riêng……………………………………………………………………..10
2.2. Những vướng mắc còn tồn tại trong công tác thi hành pháp luật thuế nói chung và
pháp luật Quản lý thuế nói riêng…………………………………………………………..11
3. Nguyên nhân của thực trạng……………………………………………………………12
III: Hoàn thiện pháp luật Quản lý thuế của Việt Nam………………………………..13
1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật Quản lý thuế…………………………………………13
1.1. Tiếp tục hoàn thiện các văn bản luật thuế nói chung và các văn bản Luật Quản lý thuế
nói riêng………………………………………………………………………………….…13
1.2. Nhà nước cần quy định và phát triển mạnh các hệ thống thanh toán qua ngân
hàng................................................................................................................................13
1.3. Nhà nước cần có biện pháp quản lý hóa đơn chứng từ hiệu quả……………………14
1.4. Chuyển đổi về cơ cấu tổ chức và quản lý theo mức độ tuân thủ…………………....14
2. Giải pháp đảm bảo cho quá trình thực thi pháp luật Quản lý thuế nói riêng và pháp luật
thuế nói chung…………………………………………………………………………….14
2.1. Nâng cao vai trò của cán bộ Quản lý thuế………………………………………….14


2.2. Nâng cao sự tuân thủ tự nguyện của đối tượng nộp thuế…………………………..14
2.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế………………………………………15
2.4. Tăng cường cở sở vật chất, máy móc, trang thiết bị, công nghệ hiện đại phục vụ cho
công tác Quản lý thuế………………………………………………………………………15
C. KẾT LUẬN……………………………………………………………………………15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1


A.LỜI NÓI ĐẦU
Thuế có vai trò rất quan trọng đối với một quốc gia, đối với đời sống xã hội và sự phát triển
kinh tế của quốc gia đó. Thuế là công cụ hiệu quả để Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển, giải quyết nhiều
vấn đề kinh tế xã hội của đất nước, để điều tiết một phần sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân
vào NSNN nhằm đảm bảo nhu cầu chi tiêu chung của Nhà nước và xã hội. Hoạt động quản lý thuế
là một hoạt động không thể thiếu trong việc quản lý nền kinh tế - tài chính của đất nước. Trong
thời gian qua, công tác quản lý thuế ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, thúc đẩy nền
kinh tế phát triển vượt bậc nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, thiếu sót cần được
khắc phục. Vì vậy, cần có một hệ thống pháp luật thuế hoàn thiện, cơ chế quản lý thuế thích hợp để
góp phần đảm bảo công bằng xã hội, đảm bảo tính dân chủ cao.

B. NỘI DUNG
I: Những vấn đề chung về Quản lý thuế và pháp luật Quản lý thuế.
1. Khái quát chung về Quản lý thuế.
Khái niệm Quản lý thuế (QLT) có thể hiểu theo hai nghĩa như sau:
Theo nghĩa rộng: Quản lý thuế là quản lý Nhà nước trong lĩnh vực thuế, là quá trình xây dựng
chiến lược phát triển hệ thống thuế, ban hành các luật thuế, tổ chức, quản lý, điều hành, thanh tra,
giám sát việc thực hiện các luật thuế, thanh tra, kiểm tra thuế, xử lý vi phạm pháp luật về thuế…
Theo nghĩa hẹp: Quản lý thuế là quản lý hành chính về thuế, là việc tổ chức, quản lý, điều

hành quá trình thu nộp thuế, bao gồm các hoạt động nghiệp vụ mang tính chất hành chính trong
lĩnh vực thuế, là hoạt động chấp hành theo kế hoạch và trình tự nhất định được thực hiện bởi các
cơ quan Quản lý thuế. Luật Quản lý thuế năm 2006 không đưa ra khái niệm cụ thể về quản lý thuế
mà chỉ nêu ra các nội dung trong Quản lý thuế tại Điều 3.
Đặc điểm của Quản lý thuế:
Thứ nhất: QLT là một hoạt động nhạy cảm, phức tạp, đòi hỏi phải đảm bảo lợi ích của cả hai
bên: Nhà nước và người nộp thuế. Đặc điểm này đòi hỏi cơ quan quản lý thuế phải có những
phương thức quản lý thuế linh hoạt, không thể tùy tiện đề ra các quy định có tính áp đặt, độc đoán.
Thứ hai: Quản lý thuế là quản lý bằng pháp luật; theo pháp luật và các biện pháp nghiệp vụ,
biện pháp hành chính khác, trong đó pháp luật là công cụ chủ yếu, là chuẩn mực buộc mọi người
phải tuân theo, dù là người thu thuế hay người nộp thuế.
Thứ ba: Hiệu quả của công tác quản lý thuế phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: ý thức chấp hành
pháp luật thuế của người dân, trình độ năng lực của công chức quản lý thuế, cơ sở vật chất của
ngành thuế, hệ thống thể chế quản lý kinh tế - xã hội (quản lý đất đai, quản lý đăng ký kinh doanh,
chế độ kế toán…). Đặc điểm này đặt ra yêu cầu: Mọi cuộc cải cách hệ thống thuế phải được tiến
hành đồng bộ, có chiến lược tổng quát, tránh lối cải cách khập khiễng, chắp vá.

2. Khái quát chung về pháp luật Quản lý thuế.
2.1. Khái niệm.
Pháp luật Quản lý thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động quản lý thuế của
Nhà nước (quan hệ quản lý trong việc thu nộp thuế cho NSNN của các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền đối với các đối tượng nộp thuế và các đối tượng khác có liên quan).

2.2. Sự hình thành và phát triển của Quản lý thuế hiện nay ở Việt Nam.
a. Giai đoạn trước 2006.
Trong nhiều năm, Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới kinh tế, mở cửa hội nhập, hệ thống
chính sách thuế đã được cải cách và hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Các
luật thuế đã được Quốc hội ban hành tương đối đồng bộ và có phạm vi điều chỉnh toàn diện đến
các hoạt động kinh tế - xã hội. Đồng thời, trong từng luật thuế đã quy định nội dung quản lý thuế

mang tính chất khung, trên cơ sở Chính phủ, Bộ Tài chính đã có những quy định cụ thể để hướng
dẫn, tổ chức công tác quản lý thuế đảm bảo việc thực thi chính sách thuế theo quy định của pháp
luật. Mặt khác, trong quá trình thực thi các luật thuế, công tác cải cách hành chính thuế luôn được
xác định là yếu tố quan trọng và từng bước được hoàn thiện. Các thủ tục hành chính thuế như:
Đăng ký thuế, nộp thuế, miễn giảm thuế… đã được quan tâm sửa đổi, bổ sung theo hướng đơn
giản, rõ ràng, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế, từng bước chuyển sang cơ
chế tự khai, tự nộp thuế, cơ quan thuế chuyển từ quản lý thuế tiền kiểm sang hình thức hậu kiểm và
cung cấp dịch vụ công nhằm giúp người nộp thuế thực hiện quyền, nghĩa vụ theo quy định của
pháp luật…Trình độ công chức thuế ngày càng được nâng lên theo hướng chuyên sâu, chuyên
nghiệp, nhờ đó mà số thu từ thuế và phí vào NSNN luôn vượt dự toán Nhà nước giao hàng năm.
Song bên cạnh những thành tựu đạt được trong công tác quản lý thuế, trước yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế, công tác quản lý thuế còn bộc lộ một số tồn tại như sau:
+ Nước ta chưa có một văn bản luật thống nhất về quản lý thuế, các quy định về quản lý thuế
nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như các văn bản pháp luật ở từng sắc thuế có

2


những quy định về quản lý thuế riêng như: quy định về thủ tục đăng ký thuế, cấp mã số thuế, thời
hạn nộp thuế, thủ tục về quyết toán thuế, thời hạn nộp quyết toán thuế… Ngoài ra, còn có các văn
bản pháp luật về kế toán, về hóa đơn chứng từ, các văn bản về khiếu nại, tố cáo, các văn bản về
thanh tra, kiểm tra, các văn bản về xử phạt hành chính… một hệ thống các văn bản pháp luật như
vậy sẽ có nhiều quy định mâu thuẫn nhau, gây khó khăn cho việc thực hiện.
Giai đoạn này có nhiều thủ tục quản lý thuế được ban hành chủ yếu trong các văn bản dưới
luật (nghị định, thông tư) nên tính pháp lý không cao. Pháp luật Quản lý thuế còn chưa đảm bảo
thống nhất, còn chắp vá, tản mạn, chưa mang tính hệ thống. Các nội dung về quản lý thuế được
quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với từng sắc thuế nên không đảm bảo tính
thống nhất. Mỗi luật thuế, pháp lệnh thuế đều có các quy định riêng về quản lý thuế cho sắc thuế
đó. Hồ sơ, thủ tục khai thuế, nộp thuế và đặc biệt là các chế tài xử phạt đối với mỗi sắc thuế cũng
khác nhau làm cho việc áp dụng gặp nhiều khó khăn. Pháp luật Quản lý thuế còn nhiều quy định

chưa rõ ràng, thiếu tính khả thi, như chưa có quy định cụ thể việc đánh giá, phân loại đối tượng cần
thanh tra, kiểm tra, chưa quy định thẩm quyền điều tra, khởi tố các hành vi vi phạm về thuế cho cơ
quan thuế và cơ quan Hải quan…
Tóm lại, trước năm 2006, pháp luật Quản lý thuế ở nước ta còn nhiều hạn chế, thiếu sót như:
Thứ nhất: các quy định trùng lặp, chồng chéo nhau, thậm chí nhiều quy định mâu thuẫn nhau
gây khó khăn cho quá trình thực hiện dẫn đến hạn chế trong việc tuân thủ pháp luật thuế.
Thứ hai: các quy định về quản lý thuế còn phân tán tại nhiều văn bản pháp luật, có nội dung
chưa thống nhất.
Thứ ba: quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp luật của các chủ thể tham gia quản lý thuế
chưa được quy định đầy đủ, rõ ràng, ảnh hưởng đến việc thực hiện công tác quản lý thuế, công tác
phòng chống, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật thuế, chống thất thu thuế còn hạn chế.

b. Giai đoạn từ năm 2006 đến nay.
Thực hiện chiến lược cải cách hệ thống thuế được Bộ chính trị phê duyệt, cùng với việc hoàn
thiện và xây dựng mới các luật về chính sách thuế. Luật Quản lý thuế năm 2006 đã được xây dựng
nhằm để khắc phục các hạn chế trong công tác quản lý thuế đã nêu ở trên, đồng thời đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội trong hội nhập kinh tế quốc tế. Luật đã tạo khung pháp lý chung để
thực thi tất cả các luật, pháp lệnh về thuế và các khoản thu khác thuộc NSNN do các cơ quan quản
lý thuế thu. Sự ra đời của Luật Quản lý thuế đã khắc phục được tình trạng tách biệt về phương thức
quản lý giữa các loại thuế. Từ đó, tạo nền tảng cho việc áp dụng một cơ chế quản lý thuế tiên tiến,
hiện đại theo hướng tự tính, tự khai, tự nộp thuế. Đây là một cơ chế đề cao quyền và trách nhiệm
của các chủ thể chấp hành pháp luật thuế, người nộp thuế, cơ quan quản lý thuế và tổ chức, cá
nhân liên quan. Các quy định của luật tạo điều kiện cho việc cải cách thủ tục hành chính thuế, tăng
cường công cụ quản lý, nâng cao hiệu lực của hệ thống pháp luật thuế.
Luật quản lý thuế được xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác
quản lý thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế nộp đúng, đủ kịp thời tiên thuế vào NSNN
và cơ quan quản lý thuế thu đúng, thu đủ tiền thuế, quy định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của
người nộp thuế, cơ quan quản lý thuế của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc quản lý
thuế. Đồng thời luật được ban hành nhằm đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế theo hướng
đơn giản, rõ ràng, minh bạch, dễ thực hiện, tăng cường vai trò giám sát của Nhà nước, cộng đồng

xã hội trong việc thực hiện quản lý thuế.
Luật Quản lý thuế ra đời có ý nghĩa rất to lớn:
Thứ nhất: kế thừa các quy định của pháp luật hiện hành về quản lý thuế để quy định thống
nhất trong Luật quản lý thuế chung, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu cải cách quản lý thuế trong
những năm tới.
Thứ hai: tiếp cận với những kinh nghiệm quản lý thuế của các nước tiên tiến, áp dụng phù
hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Thứ ba: tạo hành lang pháp lý cho đổi mới phương thức quản lý thuế từ cơ chế chuyên quản,
người nộp thuế thụ động trong thực hiện nghĩa vụ thuế sang cơ chế người nộp thuế chủ động trong
việc xác định đúng số thuế phải nộp, thực hiện nộp thuế đúng thời hạn cũng như xác định các ưu
đãi thuế, quyền lợi về thuế của mình. Cơ quan quản lý thuế tập trung vào thực hiện tuyên truyền,
phổ biến hướng dẫn luật thuế, kiểm tra, thanh tra bảo đảm tuân thủ pháp luật thuế.

II: Thực trạng pháp luật Quản lý thuế hiện nay ở Việt Nam.
1. Thực trạng pháp luật Quản lý thuế.
1.1. Hệ thống pháp luật Quản lý thuế hiện hành ở Việt Nam.
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, mở cửa và hội nhập, hệ thống chính sách thuế đã được cải
cách và hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước, hệ thống các luật thuế đã được ban
hành tương đối đồng bộ và có phạm vi điều chỉnh toàn diện đến các hoạt động kinh tế - xã hội của
đất nước, công tác quản lý thuế đã được củng cố và tăng cường, kiện toàn cả về tổ chức bộ máy
thuế đã hình thành một hệ thống tổ chức thống nhất trong cả nước, từng bước được củng cố và
tăng cường, kiện toàn cả về tổ chức bộ máy thuế và quy trình nghiệp vụ quản lý thuế, xong tính

3


pháp lý của các quy định về quản lý thuế chưa cao, dẫn đến hạn chế trong việc tuân thủ pháp luật
thuế của các chủ thể tham gia quản lý. Nhằm khắc phục các hạn chế trong công tác quản lý thuế,
đồng thời đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, Luật quản lý
thuế ban hành và có hiệu lực từ ngày 1/7/2007.

Luật quy định việc quản lý đối với các loại thuế và các khoản thu khác thuộc NSNN do các
cơ quan quản lý thuế theo quy định của pháp luật. Như vậy, pháp luật Quản lý thuế không chỉ điều
chỉnh các quan hệ quản lý thuế của cơ quan quản lý thuế mà còn điều chỉnh các quan hệ quản lý
thuế của cơ quan Hải quan và các khoản thu do cơ quan Hải quan thực hiện.
Luật áp dụng đối với người nộp thuế được quy định tại các luật thuế, phí và lệ phí, các đại lý
thuế; cơ quan quản lý thuế, công chức thuế, công chức Hải quan, cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá
nhân có liên quan đến việc thực hiện các luật thuế.
Luật đã phản ánh, ghi nhận khá đầy đủ, toàn diện các nội dung của QLT và đặc biệt có thêm
nhiều nội dung mà trước đây các luật về chính sách thuế chưa có điều kiện quy định như: Nguyên
tắc quản lý thuế; trách nhiệm của hợp đồng tư vấn thuế xã, phường, thị trấn; trách nhiệm của cơ
quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án; trách nhiệm của mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị
- xã hội - nghề nghiệp; trách nhiệm của cơ quan thông tin báo chí trong việc quản lý thuế; hợp tác
quốc tế về quản lý thuế; xây dựng lực lượng Quản lý thuế; hiện đại hóa công tác Quản lý thuế, tổ
chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế; thông tin về người nộp thuế, gia hạn nộp thuế; xóa
nợ thuế; cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế… hoặc các vấn đề về quản lý thuế có quy
định tại các luật về chính sách thuế nhưng chưa chi tiết cụ thể hoặc được quy định ở các nghị định,
thông tư, như: Thứ tự thanh toán tiền thuế, tiền phạt, xử lý số tiền thuế nộp thừa; nộp thuế trong
thời gian giải quyết khiếu nại, trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế, các biện pháp áp dụng
trong thanh tra thuế đối với trường hợp có dấu hiệu trốn thuế, gian lận thuế, cưỡng chế thuế…
Để hỗ trợ Luật Quản lý thuế năm 2006 thực hiện một cách hiệu quả; nhiều văn bản hướng dẫn
thi hành luật đã được ban hành như:
Nghị định 106/2010/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 85/2007/NĐ-CP hướng dẫn Luật quản lý
thuế và Nghị định 100/2008/NĐ-CP hướng dẫn Luật thuế thu nhập cá nhân. Trong nghị định
này quy định về nội dung liên quan đến quản lý thuế như: khai thuế, hồ sơ khai thuế, thời hạn, địa
điểm nộp hồ sơ khai thuế, thứ tự thanh toán tiền thuế, tiền phạt, xử lý số tiền thuế nộp thừa, nộp
thuế trong thời gian giải quyết khiếu nại, khởi kiện, gia hạn nộp thuế, ấn định số tiền thuế phải nộp,
trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế trong việc giải quyết hồ sơ hoàn thuế, xây dựng và quản lý
hệ thống thông tin về người nộp thuế, trách nhiệm cung cấp thông tin của cơ quan Nhà nước, của
tổ chức, cá nhân có liên quan, thanh tra thuế, quyền khiếu nại của người nộp thuế…
Thông tư 28/2011/TT-BTC ngày 28/02/2011 thay thế Thông tư 60/2007/TT-BTC hướng

dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế, hướng dẫn thi hành Nghị định số
85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 và Nghị định số 106/2010/NĐ-CP ngày 28/10/2010 của
Chính phủ. Thông tư này áp dụng đối với việc quản lý các loại thuế theo quy định của pháp luật
về thuế, các khoản phí, lệ phí thuộc NSNN theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí, các khoản
thu khác thuộc NSNN do cơ quan thuế quản lý thu. Nội dung Quản lý thuế hướng dẫn tại Thông tư
này bao gồm: 1. Khai thuế, tính thuế; 2. Ấn định thuế; 3. Nộp thuế; 4. Ủy nhiệm thu thuế; 5. Trách
nhiệm hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế; 6. Thủ tục miễn thuế, giảm thuế, xóa nợ tiền thuế, tiền phạt;
7. Thủ tục hoàn thuế, bù trừ thuế; 8. Kiểm tra thuế, thanh tra thuế; 9. Giải quyết khiếu nại, tố cáo,
khởi kiện liên quan đến thực hiện pháp luật thuế…
Trong lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu, Bộ tài chính ban hành Thông tư 79/2009/TT-BTC do
Bộ Tài chính ban hành ngày 07/4/2009 thay thế Thông tư số 59/2007 và Thông tư số 05/2009
hướng dẫn về thủ tục Hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
và quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
+ Việc đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế, kế toán thuế được quy định trong một số
văn bản sau: Thông tư số 28/2011/TT-BTC của Bộ tài chính hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Quản lý thuế. Quyết định 443/QĐ-TCT của Tổng cục Thuế về việc ban hành Quy
trình quản lý đăng ký thuế. Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
22/6/2007 ban hành quy chế thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại cơ quan
hành chính Nhà nước ở địa phương. Trên cơ sở đó, Bộ tài chính ban hành Quyết định số
78/2007/QĐ-BTC ban hành ngày 18/9/2007 ban hành quy chế hướng dẫn, giải đáp vướng mắc về
chính sách thuế, Quản lý thuế và giải quyết các thủ tục hành chính thuế của người nộp thuế theo cơ
chế “một cửa”. Quy chế hướng dẫn, giải đáp vướng mắc về chính sách thuế, quản lý thuế và giải
quyết các thủ tục hành chính thuế của người nộp thuế theo cơ chế “một cửa” nhằm đảm bảo việc
tiếp nhận và giải quyết các yêu cầu hướng dẫn, giải đáp vướng mắc về chính sách thuế, quản lý
thuế và giải quyết các thủ tục hành chính thuế của người nộp thuế được thuận lợi nhất, đồng thời
đảm bảo giám sát được công chức thuế trong việc thực hiện giải quyết các yêu cầu, thủ tục hành
chính thuế của người nộp thuế (Điều 1). Căn cứ vào Quyết định số 78/2007/QĐ-BTC, Tổng cục
trưởng Tổng Cục thuế ra Quyết định số 422/ QĐ-TCT ngày 22/4/2008 về việc ban hành quy trình
quản lý khai thuế, nộp thuế và kế toán thuế.


4


+ Quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu, tổ chức của cơ quan thuế các cấp có
trong các văn bản như: Nghị định 118/2008/NĐ-CP ban hành ngày 27/11/2008 của Chính phủ
về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ tài chính. Theo nghị
định này, Bộ tài chính là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về: tài
chính (bao gồm: NSNN, thuế, phí, lệ phí và thu khác của NSNN, dự trữ Nhà nước, tài sản Nhà
nước, các quỹ tài chính Nhà nước, đầu tư tài chính, tài chính doanh nghiệp, tài chính hợp tác xã
và kinh tế tập thể); Hải quan, kế toán, kiểm toán độc lập; giá, chứng khoán bảo hiểm; hoạt động
dịch vụ tài chính và dịch vụ thuộc phạm vi quản lý Nhà nước của Bộ; thực hiện đại diện chủ sở
hữu phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Về cơ cấu tổ chức, Bộ tài
chính có 25 đơn vị tổ chức hành chính (gồm các Cục, Vụ, Tổng Cục chuyên môn) giúp Bộ trưởng
thực hiện chức năng quản lý nhà nước; 4 đơn vị sự nghiệp Nhà nước phục vụ quản lý Nhà nước
thuộc Bộ (Viện chiến lược và chính sách tài chính, thời báo tài chính, trường bồi dưỡng cán bộ tài
chính).
Quyết định số 76/2007/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu của
Tổng Cục Thuế trực thuộc Bộ tài chính. Theo đó, Tổng Cục Thuế được tổ chức quản lý tập trung,
thống nhất thành hệ thống ngành dọc từ Trung ương đến địa phương, theo đơn vị hành chính gồm
16 Ban chuyên môn ở Trung ương. Tổng Cục Thuế sẽ được tăng thêm quyền hạn như thẩm định,
trình cấp có thẩm quyền quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền việc gia hạn nộp thuế, xóa
tiền nợ thuế, tiền phạt, quyền ấn định thuế, xử lý vi phạm hành chính về thuế, truy thu thuế, thực
hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính để thu tiền thuế nợ, tiền phạt vi phạm
hành chính thuế. Ngoài ra, Tổng Cục Thuế có thể tiến hành giám định để xác định số thuế phải nộp
của người nộp thuế theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, lập hồ sơ đề nghị khởi tố
các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về thuế.
Quyết định của Bộ tài chính số 49/2007/QĐ-BTC ngày 15/6/2007 về việc quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Thuế trực thuộc Tổng Cục Thuế.
+ Quy định về xử lý vi phạm pháp luật về thuế có trong các văn bản:
Nghị định số 98/2007/NĐ-CP ngày 7/6/2007 của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm

pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế. Nghị định này quy định
nguyên tắc, thẩm quyền, hành vi vi phạm, mức và biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về thuế, trình
tự, thủ tục các quy định về xử lý vi phạm pháp luật về thuế theo quy định của Luật quản lý thuế và
pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Những nội dung quy định tại nghị định này áp dụng cho các
luật, pháp lệnh thuế.
Nghị định số 13/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 98/2007/NĐCP ngày 7/6/2007 của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi
hành quyết định hành chính thuế. Nghị định có hiệu lực từ ngày 1/4/2009.
Thông tư số 61/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện xử
lý vi phạm pháp luật về thuế. Thông tư hướng dẫn thực hiện: phạt theo số tiền tuyệt đối đối với
các hành vi vi phạm thủ tục thuế, mức phạt tối đa không quá 100 triệu đồng. Khi phạt tiền, mức
tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm thủ tục thuế là mức trung bình của khung tiền phạt
được quy định đối với hành vi đó, nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm xuống
nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của khung tiền phạt, nếu có tình tiết tăng nặng thì mức
tiền phạt có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tối đa của khung tiền phạt.
Trong xử phạt vi phạm hành chính và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế có các
văn bản: Pháp lệnh xử phạt hành chính 2002. Nghị định số 97/2007/NĐ-CP ngày 7/6/2007 của
Chính phủ quy định về xử lý vi phạm hành chính và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính
trong lĩnh vực Hải quan. Theo nghị định này, những hành vi vi phạm quy định quản lý Nhà nước
về Hải quan và pháp luật về thuế đối với hang hóa xuất, nhập khẩu một cách cố ý hoặc vô ý mà
không phải là tội phạm sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính. Nghị định quy định thêm về hành vi vi
phạm hành chính và hình thức xử phạt, tăng mức phạt tiền đối với các hành vi cản trở Bộ Hải quan
đang thi hành công vụ về quy định rõ cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực Hải
quan. Nghị định số 18/2009/NĐ-CP ban hành ngày 18/2/2009 của Chính phủ về sửa đổi, bổ
sung một số điều Nghị định số 97/2007/NĐ-CP ngày 7/6/2007 của Chính phủ về các hình thức
xử phạt vi phạm hành chính và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực Hải
quan. Nghị định sửa đổi, bổ sung các điều về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực Hải quan, những trường hợp không xử phạt vi phạm hành chính, xử lý các loại hành vi vi
phạm về Hải quan, quy định về trường hợp xúc phạm, đe dọa, cản trở công chức Hải quan đang thi
hành công vụ, quy định liên quan đến thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính về Hải quan. Ngoài ra,
Nghị định còn quy định hiệu lực hồi tố. Thông tư số 62/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ tài

chính hướng dẫn thi hành nghị định số 97/2007/NĐ-CP ngày 7/6/2007 của Chính phủ quy định
về xử lý vi phạm hành chính và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực Hải
quan…
Quy định về xử lý hình sự: chủ yếu là trong BLHS như: quy định về tội trốn thuế (Điều 161),
các quy định về tội phạm về chức vụ, tội phạm có liên quan đến lĩnh vực thuế hoặc người thu thuế

5


như chống người thi hành công vụ…
Những văn bản pháp luật ở trên có tác dụng luật hóa trách nhiệm của các cơ quan thuế, người
nộp thuế, tổ chức, cá nhân có liên quan nhằm nâng cao trách nhiệm pháp luật của các ngành, các
cấp và cộng đồng xã hội trong việc thi hành pháp luật thuế. Luật hóa các thủ tục hành chính về
thuế, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính… một cách cụ thể, đầy đủ, rõ ràng để nâng cao tính pháp
lý và đảm bảo sự thống nhất trong tổ chức thực hiện. Bên cạnh đó, những văn bản này còn nhằm
mục đích thúc đẩy việc thực hiện tốt hơn cơ chế quản lý thuế hiện đại – cơ chế tự kê khai, tự nộp
thuế. Đây là phương thức quản lý thu thuế tiên tiến, hiện đại đnag được hầu hết các nước trên thế
giới áp dụng. Theo cơ chế này thì các cá nhân, tổ chức nộp thuế căn cứ vào kết quả sản xuất, kinh
doanh trong kỳ kê khai của mình và căn cứ vào các quy định của pháp luật về nghĩa vụ thuế tự tính
ra số thuế phải nộp vào NSNN, từ đó tự kê khai và tự thực hiện nghĩa vụ nộp số thuế đã kê khai
vào NSNN theo đúng thời hạn mà pháp luật quy định.

1.2. Nội dung cơ bản của Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành luật.
Qua nghiên cứu Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành hiện hành, có thể đánh
giá tổng quan, về hình thức, Luật Quản lý thuế Việt Nam khá hoàn chỉnh, thống nhất. Về nội dung,
phù hợp với Luật quản lý thuế mẫu của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) và tương thích với Luật Quản lý
thuế của các nước cũng như thông lệ quốc tế trong việc quản lý thuê. Các nội dung về Quản lý thuế
được quy định khá đầy đủ, chi tiết trong pháp Luật Quản lý thuế, mà cụ thể là trong Luật Quản lý
thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong đó, Luật Quản lý thuế quy định các vấn đề chung
nhất, bao quát và toàn diện nhất, cụ thể như sau:

Thứ nhất: Luật Quản lý thuế quy định đầy đủ các nội dung của công tác quản lý thuế, có
phạm vi điều chỉnh thống nhất đối với toàn bộ các loại thuế (thuế nội địa và thuế đối với hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu), các khoản thu khác thuộc NSNN do cơ quan thuế quản lý thu theo quy
định của pháp luật. Các quy định của Luật đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính Nhà nước thông
qua các thủ tục hành chính thuế được quy định đơn giản, rõ ràng, minh bạch đã đảm bảo tính pháp
lý cho việc thực hiện cơ chế Quản lý thuế mới, cơ chế tự tính, tự khai, tự nộp thuế và tự chịu trách
nhiệm trước pháp luật của người nộp thuế. Cơ quan thuế chuyển sang thực hiện chức năng tuyên
truyền, hỗ trợ người nộp thuế, kiểm tra thuế, phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm nâng cao trách
nhiệm và đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người nộp thuế, tạo điều kiện cho người nộp thuế chấp
hành tốt pháp luật thuế.
a. Trong công tác Quản lý thuế.
Luật Quản lý thuế đã quy định đầy đủ các nội dung trong công tác Quản lý thuế. Từ đó tạo
thuận lợi cho người nộp thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế, từ việc đăng ký thuế, khai thuế,
nộp thuế, trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế.
Về thủ tục đăng ký thuế: Luật quy định cụ thể về đối tượng phải đăng ký nộp thuế, thời hạn
đăng ký thuế, hồ sơ đăng ký thuế, địa chỉ nộp hồ sơ đăng ký thuế, tiếp nhận hồ sơ đăng ký thuế,
cấp giấy chứng nhận đăng ký thuế, thay đổi thông tin đăng ký thuế, sử dụng mã số thuế của người
nộp thuế và chấm dứt hiệu lực mã số của người nộp thuế.
Về khai thuế: Luật quy định khai thuế, hồ sơ khai thuế, thời hạn nộp hồ sơ khai thuế, gia hạn
nộp hồ sơ khai thuế, khai bổ sung hồ sơ khai thuế, tiếp nhận và giải quyết hồ sơ khai thuế. Để phù
hợp với thực tiễn, trong một số trường hợp do nguyên nhân bất khả kháng, Luật đã quy định người
nộp thuế được gia hạn nộp hồ sơ khai thuế mà không bị xử lý vi phạm hành chính.
Về nộp thuế: Luật quy định thời hạn nộp thuế, đồng thời nộp thuế, địa điểm và hình thức nộp
thuế, thứ tự thanh toán tiền thuế, xác định ngày nộp thuế xử lý số tiền nộp thừa, nộp thuế trong thời
gian khiếu nại, khởi kiện, gia hạn nộp thuế. Luật Quản lý thuế đã quy định người nộp thuế được
gia hạn nộp tiền thuế mà không bị xử phạt về hành vi chậm nộp. Trong thực tiễn, một số trường
hợp người nộp thuế gặp phải khó khăn bất khả kháng, không có khả năng nộp thuế đúng hạn,
nhưng chưa có quy định được gia hạn nộp thuế và được miễn xử phạt trong thời gian gia hạn nộp
thuế, dẫn đến họ có số tiền phạt chậm nộp lớn hơn cả số thuế phải nộp. Trong khi đó, cơ quan thuế
không có thẩm quyền xóa nợ tiền phạt, dẫn đến số nợ thuế lớn, không có khả năng thu.

Về ấn định thuế: Luật quy định nguyên tắc ấn định thuế, ấn định thuế đối với người nộp thuế
vi phạm pháp luật về thuế, ấn định thuế đối với hộ kinh doanh theo phương pháp khoán thuế, ấn
định thuế đối với trường hợp xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, trách nhiệm của cơ quan Quản lý
thuế và của người nộp thuế trong việc ấn định thuế. Luật Quản lý thuế đã quy định cơ quan Quản
lý thuế ấn định số thuế phải nộp hoặc ấn định từng yếu tố liên quan đến việc xác định số thuế phải
nộp. Quy định này đã giải quyết được vướng mắc trong việc ấn định thuế hiện nay là ấn định toàn
bộ số thuế phải nộp, trong khi người nộp thuế vô tình hoặc có hành vi cố ý sử dụng hoặc một số
chứng từ không hợp pháp.
Theo quy định của Luật, người nộp thuế có trách nhiệm thực hiện các nội dung quy định để
thực hiện nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật thuế. Cơ quan thuế thực hiện vai trò hỗ
trợ, giúp người nộp thuế hiểu được chính sách, cách kê khai, hoàn thành thủ tục. Đồng thời, cơ
quan thuế có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ, giải quyết thủ tục đúng hạn và thông báo cho người nộp
thuế hoàn chỉnh hồ sơ trong trường hợp hồ sơ hoặc thông tin kê khai chưa đầy đủ. Đặc biệt quan

6


tâm công tác hỗ trợ người nộp thuế. Theo quy định của Luật Quản lý thuế thì cơ quan thuế tập
trung hỗ trợ doanh nghiệp theo tám nội dung Quản lý thuế (Điều 3 Luật Quản lý thuế).
b. Trong xây dựng hệ thống thông tin về người nộp thuế.
Thông tin về người nộp thuế là yêu cầu quan trọng của công tác Quản lý thuế hiện đại, đảm
bảo cơ quan Quản lý thuế theo dõi, tổng hợp, phân tích, đánh giá, mức độ tuân thủ pháp luật thuế
của người nộp thuế, Trên cơ sở đó, cơ quan Quản lý thuế tập trung vào quản lý các đối tượng có
nhiều khả năng vi phạm pháp luật thuế, tránh thất thu ngân sách, đồng thời giảm phiền hà cho đối
tượng chấp hành tốt pháp luật thuế.
Hệ thống thông tin về người nộp thuế được xây dựng từ các nguồn:
Thông tin từ hồ sơ thuế do người nộp thuế kê khai, gửi cơ quan Quản lý thuế, thông tin từ các
cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan đến người nộp thuế. Trách nhiệm cung cấp thông
tin cho cơ quan thuế của các cơ quan quản lý Nhà nước được quy định thành nhóm:
+ Nhóm 1: Cung cấp thông tin tự động theo phát sinh sự kiện liên quan đến người nộp thuế.

Cơ quan cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cơ quan cấp giấy phép thành lập và hoạt động
có trách nhiệm cung cấp thông tin về nội dung giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép
thành lập hoạt động hoặc giấy chứng nhận thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh, quyết định sát
nhập, chia tách, giải thể, phá sản của tổ chức, cá nhân nộp thuế trong thời hạn 7 ngày làm việc kể
từ ngày phát sinh các sự kiện trên và các thông tin khác theo đề nghị của cơ quan quản lý thuế; kho
bạc Nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin cho cơ quan Quản lý thuế về số tiền đã nộp, đã
hoàn của người nộp thuế.
+ Nhóm 2: Cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan Quản lý thuế; ngân hàng, tổ chức tín
dụng có trách nhiệm cung cấp nội dung giao dịch qua tài khoản của người nộp thuế trong thời hạn
10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan quản lý thuế. Cơ quan quản
lý Nhà nước về nhà, đất có trách nhiệm cung cấp thông tin về hiện trạng sử dụng đất, sở hữu nhà
của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân. Cơ quan công an có trách nhiệm cung cấp, trao đổi thông tin liên
quan đến phòng chống tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và an ninh quốc gia liên quan đến quản
lý thuế, cung cấp thông tin về cá nhân xuất cảnh, nhập cảnh và thông tin về đăng ký, quản lý
phương tiện giao thông. Cơ quan chi trả thu nhập có trách nhiệm cung cấp thông tin về chi trả thu
nhâp và số thuế khấu trừ của người nộp thuế theo yêu cầu của cơ quan quản lý thuế. Cơ quan quản
lý thương mại có trách nhiệm cung cấp thông tin về về chính sách quản lý hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu, quá cảnh của Việt Nam và nước ngoài, thông tin về quản lý thị trường.
Cơ quan Quản lý thuế, công chức Quản lý thuế, người đã là công chức Quản lý thuế, tổ chức
kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế phải giữ bí mật thông tin của người nộp thuế theo quy định
của pháp luật, tuy nhiên, cơ quan Quản lý thuế vẫn có thể được công khai thông tin vi phạm pháp
luật về thuế của người nộp thuế trong một số trường hợp.
c. Thực hiện quy định của Luật Quản lý thuế, cơ quan quản lý thuế phải tăng cường kiểm tra giám
sát việc kê khai thuế, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật thuế.
Kiểm tra thuế được xác định là công việc thường xuyên mang tính nghiệp vụ được thực hiện
ngay tại trụ sở cơ quan thuế dựa trên hồ sơ khai thuế của người nộp thuế hoặc được thực hiện tại
trụ sở của người nộp thuế khi mà người nộp thuế không giải trình được các số liệu chưa hợp lý
trong hồ sơ khai thuế.
Thanh tra thuế được thực hiện trong các trường hợp: Có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế;
doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh đa dạng, phạm vi kinh doanh rộng thì thanh tra định kỳ

một năm không quá một lần; để giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc theo yêu cầu của thủ trưởng cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền.
d. Cơ quan Quản lý thuế được giao quyền sử dụng một số biện pháp để đảm bảo thu đủ tiền thuế
cho NSNN.
Pháp luật quy định có 7 biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế. Trong đó,
biện pháp thu tiền, tài sản của đối tượng bị cưỡng chế do tổ chức, cá nhân khác đang nắm giữ là
biện pháp mạnh để xử lý đối với trường hợp đối tượng cưỡng chế thuế tẩu tán tài sản.
Về trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế thi hành định hành chính thuế: Thủ
trưởng cơ quan quản lý thuế thi hành quyết định cưỡng chế thuế và có nhiệm vụ tổ chức thi hành
quyết định cưỡng chế. UBND xã, phường, thị trấn nơi có đối tượng thuộc diện cưỡng chế thi hành
quyết định hành chính thuế có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan chức năng cùng với cơ quan quản
lý thuế thực hiện việc cưỡng chế thi hành quyết định hành chính. Lực lượng cảnh sát nhân dân có
trách nhiệm đảm bảo trật tự, an toàn, hỗ trợ cơ quan quản lý thuế trong quá trình cưỡng chế thi
hành quyết định hành chính thuế khi có yêu cầu của người ban hành quyết định cưỡng chế thi hành
quyết định hành chính thuế.
Thứ hai: Xác định đầy đủ trách nhiệm, quyền hạn của các chủ thể tham gia quản lý thuế, nhất
là các tổ chức, cá nhân có liên quan.
Xuất phát từ quan điểm tiền thuế phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội. Do đó, mọi tổ chức,
cá nhân trong xã hội phải có trách nhiệm tham gia quản lý thuế:
a. Luật Quản lý thuế quy định quyền hạn và trách nhiệm của người nộp thuế, trong đó bổ sun một

7


số quyền cho người nộp thuế.
Được hướng dẫn thực hiện pháp luật thuế; được cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến việc
thực hiện nghĩa vụ thuế.
Yêu cầu cơ quan quản lý thuế giải thích việc tính thuế, ấn định thuế; yêu cầu cơ quan có thảm
quyền giám định chất lượng, chủng loại hàng hóa xuất nhập khẩu.
Yêu cầu cơ quan quản lý thuế giữ bí mật thông tin. Ký hợp đồng với tổ chức kinh doanh

dịch vụ làm thủ tục về thuế thay mặt mình làm các thủ tục về thuế.
b. Luật Quản lý thuế quy định đầy đủ trách nhiệm và quyền của cơ quan Quản lý thuế. Trong đó:
Nhấn mạnh chức năng tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế, công khai minh bạch các thủ tục
và thời hạn giải quyết hồ sơ thuế, gắn trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý
thuế trong việc tiếp nhận và giải quyết hồ sơ.
Quy định cụ thể quy trình tiếp nhận, xử lý hồ sơ thuế. Trong trường hợp hồ sơ không hợp lệ
thì trong thời hạn 3 ngày phải thông báo cho người nộp thuế biết để hoàn thiện hồ sơ. Quy trình
tiếp nhận, xử lý hồ sơ theo cơ chế một cửa, ấn định rõ thời hạn giải quyết từng loại hồ sơ thuế.
Trách nhiệm trong việc xây dựng hệ thống thông tin về người nộp thuế làm căn cứ cho việc
phân loại, đánh giá mức độ tuân thủ trên cơ sở phân tích tập trung vào đối tượng có nhiều khả năng
vi phạm. Đồng thời cơ quan thuế có trách nhiệm bảo mật thông tin cho người nộp thuế.
Quy định trách nhiệm kiểm tra thuế, thanh tra thuế; cưỡng chế nộp thuế; xử phạt hành chính
đối với hành vi vi phạm pháp luật thuế.
Quy định cơ quan quản lý thuế được quyền ký kết hợp đồng ủy nhiệm thu thuế với tổ chức,
cá nhân để thu một số loại thuế, khoản thu. Bên được ủy nhiệm thu thuế thông qua hợp đồng được
hưởng kinh phí ủy nhiệm thu trích từ kinh phí khoán chi của cơ quan quản lý thuế.
c. Luật quản lý thuế quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia công tác
quản lý thuế:
HĐND, UBND các cấp có trách nhiệm chỉ đạo, giám sát việc chấp hành các Luật thuế.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có trách nhiệm vận động nhân dân nghiêm chỉnh thi hành pháp
luật thuế của người nộp thuế, phê phán các hành vi vi phạm pháp luật thuế.
Cơ quan thông tin, báo chí có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật thuế
và phản ánh, phê phán các hành vi vi phạm pháp luật thuế.
Các cơ quan quản lý nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ quản lý ngành có trách nhiệm cung
cấp thông tin liên quan đến người nộp thuế cho cơ quan quản lý thuế hoặc phối hợp với cơ quan
quản lý thuế thực hiện cưỡng chế thuế, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật thuế.
Hội đồng tư vấn thuế xã, phường, thị trấn do Chủ tịch UBND quận, huyện, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh quyết định thành lập theo đề nghị của Chi cục trưởng Chi Cục Thuế. Hội đồng tư vấn
thuế xã, phường, thị trấn có nhiệm vụ tư vấn cho cơ quan thuế về mức thuế của các hộ, gia đình, cá
nhân kinh doanh trên địa bàn, bảo đảm đúng pháp luật, dân chủ, công khai, công bằng, hợp lý.

Thứ ba: Cải cách thủ tục hành chính thuế được quy định đơn giản, rõ ràng, minh bạch, nhằm
nâng cao trách nhiệm, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người nộp thuế, tạo điều kiện cho
người nộp thuế chấp hành tốt pháp luật thuế.
a. Quy định rõ, công khai, minh bạch các loại giấy tờ của từng loại hồ sơ thuế: hồ sơ khai
thuế, hồ sơ miễn thuế, hồ sơ hoàn thuế… để người nộp thuế tự xác định được trách nhiệm của
mình và tránh tùy tiện của công chức thuế, công chức Hải quan trong khi thi hành công vụ. Đồng
thời ban hành hệ thống mẫu biểu áp dụng chung cho người nộp thuế và cơ quan thu thuế. Trong
đó, có hướng dẫn cụ thể cách khai các chỉ tiêu trong mẫu biểu để người nộp thuế dễ thực hiện.
b. Thống nhất thời hạn nộp hồ sơ khai thuế phù hợp với từng loại thuế khai theo tháng, theo
năm, theo từng lần phát sinh để người nộp thuế dễ thực hiện. Sửa đổi một số thời hạn, phương
thức khai thuế của một số loại thuế cho phù hợp với thực tế hơn.
c. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của người nộp thuế trong quá trình tuân thủ pháp luật
thuế. Khi phát hiện hồ sơ khai thuế có sai sót, người nộp thuế được khai bổ sung khai thuế và
không bị phạt vi phạm hành chính về các lỗi sai sót này.
d. Bổ sung hình thức khai thuế điện tử: Chương trình tiếp nhận hồ sơ khai thuế điện tử sẽ tự
động kiểm tra, soát xét tính đầy đủ, hợp lý của các thông tin khai trong hồ sơ thuế. Người nộp thuế
cũng sẽ biết ngay được các lỗi kê khai để hoàn chỉnh, bổ sung hồ sơ kịp thời theo quy định, tránh
được các lỗi sai sót không cần thiết. Đưa hình thức khai thuế điện tử vào trong luật tạo điều kiện
pháp lý cao trong hình thức khai này, điều đặc biệt hữu ích với các doanh nghiệp giảm được chi
phí đi lại và thời gian lưu chuyển hồ sơ thuế.
e. Thời hạn nộp thuế được quy định gắn với thời hạn khai thuế vừa bảo đảm phù hợp với tính
chất của từng loại thuế, vừa tạo thuận lợi cho người nộp thuế dễ nhớ, dễ thực hiện và không phải
làm các thủ tục hành chính thuế rải rác nhiều ngày trong tháng, giảm phiền hà cho người nộp
thuế.
f. Đối với số tiền nộp thừa hoặc số tiền thuế thuộc diện được hoàn, người nộp thuế được
quyền lựa chọn hoặc yêu cầu cơ quan thuế làm thủ tục hoàn trả ngay, hoặc để thanh toán cho số

8



thuế phải nộp của lần nộp thuế tiếp theo. So với quy định hiện hành, chỉ có thuế giá trị gia tăng thì
được hoàn ngay, còn các loại thuế khác phải để nộp cho kỳ tiếp theo và chỉ được hoàn trả khi
người nộp thuế kết thúc hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế thì quy định này linh hoạt và tôn trọng
quyền lợi của người nộp thuế hơn.
g. Luật Quản lý thuế còn quy định một số quyền của người nộp thuế như: yêu cầu cơ quan
thuế hướng dẫn, giải thích về chính sách thuế, thủ tục hành chính thuế tự giác thực hiện nghĩa vụ
thuế của mình; yêu cầu cơ quan thuế thực hiện đúng việc miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế, bồi
thường thiệt hại về thuế theo quy định của pháp luật để đảm bảo lợi ích hợp pháp của mình; yêu
cầu cơ quan thuế giữ bí mật thông tin do mình và các tổ chức, cá nhân khác cung cấp phục vụ cho
việc quản lý thuế.
Thứ tư: các quy định của Luật Quản lý thuế phù hợp với thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu
hội nhập quốc tế của đất nước.
a. Luật Quản lý thuế mở rộng các hình thức giao dịch làm thủ tục về thuế như khai thuế điện
tử, nộp tiền thuế theo hình thức chuyển khoản… tạo điều kiện cho người nộp thuế có thể hoàn
thành nghĩa vụ với nhà nước mọi lúc, mọi nơi, không bị bó hẹp trong giới hạn giờ làm việc hành
chính của cơ quan thuế. Áp dụng cơ chế tự tính, tự khai, tự nộp thuế đối với hầu hết các sắc thuế
và đại bộ phận người nộp thuế.
b. Về kiểm tra, thanh tra thuế dựa trên cơ sở phân tích thông tin về người nộp thuế để lựa
chọn đối tượng kiểm tra thuế, thanh tra thuế.
c. Luật quy định khung pháp lý cho hoạt động của tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về
thuế… Tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế phải là doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ có
điều kiện, được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp, có ngành nghề dịch
vụ làm thủ tục về thuế. Tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế được thay mặt người nộp
thuế thực hiện một trong các thủ tục: Khai thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, lập hồ sơ đề nghị số
tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm, số tiền thuế được hoàn theo quy định của luật này và
pháp luật khác có liên quan. Tổ chức này chịu trách nhiệm với người nộp thuế theo nội dung thỏa
thuận trong hợp đồng dịch vụ theo pháp luật dân sự. Tuy nhiên, trong quá trình cung ứng dịch vụ,
tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế chịu trách nhiệm về việc làm sai của mình với
người nộp thuế theo quy định của Pháp luật dân sự, người nộp thuế vẫn phải chịu trách nhiệm với
Nhà nước về nghĩa vụ thuế của người nộp thuế.

Quy định này thể hiện sự cam kết của Việt Nam trong việc mở cửa thị trường kinh doanh
dịch vụ khi vào WTO, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cơ sở kinh doanh, người nộp thuế thực
hiện tốt nghĩa vụ thuế.
d. Luật quản lý thuế quy định về trách nhiệm của cơ quan thuế đối với người nộp thuế. Nếu
cơ quan thuế làm chậm các thủ tục, dẫn đến thiệt hại cho người nộp thuế thì phải đền bù thiệt hại
cho người nộp thuế. Hoặc nếu công chức thuế tiết lộ các thông tin của người nộp thuế (vi phạm
quy định về bảo mật thông tin) thì phải chịu trách nhiệm về thiệt hại gây ra cho người nộp thuế.
Luật QLT quy định và đặt ra yêu cầu hiện đại hóa toàn diện công tác quản lý thuế, cả về
phương pháp quản lý, thủ tục hành chính, bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ và cả công nghệ quản lý.

1.3. Những vướng mắc còn tồn tại trong pháp luật Quản lý thuế.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, pháp luật Quản lý thuế ở nước ta còn tồn tại một số hạn
chế như sau:
Thứ nhất: về nguyên tắc thiết kế của Luật quản lý thuế, những người thiết kế đã sử dụng kết
hợp đan xen nhiều nguyên tắc nhưng chủ yếu theo nguyên tắc trình tự thời gian, trong khi đó bộ
máy quản lý thuế được thiết kế theo mô hình chức năng. Tổ chức quản lý thuế theo chức năng là
mô hình tổ chức lấy chức năng quản lý thuế làm nguyên tắc bao trùm. Theo đó, cơ cấu gồm các bộ
phận, mỗi bộ phận thực hiện một chức năng quản lý thuế cơ bản đối với hầu hết các loại thuế và
đối với tất cả các đối tượng nộp thuế theo thẩm quyền được phân công. Các chức năng quản lý
thuế bao gồm: Tuyên truyền và hỗ trợ; xử lý tờ khai; quản lý nợ và cưỡng chế thuế; thanh tra, kiểm
tra thuế… Điều này sẽ dẫn đến những điểm chưa thực sự tương thích giữa Luật quản lý thuế với
thực tiễn vận hành của bộ máy quản lý thuế trong việc tổ chức thực hiện các luật thuế, đặc biệt, khi
áp dụng cơ chế quản lý thuế theo mô hình “một cửa”. Bởi thực tế cho thấy, việc tổ chức bộ máy
ngành thuế theo chức năng dẫn đến bất kỳ bộ phận nào cũng có thể yêu cầu doanh nghiệp trực tiếp
làm việc, giải trình khi doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế cảu mình. Song khi cần hướng dẫn
để được giải quyết các nghiệp vụ cụ thể phát sinh, doanh nghiệp không biết liên hệ đến bộ phận
nào và thuộc thẩm quyền trách nhiệm của ai. Vì vậy, doanh nghiệp gặp những khó khăn nhất định
trong quá trình thực thi pháp luật thuế theo luật.
Thứ hai: Luật Quản lý thuế hiện nay không chỉ quy định những vấn đề chung về tổ chức
thực hiện các luật thuế, mà còn quy định cả những nội dung tổ chức thực hiện riêng của từng luật

thuế (những vấn đề quản lý có tính chất đặc thù của từng sắc thuế) và số lượng của các điều luật
quy định các nội dung quản lý đặc thù chiếm tỷ lệ khá lớn, đặc biệt là các quy định quản lý về thuế
xuất, nhập khẩu. Giả sử rằng, khi các luật về chính sách thuế được tiếp tục ban hành và đó là xu thế
tất yếu, đương nhiên kéo theo sự thay đổi, bổ sung của Luật Quản lý thuế và theo đó, vô hình

9


chung, đã phá vỡ tính ổn định của Luật Quản lý thuế. Vì vậy, các vấn đề quản lý có tính chất đặc
thù của từng sắc thuế nên quy định trong các luật về chính sách thuế. Điều này sẽ có hiệu ứng tốt
hơn trong việc đảm bảo thực hiện các chính sách thuế của các chủ thể có nghĩa vụ thuế.
Thứ ba: Luật QLT vẫn còn giải quyết một số trường hợp cho các luật về chính sách thuế.
Tại Điều 65, Luật Quản lý thuế quy định các trường hợp được xóa nợ tiền thuế, tiền phạt:
“1. Doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản đã thực hiện các khoản thanh toán theo quy định của
pháp luật phá sản mà không còn tài sản để nộp tiền thuế, tiền phạt.
2. Cá nhân được pháp luật coi là đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự mà không có
tài sản để nộp tiền thuế, tiền phạt còn nợ” thuộc phạm vi điều chỉnh của luật về chính sách thuế.
Thứ tư: Luật Quản lý thuế còn có các nội dung lấn sang phạm vi điều chỉnh của luật về chính
sách thuế.
Khoản 3, khoản 4 Điều 42 của Luật Quản lý thuế quy định thời hạn nộp thuế đối với hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu và điều kiện để được áp dụng thời hạn nộp thuế xuất khẩu, nhập khẩu.
“3. Thời hạn nộp thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu được quy định như sau:
a) Đối với hàng hoá xuất khẩu là ba mươi ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai Hải quan;
b) Đối với hàng hoá nhập khẩu là hàng tiêu dùng phải nộp xong thuế trước khi nhận hàng; trường
hợp có bảo lãnh về số tiền thuế phải nộp thì thời hạn nộp thuế không quá ba mươi ngày, kể từ
ngày đăng ký tờ khai Hải quan;
c) Đối với hàng hóa nhập khẩu là vật tư, nguyên liệu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu là hai trăm
bảy lăm ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai Hải quan; trường hợp đặc biệt thì thời hạn nộp thuế có
thể dài hơn hai trăm bảy lăm ngày phù hợp với chu kỳ sản xuất, dự trữ vật tư, nguyên liệu của
doanh nghiệp theo quy định của Chính phủ;

d) Đối với hàng hoá kinh doanh theo phương thức tạm nhập, tái xuất hoặc tạm xuất, tái nhập là
mười lăm ngày, kể từ ngày hết thời hạn tạm nhập, tái xuất hoặc tạm xuất, tái nhập;
đ) Đối với hàng hoá khác là ba mươi ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai Hải quan;…
4. Để được áp dụng thời hạn nộp thuế theo quy định tại các điểm c, d và đ khoản 3 Điều này,
người nộp thuế phải đáp ứng một trong hai điều kiện sau đây:
a) Có hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trong thời gian ít nhất là ba trăm sáu lăm ngày tính đến
ngày đăng ký tờ khai Hải quan mà không có hành vi gian lận thương mại, trốn thuế, không nợ tiền
thuế quá hạn, tiền phạt, chấp hành tốt chế độ báo cáo tài chính theo quy định của pháp luật;
b) Được tổ chức tín dụng hoặc tổ chức khác hoạt động theo quy định của Luật các tổ chức tín
dụng bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.
Trường hợp không đáp ứng một trong hai điều kiện trên thì người nộp thuế phải nộp thuế
trước khi nhận hàng”.
Thứ năm: thiếu các quy định về nguyên tắc tổ chức hoạt động và cơ cấu tổ chức bộ máy QLT
và nguyên tắc xử lý mối quan hệ giữa các cơ quan, đặc biệt trong xu thế quản lý thuế hiện đại.
Thứ sáu: kỹ thuật lập pháp, lập quy trong Luật Quản lý thuế chưa đảm bảo tính nhất quán, có
điều luật quy định ở dạng nguyên tắc, có diều luật quy định quá chi tiết, cụ thể mà đáng lẽ ra
những nội dung đó thuộc phạm vi điều chỉnh của các văn bản dưới luật; mặt khác còn khá nhiều
quy định trong Luật quản lý thuế được chuyển dịch mang tính chất cơ học từ các Luật thuế, Luật
Hải quan. Ví dụ: Điểm a, điểm b, điểm c Khoản 4, Điều 32 Luật Quản lý thuế quy định về thời hạn
nộp hồ sơ khai thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Thứ bảy: Luật Quản lý thuế chưa xác định rõ cơ chế bảo đảm thực hiện, vì vậy đã phần nào
hạn chế tính khả thi của các quy định trong Luật Quản lý thuế và chính điều này chưa thực sự
khuyến khích tính tuân thủ pháp luật của chủ thể có nghĩa vụ thuế.
Ví dụ: Tại Điều 53 Luật Quản lý thuế quy định trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế
trong trường hợp xuất cảnh “Người Việt Nam xuất cảnh để định cư ở nước ngoài, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài, người nước ngoài trước khi xuất cảnh từ Việt Nam phải hoàn thành nghĩa
vụ nộp thuế. Cơ quan quản lý xuất nhập cảnh có trách nhiệm dừng việc xuất cảnh của cá nhân
trong trường hợp chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế theo thông báo của cơ quan quản lý thuế”.
Với quy định này, nếu không xác định rõ cơ chế phối kết hợp giữa cơ quan quản lý thuế và cơ
quan công an thì chắc chắn điều luật này sẽ không có tính khả thi, bởi trên thực tế hiện nay, Cục

Thuế địa phương không thể biết đối tượng nào nợ thuế đnag chuẩn bị xuất cảnh để thông báo cho
cơ quan quản lý xuất nhập cảnh và ngược lại.
Thứ tám: một số quy định của pháp luật Quản lý thuế còn thiếu sót, hạn chế, gây khó khăn
cho quá trình thực hiện, như là:
Trong việc khai báo thuế, Luật QLT đã quy định về khai bổ sung, nhưng các văn bản hướng
dẫn chưa quy định rõ phạm vi khai bổ sung nên gây khó khăn cho quá trình thực hiện đối với các
trường hợp được miễn kiểm tra sau đó Doanh nghiệp tới khai bổ sung. Vì trên thực tế, doanh
nghiệp khai bổ sung sau 60 ngày đăng ký tờ khai nên cơ quan Hải quan chưa cho khai bổ sung.
Về nộp thuế, Luật QLT quy định nhiều thời hạn nộp thuế khác nhau theo các tiêu chí khác
nhau tùy theo mục đích nhập khẩu hàng hóa để sản xuất xuất khẩu hay tiêu dung, hay tạm nhập tái
xuất. Quy định này tuy một mặt đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tế trong điều kiện các Doanh

10


nghiệp còn thiếu vốn nhưng quá phức tạp, cơ quan Hải quan phải phân bổ nguồn lực lớn cho công
tác đôn đốc, cưỡng chế thu nợ thuế, nợ phạt…
Chưa có quy định cụ thể thời hạn nộp thuế hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng miễn, xét
miễn thuế, Ví dụ: hàng nhập khẩu phục vụ an ninh, quốc phòng, nghiên cứu khoa học, giáo dục
đào tạo. Hoặc chưa quy định cụ thể thời hạn nộp thuế của hàng không có hợp đồng mua bán, hàng
cư dân biên giới, khai bổ sung.
Hiện nay chưa có quy chế chỉ đạo, phối hợp thống nhất giữa các Bộ, ngành trong công tác
thu hồi nợ thuế, hỗ trợ cơ quan thuế trong việc cưỡng chế để thu hồi nợ, cũng như chưa có quy
trình cưỡng chế nợ đọng thuế; hay để cưỡng chế, cơ quan thuế phải tiến hành nhiều thủ tục qua các
bước rất phức tạp và không tiết kiệm. Luật quản lý thuế quy định có 7 biện pháp cưỡng chế, nhưng
tại các nghị định và thông tư, thì lại hướng dẫn khác, gây khó khăn cho cán bộ thuế.
Trong công tác thanh tra, kiểm tra chưa có quy trình cụ thể hướng dẫn theo quy định của
Luật quản lý thuế, nên quy trình này vẫn đang thực hiện theo Quyết định 1166/QĐ-TCT ngày
30/5/2005 của Tổng Cục Thuế, trong đó có nhiều điểm chưa phù hợp với quy định của Luật. Hiện
tại, các phòng thanh tra thuế của Cục Thuế vừa thực hiện nhiệm vụ thanh tra theo Quyết định

728/QĐ-TCT của Tổng Cục Thuế, vừa phải thực hiện công tác kiểm tra, mà lẽ ra nhiệm vụ này là
của Phòng Kiểm tra Thuế. Do đó, chức năng kiểm tra thuế bị chồng chéo, trong khi chức năng
thanh tra thuế không có điều kiện phát huy vai trò của một đơn vị thanh tra.
Về mặt chế tài, đến nay vẫn còn thiếu những văn bản hướng dẫn Luật chi tiết, hoặc đã có
văn bản hướng dẫn nhưng lại không đầy đủ, không phù hợp thực tế. Ngoài ra, một số quy định
trong Luật quản lý thuế chưa đảm bảo tính tương thích với các luật thủ tục khác trong lĩnh vực
hành chính, kinh tế, dân sự, thương mại, hình sự…

2. Thực trạng thi hành pháp luật Quản lý thuế.
2.1. Hiệu quả đạt được trong công tác thi hành pháp luật thuế nói chung và pháp luật Quản
lý thuế nói riêng.
Luật Quản lý thuế được triển khai đồng bộ và thống nhất về các mặt: từ ban hành chính sách,
cơ chế, tổ chức bộ máy quản lý thuế tới hướng dẫn thi hành từ cơ sở. Có thể nói về cơ bản Luật đã
được thi hành tốt từ ngày 1/7/2007. Đây là mốc quan trọng đánh dấu sự chuyển đổi trong cơ chế
quản lý và tổ chức bộ máy ngành thuế. Xác định rõ phạm vi điều chỉnh của các luật thuế với Luật
quản lý thuế. Nguyên nhân đạt được kết quả này là do:
Một là: Sự chỉ đạo của Chính phủ, phối hợp chặt chẽ của các ngành, các địa phương trong
quá trình xây dựng văn bản pháp luật và tuyên truyền, tổ chức triển khai thực hiện luật.
Hai là: Bộ tài chính đã chỉ đạo các cơ quan chức năng cảu Bộ như Tổng Cục Thuế, Tổng cục
Hải quan phối hợp cùng các Vụ đã chuẩn bị tốt và có biện pháp, giải pháp cụ thể trong việc triển
khai thực hiện.

a. Kết quả từ phía cơ quan Quản lý thuế.
Công tác quản lý thuế đã hình thành một tổ chức thống nhất trong cả nước và từng bước được
củng cố, tăng cường, kiện toàn cả về tổ chức bộ máy của các phòng thuốc Tổng Cục Thuế, Văn
phòng Cục Thuế và Chi Cục Thuế trực thuộc Cục Thuế (các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương)
được chuyển đổi, sắp xếp lại theo mô hình chức năng, đáp ứng yêu cầu quản lý trong thời kỳ mới.
Công tác chỉ đạo, điều hành, phối hợp thực hiện nhiệm vụ chung của lãnh đạo Tổng Cục
Thuế, các Cục Thuế, các Phòng, Chi Cục Thuế có tính trọng tâm, trọng điểm, tập trung chủ yếu
vào 4 chức năng chính là tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế, đăng ký kê khai và kế toán thuế,

kiểm tra, thanh tra, quản lý nợ và xử lý nợ đọng thuế.
Công chức, viên chức được phân loại, đánh giá, sắp xếp, đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu,
chuyên nghiệp theo chức năng quản lý. Đặc biệt, nhận thức cũng như trình độ chuyên môn của mỗi
công chức, viên chức thuế được nâng cao hơn để đảm nhận tốt nhiệm vụ được giao.
Công tác tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế được đặt lên hàng đầu. Trong nỗ lực nâng cao
hiệu quả hỗ trợ người nộp thuế, cơ quan thuế các cấp đã biện soạn tài liệu, kịp thời cung cấp thông
tin, xây dựng các tài liệu hướng dẫn thực hiện Luật Quản lý thuế;…

b. Kết quả từ phía người nộp thuế.
Có thể thấy những kết quả tích cực mà người nộp thuế đã thực hiện như sau:
Thứ nhất: Ý thức tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế ngày càng được nâng cao, vai
trò của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác quản lý thuế từng bước được tăng cường. Nhiều tổ
chức, cá nhân hoàn thành tốt nghĩa vụ nộp thuế đã được cơ quan Nhà nước tôn vinh. Xã hội ngày
càng quan tâm nhiều đến công tác thuế, tích cực phối hợp với cơ quan quản lý thuế trong công tác
quản lý thuế, phản ánh và phê phán những hành vi trốn thuế và gian lận tiền thuế.
Ý thức chấp hành pháp luật thuế của người nộp thuế như: đăng ký, kê khai thuế được chủ động
hơn, tờ khai thuế nộp kịp thời và nội dung ghi trong tờ khai cũng cụ thể rõ ràng hơn, nhờ vậy tỉ lệ
tờ khai chưa nộp, quá hạn và lỗi giảm dần.
Đối với doanh nghiệp và người nộp thuế về cơ bản đã thực hiện được cơ chế tự khai, tự tính,
tự nộp thuế theo quy định của Luật quản lý thuế.

11


Thứ hai: chức năng quản lý thế đã thực hiện đạt được những kết quả tốt:
Một là: Việc thực hiện lập và gửi tờ khai thuế hàng kỳ của doanh nghiệp và người nộp thuế đã
tốt hơn: số lượng doanh nghiệp gửi tờ khai tăng, tỷ lệ gửi tờ khai đúng hạn cũng tăng. Số lỗi, sai
sót trong kê khai thống nhất cho doanh nghiệp đã giảm. Việc cung ứng chương trình kê khai vừa
tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong kê khai kiểm tra giảm sai sót, đối với ngành thuế công tác
kiểm tra, nhập dữ liệu trên tờ khai cũng nhanh hơn nhiều so với nhập từng chi tiêu và không bị

nhầm hay bỏ sót.
Qua cơ chế tự tính – tự khai – tự nôp thuế, Luật Quản lý thuế đã tạo ra hành lang pháp lý rõ
ràng để nâng cao ý thức của người dân trong xã hội về việc chấp hành nghĩa vụ với NSNN…
Hai là: Công tác quản lý và giải quyết hoàn thuế được kịp thời, đúng hơn do phân loại rõ các
đối tượng, trường hợp kiểm tra trước hoàn sau và trường hợp hoàn trước kiểm tra sau. Hồ sơ và hệ
thống thông tin để kiểm tra hoàn thuế đầy đủ và rõ ràng hơn. Cơ quan thuế cập nhật nắm và phân
tích được chi tiết số thuế hoàn, cơ cấu hoàn cho đầu tư, xuất khẩu và các trường hợp khác.
Ba là: Công tác quản lý nợ đọng thuế.Trên cơ sở những điều chỉnh của Luật Quản lý thuế,
ngành thuế đã xây dựng bộ máy quản lý nợ từ trung ương đến địa phương đã phân tích được
nguyên nhân nợ và tình trạng nợ trong toàn ngành, phân tích được cơ cấu, loại nợ từ đó triển khai
các biện pháp đồng bộ để xử lý dứt điểm nợ cũ, giảm thiểu nợ mới phát sinh, áp dụng các biện
pháp cưỡng chế để thu hồi nợ. Trên cơ sở đó có biện pháp quản lý thu nợ, xử lý nợ tồn đọng sát
thực và hiệu quả hơn, số nợ đã giảm về tỷ lệ (%) so với số thu.
Bốn là: Kết quả kiểm tra, thanh tra ngăn chặn, phát hiện kịp thời các trường hợp vi phạm
pháp luật thuế, truy thu NSNN số thuế ẩn lậu hàng trăm tỷ đồng. Công tác kiểm tra, thanh tra được
thực hiện đúng quy chế, quy trình đã góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế của doanh
nghiệp cũng như ý thức trách nhiệm của cán bộ thuế trong thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra.
Việc thực hiện thanh tra theo quy định của Luật quản lý thuế vừa tập trung được nguồn lực
để thực hiện công tác thanh tra đúng đối tượng theo sự phân loại tốt, chưa tốt, dựa trên mức độ
tuân thủ pháp luật, nhằm chống thất thu về thuế cso hiệu quả hơn và đặc biệt không làm phiền
những trường hợp đã thực hiện tốt pháp luật thuế.
Thứ ba: Về kết quả thu NSNN, nó không chỉ là một chỉ tiêu mà còn là một thước đo cơ bản,
quan trọng để đánh giá về chính sách thuế, công tác quản lý thuế và ý thức tuân thủ pháp luật của
người nộp thuế. Kết quả thu năm 2007 so với đự toán Quốc hội và Chính phủ giao cả thu nội địa
và thu của ngành hàng Hải quan đều vượt mức và tăng hơn năm 2006.
Thứ tư: Về cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa công tác QLT và Hải quan. Đây là mục
tiêu và là đòi hỏi khách quan của công tác QLT và Hải quan trong giai đoạn hiện nay. Các phần
mềm ứng dụng dùng chung thống nhất trong toàn ngành thuế được tăng cường bổ sung. Việc triển
khai hạ tầng mạng hiện đại, hoàn thiện mô hình mạng trực tuyến kết nối rộng toàn quốc bao được
nâng cao. Hệ thống biểu mẫu kê khai thuế, báo cáo thuế được đơn giản và chuẩn hóa hơn…


2.2. Những vướng mắc còn tồn tại trong công tác thi hành pháp luật thuế nói chung và
pháp luật Quản lý thuế nói riêng.
Công tác quản lý thuế còn tồn tại một số hạn chế như sau:

a. Hạn chế trong công tác của các cơ quan thuế, cán bộ thuế.
Thứ nhất: Một bộ phận cán bộ thuế, đặc biệt là cán bộ cấp cơ sở chưa được đào tạo lại hoặc
chưa nắm bắt kịp về kiến thức quản lý thuế mới nên còn lúng túng trong quá trình thực hiện. Cách
nghĩ, cách làm của một số công chức, viên chức chưa theo kịp tiến độ đổi mới; chưa thấy hết tính
ưu việt của mô hình tổ chức bộ máy theo chức năng với triển khai mạnh mẽ các ứng dụng công
nghệ tin học để chuyên môn hóa công việc và liên kết hóa các bộ phận của quy trình quản lý thuế,
nên hiệu quả công việc đạt được chưa như mong muốn.
Thứ hai: Theo quy định của Luật QLT, chỉ có các chức danh, chuyên viên chính của cơ quan
quản lý thuế mới được thực hiện thanh tra thuế. Hiện nay tại các địa phương, số lượng chuyên viên
chính, kiểm soát viên chính còn ít nên chưa đủ lực lượng để tổ chức các đoàn thanh tra thuế.
Thứ ba: Cán bộ thuế còn e ngại cơ chế một cửa. Trong công tác tuyên truyền hỗ trợ người
nộp thuế, các chi Cục Thuế trực thuộc đã cố gắng ưu tiên bố trí cán bộ thuế có năng lực, phong
cách ứng xử văn minh làm việc tại bộ phận “một cửa”, nhưng đa số đều gặp khó khăn trong việc
bố trí nhân sự, do thiếu biên chế.
Việc chuẩn hóa dữ liệu, số liệu của doanh nghiệp để xác lập đưa vào hệ thống phục vụ phân
tích, truy cập… chưa được xây dựng thống nhất; các phần mềm ứng dụng còn lỗi; phần mềm ứng
dụng theo dõi nhận, trả hồ sơ thuế chưa hoàn toàn phù hợp, nên phần lớn các chi Cục Thuế phải sử
dụng phần mềm tự viết, hoặc phải chạy song song cả hai phần mềm, rất khó khăn cho việc vận
hành và kết nối thông tin. Việc ứng dụng tin học hỗ trợ quá trình theo dõi nhận và trả hồ sơ kết
xuất theo yêu cầu, điều này gây khó khăn cho bộ phận “một cửa” khi theo dõi, đánh giá việc thi
hành của bộ phận khác.
Thứ tư: Thực hiện quản lý thuế theo mô hình chức năng là phù hợp với xu hướng phát triển,
trong đó kết quả chất lượng quản lý là kết quả của hệ thống chức năng, hoạt động của khâu trước
phục vụ công việc tiếp theo của khâu sau. Nguyên tắc quản lý của mô hình tổ chức bộ máy theo


12


chức năng đòi hỏi phải có các quy trình, quy chế phối hợp giữa các bộ phận, nhằm gắn kết chặt chẽ
các chức năng trong quá trình thực hiện quản lý. Không chỉ thế, các quy trình, quy chế này phải
thường xuyên được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện trong quá trình phối hợp thực hiện công việc cụ
thể ở mỗi chức năng mới, từ đó chuẩn hóa các quy trình theo hướng ứng dụng triệt để công nghệ
thông tin, đảm bảo cho công tác quản lý thuế được thực hiện đồng bộ, hiệu quả. Nhưng hiện nay,
cơ chế để nối kết các chức năng còn nhiều bất cập, thậm chí không ăn khớp. Công việc này triển
khai còn chậm so với tiến độ triển khai Luật Quản lý thuế, gây khó khăn không nhỏ cho công tác
khai thác, phân tích, sử dụng thông tin phục vụ quản lý thuế.
Thứ năm: Hiện nay việc thực hiện cải cách hành chính thuế ở nước ta còn gặp nhiều khó
khăn do cơ sở hạ tầng còn thấp, thiếu đồng bộ. Mặc dù ngành thuế đề ra mục tiêu thực hiện chiến
lược cải cách hướng tới một mô hình thuế hiện đại, chuyên nghiệp theo các chuẩn mực quốc tế.
Nhưng ngành thuế mới đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý mã số thuế, xử lý
tờ khai và chứng từ nộp thuế, kế toán sổ thuế, kế toán ngân sách, lập báo cáo thống kê, quản lý
công việc nội bộ. Mô hình thuế hiện tại mới tự động hóa một số khâu tính thuế và chưa thống nhất
quy trình xử lý thông tin các loại thuế.

b. Hạn chế xuất phát từ phía người nộp thuế.
Thứ nhất: Đối với người nộp thuế, đặc biệt là các hộ kinh doanh do kiến thức hạn chế, lại
phân tán rộng trên địa bàn khác nhau nên việc tiếp cận theo phương thức quản lý thuế bước đầu
còn nhiều khó khăn.
Thứ hai: Các doanh nghiệp trong cơ chế tự do kinh doanh nhưng chưa được chuẩn bị tốt về
mặt kỷ cương pháp luật trong việc thực hiện các chính sách của nhà nước và pháp luật, chưa chấp
hành đúng những quy định của pháp luật về chế độ quản lý sử dụng hóa đơn chứng từ, hạch toán
sổ sách kế toán, việc thanh toán bằng tiền mặt còn khá phổ biến…
Thứ ba: Tình trạng nợ đọng thuế vẫn tiếp diễn. Tình trạng vi phạm pháp luật về thuế (trốn
thuế, gian lận thuế…) ngày càng nghiêm trọng, phức tạp, phổ biến và xảy ra ở tất cả các tỉnh, thành
phố trong cả nước

Thứ tư: Việc xử lý vi phạm về thuế có nơi, có lúc còn gặp khó khăn như người nộp thuế vi
phạm nhưng không để số dư tiền gửi ngân hàng nên các biện pháp cưỡng chế như trích tiền gửi tại
ngân hàng không thực hiện được; hoặc tình trạng mua bán sử dụng hóa đơn bất hợp pháp vẫn còn
tồn tại, thanh toán bằng tiền mặt vẫn còn phổ biến…

3. Nguyên nhân của thực trạng.
• Nguyên nhân khách quan.
Thứ nhất: Pháp Luật quản lý thuế ở nước ta mới được đưa vào thực tiễn áp dụng cách đây
không lâu, quá trình kiểm tra thử nghiệm còn ngắn. Hơn nữa, kinh nghiệm lập pháp trong lĩnh vực
thuế nói chung và lĩnh vực quản lý thuế còn nhiều hạn chế. Vì thế mà còn những bất cập trong cơ
chế, chính sách là không thể tránh khỏi.
Thứ hai: Nền kinh tế mà nước ta đang xây dựng là nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội
chủ nghĩa – một mô hình kinh tế mà trước đây chưa có tiền lệ, đòi hỏi chúng ta phải tự tìm tòi sang
tạo. Tình hình kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn; cùng một lúc Nhà nước phải tập trung đối phó và
giải quyết nhiều vấn đề, vừa phát triển kinh tế vừa thu hút đầu tư lại vừa phải giải quyết những tồn
tại của xã hội. Vì thế, cơ chế chính sách thuế cũng phải phù hợp với quá trình phát triển của đất
nước và những định hướng cải cách của Nhà nước và Chính phủ.
Thứ ba: Pháp luật thuế nói chung và pháp luật quản lý thuế nói riêng hình thành và phát triển,
bị chi phối rất lớn bởi yếu tố khách quan từ bên ngoài. Trong cơ chế thị trường ở nước ta, pháp luật
thuế nằm trong giai đoạn hình thành, lien tục được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với sự phát triển
kinh tế. Cùng với nó, các điều kiện về cơ sở vật chất và trình độ đội ngũ cán bộ có nhiều hạn chế
nên chúng ta chưa thể có được một hệ thống thuế hiện đại, toàn diện được. Vì thế, pháp Luật quản
lý thuế không có một điểm tựa, chuẩn mực để hình thành và phát triển.
Thứ tư: Nền kinh tế đất nước còn non trẻ, đang trong quá trình xây dựng, cơ chế, chính sách
ban hành còn thiếu tính ổn định, tính chiến lược lâu dài. Quan điểm chỉ đạo chung ở hầu hết các
ngành, các lĩnh vực là vừa làm vừa rút kinh nghiệm, sau đó sẽ hoàn thiện. Vì thế, nhiều khi chính
sách ban hành ra là nhằm giải quyết một số nhiệm vụ trước mắt, sau khi giải quyết xong thì chính
sách đó lại trở nên lạc hậu, không còn phù hợp nữa.
• Nguyên nhân chủ quan.
Thứ nhất: Do còn hạn chế trong nhận thức, do ít hiểu biết về kinh tế thị trường và do chủ

quan, nóng vội, chưa có cái nhìn toàn diện, khách quan và có chiến lược trong hoạch định chính
sách, xây dựng và ban hành pháp luật thuế. Pháp luật Quản lý thuế mới được ban hành, còn nhiều
thiếu sót, hạn chế, một số quy định chưa thay đổi theo những chính sách thuế mới được ban hành
và thi hành. Có thể thấy, sự thay đổi của các chính sách thuế và tình hình thực tiễn, buộc pháp luật
thuế cũng phải chạy theo, nên nó luôn trong tình trạng thiếu đồng bộ, không có tính ổn định.
Thứ hai: Do việc quy định trong chính sách thuế quá nhiều mục tiêu làm cho pháp luật thuế
càng phức tạp và thường xuyên phải thay đổi để đảm bảo các mục tiêu được thực hiện.

13


Thứ ba: Do kỹ thuật và trình độ lập pháp của nước ta còn yếu, nên Luật quản lý thuế cần
nhiều văn bản quy định chi tiết thi hành và hướng dẫn thực hiện. Bên cạnh đó, việc giải thích,
hướng dẫn tại các văn bản dưới luật, mặc dù đã tham khảo ý kiến của các đối tượng thực hiện
nhưng thực tiễn hoạt động sản xuất, kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi rất phong
phú và đa dạng, luôn phát sinh những yêu cầu mới mà chính sách không theo kịp.

III: Hoàn thiện pháp luật Quản lý thuế của Việt Nam.
1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật Quản lý thuế.
1.1. Tiếp tục hoàn thiện các văn bản luật thuế nói chung và các văn bản Luật Quản lý thuế
nói riêng.
Tiếp tục cải cách, hoàn thiện các sắc luật về thuế tương ứng:
Một là: Hệ thống thuế phải bao quát hết các nguồn thu và tăng thu, xác định, lựa chọn đúng
mục tiêu chưa thuế là kích thích điều tiết kinh tế, tăng thu cho NSNN và đảm bảo chính sách thuế
bình đẳng đối với các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư.
Hai là: Chính sách thuế phải được đơn giản hóa cả về mặt thuế suất lẫn thủ tục thu nộp,
đồng thời phải đảm bảo tác dụng tích cực trong phân phối, điều tiết thu nhập hợp lý, tạo ra cân
bằng xã hội.
Ba là: Bảo đảm chính sách thuế trong một thời gian dài, tạo điều kiện mở rộng khả năng
kiểm soát người nộp thuế, người thu thuế và cơ quan quản lý thuế.

Bốn là: Thu hẹp diện miễn giảm thuế nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược, phát triển kinh tế
xã hội, áp dụng nghiêm minh hình thức thưởng phạt trong quản lý thuế.
Năm là: Cải cách thuế theo hướng thích ứng với những cam kết quốc tế, bắt kịp tốc độ tự do
hóa thương mại và đầu tư, thu hút đầu tư thích ứng với sự tự do di chuyển vốn, lao động.
Luật quản lý thuế đã quy định khung pháp lý cơ bản để thực thi thống nhất các chính sách
thuế và thu NSNN. Để đảm bảo được Luật thực hiện theo đúng thời hiệu đã quy định và có tính
thực thi cao, Chính phủ, Bộ Tài chính đã khẩn trương soạn thảo và ban hành các văn bản pháp quy
hướng dẫn thi hành Luật, quy định chi tiết và cụ thể tất cả các nội dung quản lý thuế làm căn cứ
pháp lý cho tất cả các chủ thể chấp hành đúng pháp luật thuế.
Hiện nay, đa số các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác Hải quan còn nhiều
bất cập, không đồng nhất. Một số văn bản liên quan đến lĩnh vực quản lý thuế ban hành không rõ
ràng dẫn đến việc thực hiện chồng chéo và không minh bạch. Vì vậy, khi ban hành các chính sách,
quy định liên quan đến việc quản lý thuế nên có sự thống nhất giữa các ngành, tránh tình trạng
mạnh ai lấy thực hiện theo cách hiểu của mình.
Phải sớm hoàn thiện bộ quy trình nghiệp vụ quản lý trên cơ sở liên kết, ứng dụng công nghệ
thông tin để xây dựng, hoàn thiện và khai thác hiệu quả cơ sở dữ liệu người nộp thuế và các thông
tin khác, phục vụ công tác quản lý thuế. Đồng thời thực hiện thống kê, rà soát, hoàn thiện, sửa đổi,
bổ sung hệ thống mẫu biểu trong quản lý thuế (mẫu biểu trong Thông tư 60/2007/TT-BTC); đảm
bảo thống nhất, dễ hiểu, dễ thực hiện cho cả công chức thuế và người nộp thuế, phù hợp với
chương trình cải cách thủ tục hành chính của Chính phủ.
Ban hành văn bản pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động của cơ quan QLT theo hướng
tự do hóa. Theo đó, cơ quan quản lý thuế hoạt động như một doanh nghiệp, tiến hành xác định lợi
ích – chi phí trong hoạt động quản lý thuế của mình, chuyên nghiệp hóa đội ngũ cán bộ thuế, đánh
giá kết quả căn cứ vào các chỉ số hoạt động của bộ máy dân sự: cán bộ, nhân viên được trả lương
căn cứ vào thành tích của họ. Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan thuế bằng cách áp dụng
các nguyên tắc của thị trường như đã nêu trên sẽ giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan
này, tăng cường trách nhiệm của công chức quản lý thuế khi cung cấp dịch vụ cho người dân.

1.2. Nhà nước cần quy định và phát triển mạnh các hệ thống thanh toán qua ngân hàng.
Hiện nay, việc thanh toán bằng tiền mặt được người dân sử dụng rất phổ biến. Thói quen

này dẫn đến hoạt động quản lý nhà nước về tiền tệ rất khó khăn. Ngân hàng nhà nước khó kiểm
soát được khối lượng tiền trong lưu thông, vì vậy việc đề ra các giải pháp để ổn định giá trị đồng
tiền chưa được kịp thời. Hơn nữa, khi nền kinh tế sử dụng chủ yếu là tiền mặt sẽ dẫn đến chi phí in
tiền cao, đồng thời nhà nước khó kiểm soát được các giao dịch, quan hệ mua bán hàng hóa diễn ra
trên thị trường. Chính sự bất cập này đã dẫn đến việc các đối tượng nộp thuế có điều kiện để trốn
thuế, nhất là hoạt động mua bán hàng hóa cho người tiêu dùng, vì đây là khâu cuối cùng trong quá
trình kinh doanh của các doanh nghiệp. Khi các quan hệ mua bán hàng hóa buộc phải thanh toán
qua ngân hàng, nhà nước sẽ dễ kiểm soát được thu nhập của các tổ chức, cá nhân cũng như tạo
điều kiện cho cơ quan thuế quản lý tốt đối tượng nộp thuế. Vì vậy, pháp luật nên quy định thống
nhất các quan hệ mua bán hàng hóa phải thanh toán thông qua ngân hàng.
Để thực hiện được điều này cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan như Ngân hàng nhà
nước Việt Nam, kho bạc nhà nước, cơ quan thuế. Ngân hàng nhà nước phải quy định rõ những loại
quan hệ mua bán nào buộc phải thanh toán thông qua ngân hàng. Kho bạc nhà nước cần tiến hành
chi trả tiền lương vào tài khoản của các cá nhân nhận lương từ NSNN tại ngân hàng. Cơ quan thuế
thì phải quản lý mã số thuế của đối tượng nộp thuế tương ứng với số tài khoản của cá nhân và tổ

14


chức tại ngân hàng.
Vì vậy, ngân hàng nhà nước Việt Nam nên sớm ban hành văn bản buộc các tổ chức thực hiện
thanh toán qua ngân hàng đối với hoạt động mua bán hàng hóa, dịch vụ.

1.3. Nhà nước cần có biện pháp quản lý hóa đơn chứng từ hiệu quả.
Hiện nay, Chính phủ đã ban hành nghị định 89/2000/NĐ-CP quyết định về việc in, phát
hành, sử dụng quản lý hóa đơn chứng từ và Bộ tài chính cũng đã ban hành thông tư 120/2000/TTBTC hướng dẫn nghị định 89/CP đã quy định rõ những hành vi vi phạm chế độ hóa đơn chứng từ
và mức xử phạt cụ thể cho từng hành vi, tuy nhiên mức phạt cao nhất được quy định là 50 triệu
VNĐ, vẫn chưa đủ mạnh để răn đe những hành vi vi phạm về hóa đươn chứng từ.
Bộ tài chính cần có cơ chế quản lý hóa đơn thích hợp, nên hạn chế tối đa việc bán hóa đơn
cho các doanh nghiệp mà dần tiến tới để doanh nghiệp tự in hóa đơn sau khi đã đăng ký với cơ

quan thuế. Khi các doanh nghiệp tự in hóa đơn thì phải có trách nhiệm với số lượng hóa đơn do
mình phát hành nếu để thất thoát thì các doanh nghiệp đó phải có trách nhiệm bồi thường cho nhà
nước. Đồng thời, Bộ tài chính phải xây dựng định chế quản lý hóa đơn rõ ràng hơn. Các doanh
nghiệp phát hành hóa đơn phải chịu trách nhiệm với hóa đơn khi mình phát hành. Người thụ hưởng
hóa đơn có quyền kiểm soát hóa đơn vì đã ủy quyền cho bên bán hàng nộp thuế thay mình.
Để thực hiện tốt những đề xuất trên, nhà nước nên có văn bản quy định bảo vệ quyền sở hữu
của người mua hàng có hóa đơn hợp pháp, bằng cách công nhận quyền sở hữu hàng hóa, dịch vụ
của người mua hàng nếu có tranh chấp dân sự để tạo ý thức tự kiểm tra, kiểm soát đối với chứng
từ, hóa đơn của doanh nghiệp đã phát hành.

1.4. Chuyển đổi về cơ cấu tổ chức và quản lý theo mức độ tuân thủ.
Một quy trình chuẩn trong quản lý thuế sẽ tạo điều kiện thuận lợi để ngành thuế chỉ đạo các
biện pháp nghiệp vụ thống nhất và giúp cơ quan thuế địa phương thực hiện công tác quản lý thu
thuế một cách khoa học hiệu quả. Cơ cấu tổ chức của cơ quan thuế cần được sắp xếp thành những
bộ phận theo nhóm đối tượng nộp thuế với những chức năng chuyên sâu để quản lý và cung cấp
dịch vụ theo từng nhóm đối tượng nộp thuế.
Có thể chia đối tượng nộp thuế ra thành 4 nhóm: Nhóm tuân thủ tốt các nghĩa vụ về thuế (đa
số các đối tượng); nhóm tuân thủ nhưng đôi khi vẫn vi phạm; nhóm chống đối không muốn tuân
thủ; nhóm cố tình không tuân thủ (một số ít).Từ đó sẽ có những cách xử sự khác nhau. Việc phân
loại này nên tập trung vào các yếu tố bên trong của hành vi không tuân thủ để qua đó có các biện
pháp khác như: tăng cường hỗ trợ, hướng dẫn hay thanh tra, kiểm tra, áp dụng các biện pháp cưỡng
chế… đối với từng mức độ tuân thủ nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thuế, đồng thời củng cố sự tin
tưởng của xã hội đối với cơ quan thuế.
Hoàn thiện những quy định của pháp luật về quản lý thuế là yêu cầu cấp thiết hiện nay bởi
nếu hệ thống pháp luật còn bất cập, không đảm bảo công bằng về nghĩa vụ đóng góp của các chủ
thể trong xã hội sẽ dẫn đến bất công trong xã hội. Có một hê thống thuế hoàn thiện và công bằng
cũng như cơ chế quản lý thuế thích hợp sẽ giúp các chủ thể trong xã hội nhận thức được rằng thực
hiện tốt nghĩa vụ thuế đối với nhà nước vừa là quyền vừa là nghĩa vụ. Số thu từ thuế sẽ hoàn trả
gián tiếp cho người dân thông qua việc xây dựng các công trình công cộng, đảm bảo các chính
sách về mặt xã hội và tăng lũy cho nền kinh tế.


2. Giải pháp đảm bảo cho quá trình thực thi pháp luật Quản lý thuế nói riêng và pháp
luật thuế nói chung.
2.1. Nâng cao vai trò của cán bộ quản lý thuế.
Đội ngũ công chức, viên chức thuế cần được tiêu chuẩn hóa chức danh, ngạch công chức
theo chức năng để làm cơ sở biên soạn tài liệu, xây dựng bản kế hoạch quản lý, xây dựng quy chế
và tổ chức triển khai đào tạo, bồi dưỡng có hệ thống, chuyên sâu, chuyên nghiệp với đầy đủ các kỹ
năng cần thiết, đảm bảo thực thi tốt công vụ, và cũng tạo điều kiện để Cục Thuế triển khai luân
chuyển công việc, địa bàn đối với công chức, viên chức hiệu quả hơn.
Trên cơ sở tiêu chuẩn hóa chức danh công chức theo chức năng và nhu cầu công việc, cần
phân cấp tuyển dụng để các Cục Thuế chủ động hơn trong công tác tổ chức nguồn lực theo chức
năng, đảm bảo phù hợp, chất lượng, hiệu quả, góp phần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Đồng thời, phải tạo môi trường làm việc tốt cho cán bộ thuế với các chế độ đãi ngộ phù hợp,
có thể quy định tiền lương của cán bộ thuế cao hơn các ngành khác giúp cán bộ thuế chuyên tâm
làm việc hiệu quả, tránh tình trạng cán bộ thuế vi phạm đạo đức nghề nghiệp.

2.2. Nâng cao sự tuân thủ tự nguyện của đối tượng nộp thuế.
Làm tăng sự tuân thủ tự nguyện của người nộp thuế thông qua các dịch vụ hỗ trợ đối tượng
nộp thuế là một trong những chiến lược lâu dài và hiệu quả nhất của quản lý thuế. Hình thức thực
hiện các dịch vụ hỗ trợ này thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất: Các dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế được cung cấp nhanh chóng kịp thời, thuận
tiện nhất cho người nộp thuế, đối tượng nộp thuế giao tiếp với cơ quan thuế qua một cửa, tiếp xúc
dễ dàng… tiết kiệm chi phí, thời gian cho người nộp thuế.
Thứ hai: Tiến hành cung cấp các hình thức dịch vụ phong phú đa dạng cho đối tượng nộp

15


thuế như xây dựng các trung tâm tư vấn thuế, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ qua mạng gồm: đăng ký,
kê khai thuế, nhận thông báo thuế bằng mail hoặc mạng điện thoại, nộp thuế điện tử, cung cấp các

thông tin về chính sách, thủ tục thuế, cung cấp các ấn phẩm, tài liệu hướng dẫn chuyên sâu về pháp
luật thuế.
Thứ ba: Tạo nhiều kênh liên lạc với người nộp thuế, với các đại lý thuế để lắng nghe ý kiến
phản hồi về sản phẩm dịch vụ của cơ quan thuế. Thường xuyên tìm hiểu nhu cầu của đối tượng
nộp thuế và xã hội thông qua các cuộc điều tra, khảo sát hàng năm.
Thứ tư: Các cơ quan thông tin đại chúng, hệ thống giáo dục quốc gia có trách nhiệm đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về các chính sách thuế để mọi tổ chức, cá nhân hiểu rõ và tự
giác chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật thuế. Biểu dương các tổ chức, cá nhân thực hiện tốt nghĩa
vụ thuế, đồng thời phê phán mạnh mẽ các hiện tượng vi phạm pháp luật thuế.
Thứ năm: Tăng cường trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc phối hợp với cơ quan
thuế như: cung cấp thông tin, điều tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo và các biện pháp
hành chính khác để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật thuế.
Vì vây, Nhà nước phải xây dựng được hệ thống pháp luật thuế hoàn thiện, những quy định về
quản lý thuế phải hiệu quả, đảm bảo thuế vừa là nguồn thu chủ yếu của NSNN, vừa là công cụ kích
thích nền kinh tế phát triển lại là công cụ điều tiết thu nhập và thực hiện công bằng xã hội.

2.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế nhằm ngăn ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời các
trường hợp vi phạm pháp luật về thuế. Ngành thuế tăng cường phối hợp với các cơ quan pháp luật,
cơ quan quản lý thị trường và các ngành khác có liên quan để đấu tranh chống buôn lậu, gian lận
thương mại, trốn thuế, lậu thuế.
Tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn việc kê khai thuế cho người nộp thuế; thực hiện ấn
định thuế đối với trường hợp người nộp thuế vi phạm pháp luật về thuế. Nắm chắc tình hình sản
xuất, kinh doanh dịch vụ của người nộp thuế, thực hiện rà soát, điều tra để xác định mức khoán của
các hộ kinh doanh cho phù hợp với kết quả sản xuất, kinh doanh dịch vụ. Phối hợp với các ngành
liên quan đẩy mạnh công tác thanh tra, điều tra, phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi chuyển giá,
trốn thuế, gian lận thuế, đặc biệt là hành vi tội phạm buôn bán và sử dụng hóa đơn bất hợp pháp để
chiếm đoạt tiền thuế của NSNN.
Hiện đại hóa công tác thanh tra thuế để đẩy mạnh kiểm tra thực hiện các luật thuế. Hệ thống
thanh tra nhà nước, thanh tra tài chính, thanh tra thuế có quyền và có trách nhiệm tổ chức công tác

thanh tra thuế. Các cấp chính quyền có trách nhiệm và kiểm tra việc thi hành luật thuế trên cả hai
mặt: kiểm tra người nộp thuế có nghĩa vụ thi hành nộp thuế và kiểm tra tổ chức thu thuế và cán bộ
thi hành luật thuế.

2.4. Tăng cường cở sở vật chất, máy móc, trang thiết bị, công nghệ hiện đại phục vụ cho
công tác Quản lý thuế.
Quản lý công tác thuế theo mô hình thuế điện tử đã được ngành thuế xác định là một trong
những điểm cốt yếu nhất trong việc thực hiện chiến lược cải cách của mình.
Trang bị hệ thống máy tính hiện đại cho các cục, chi Cục Thuế, cùng với nó là áp dụng phần mềm
phục vụ công tác quản lý thuế. Những nội dung cần được triển khai nhằm nâng cao hơn nữa hiệu
quả quản lý thuế là: triển khai việc kê khai thuế qua mạng máy tính nhằm tiết kiệm thời gian, chi
phí giúp quá trình kê khai, kiểm tra đơn giản, thuận tiện hơn. Cần có quy định về kê khai thuế, quá
trình xử lý dữ liệu kê khai thuế, cơ chế khuyến khích kê khai thuế qua mạng… Tích cực áp dụng
công nghệ thông tin vào công tác tư vấn thuế, dịch vụ hỗ trợ đôi tượng nộp thuế.
Tuyên truyền, giáo dục pháp luật theo hướng đa dạng hóa việc sử dụng các phương tiện
truyền thông làm cho tất cả các đối tượng nộp thuế có thể nắm bắt nội dung pháp luật nhanh chóng
đầy đủ… Khuyến khích, đẩy mạnh các hoạt động tư vấn, cung cấp dịch vụ về thuế, kế toán, đại lý
thuế nhằm giúp cho tổ chức, cá nhân nộp thuế hiểu rõ các quy định của pháp luật về thuế, làm tốt
công tác kế toán, thực hiện đúng nghĩa vụ và trách nhiệm của mình.

C. KẾT LUẬN
Nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam trong những năm qua đã có sự
phát triển mạnh và ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế đã trở thành một xu thế khách quan trong tiến trình phát triển kinh tế thế
giới, Việt Nam không ngừng nỗ lực từng bước tham gia vào quá trình hội nhập cùng với việc thực
hiện các cam kết quốc tế về thuế với các nước trên thế giới và trong khu vực. Trong quá trình cải
cách hệ thống chính sách thuế nói chung và pháp luật Quản lý thuế nói riêng, bên cạnh việc đáp
ứng yêu cầu phù hợp với những thay đổi của hoàn cảnh thực tế của Việt Nam còn phải tuân thủ
những điều khoản mà Việt Nam đã ký kết khi tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực, đồng
thời phải có sự tương đồng với pháp luật các nước. Pháp luật Quản lý thuế là một bộ phận không

thể thiếu của hệ thống pháp luật thuế, là một trong những công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng. Hoàn
thiện pháp luật Quản lý thuế sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển hơn.

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thuế Việt Nam, TS. Phạm Thị Giang Thu
(Chủ biên), NXB. CAND, Hà Nội, 2008.
2. Luật quản lý thuế năm 2006.
3. Nghị định 106/2010/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 85/2007/NĐ-CP hướng dẫn Luật quản lý
thuế và Nghị định 100/2008/NĐ-CP hướng dẫn Luật thuế thu nhập cá nhân.

4. Thông tư 28/2011/TT-BTC ngày 28/02/2011 thay thế Thông tư 60/2007/TT-BTC
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế, hướng dẫn thi hành Nghị định
số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 và Nghị định số 106/2010/NĐ-CP ngày 28/10/2010
của Chính phủ.
5. Nghị định số 97/2007/NĐ-CP ngày 7/6/2007 của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm
hành chính và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực Hải quan.
6. Thông tư 79/2009/TT-BTC do Bộ Tài chính ban hành ngày 07/4/2009 thay thế Thông
tư số 59/2007 và Thông tư số 05/2009 hướng dẫn về thủ tục Hải quan; kiểm tra, giám sát
hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu.
7. Nghị định số 98/2007/NĐ-CP ngày 7/6/2007 của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm
pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
8. Quyết định số 76/2007/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu của
Tổng Cục Thuế trực thuộc Bộ tài chính.
9. Thông tư số 62/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ tài chính hướng dẫn thi hành nghị
định số 97/2007/NĐ-CP ngày 7/6/2007 của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm hành
chính và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực Hải quan…

10. Thông tư số 61/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện xử
lý vi phạm pháp luật về thuế.
11. Pháp luật quản lý thuế ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và hướng hoàn thiện: Khoá
luận tốt nghiệp/ Đinh Thị Thu Hà; Hà Nội, 2009.
12. Thông tin về người nộp thuế trong pháp luật quản lý thuế ở nước ta hiện nay/
ThS.Vũ Văn Cương, Tạp chí Luật học. Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 4/2009, tr. 3 – 12.
13. />14.

/>
hien-Van-con-vuong-mac.htm
15. />
17



×